← Quay lại trang sách

Hộp bí mật *-Khói

Năm nào gặp trong bài học tiếng Pháp, câu chuyện về hai đứa bé khi khám phá những ngăn tủ cũ đã phát hiện ra những bí mật của bà ngoại trong cái hộp cũ kỹ, là những mảnh vải cũ, những cái kim, sợi chỉ và những bức thư tình.

Chúng thì thầm rồi thốt lên với nhau những tiếng rú, rồi cười rũ rượi với những thứ đồ vật vớ vẩn kia.

Mình nhớ hồi nhỏ nhà mình cũng có một cái hộp, gọi hộp khâu. Là cái hộp đựng kim chỉ, cúc áo cũ, dây kéo quần… Nó nguyên là một cái hộp kẹo chocolate bằng sắt, ông bố mang ở nước ngoài về năm 1956. Kẹo ăn hết từ 1956 nhưng cái hộp khâu tồn tại đến 1976, suốt hai mươi năm khi mình rời Hà Nội vào Sài Gòn thì cái hộp ấy vẫn cứ nằm trên tủ. Những cái cúc áo làm cho hộp đầy dần, như một chứng tích của từng thời kỳ. Cái của chiếc sơ mi kiểu chiết li của bà chị thời những năm 1960. Cái của chiếc áo lính ông anh trai gửi về cho thằng em năm 1972 trước khi vào Nam (hồi đó đám choai choai Hà Nội như mình thích mặc áo lính, đội mũ cối, đi dép đúc, phóng xe đạp ngoài đường, trêu gái và đánh nhau). Cái thì của chiếc quần bò đầu tiên được mặc thời Hà Nội mở cửa. Cái của chiếc “pa đờ xuy” cũ kỹ kiểu lính tẩy của ông bô từ thời Pháp thuộc… Cái hộp khâu như một bảo tàng, nhìn nó là thấy lại cả một thời.

Nhưng trong đó cũng có một mẩu gấu áo len đan tay, nó là một bí mật của mình mà nếu sau này trời có cho trở thành cỡ “Marquez” thì mới đủ sức nói ra. Nói thế để thấy là chắc chả bao giờ có ngày đó! Hoặc là đến lúc nào đó phải tự huyễn hoặc mình, rồi nốc vài chai, may ra...

Thời bây giờ người ta hay nói đến những cái “ngăn kéo” trong cuộc đời mỗi người. Mình cũng có một vài cái ngăn kéo, nhưng chả thấy cái ngăn nào bằng cái hộp khâu có chứa mảnh gấu áo len nọ.

Nhưng có một cái hộp vô hình, phi vật thể, là cái inbox.

Inbox là cái chứa vô cùng tận những bí mật riêng tư. Trong đó là những bí mật, những con người, những tâm trạng và những tình huống muôn màu sắc. Mình cứ thấy rộn lên khi trên màn hình con chữ đó nổi lên cái màu đen đậm, cho dù sẽ nhận trong đó một lời yêu thương, hay chửi bới diễu cợt.

Mình nghĩ cái inbox của mỗi người phải là một nơi chốn bất khả xâm phạm của chính chủ nhân, không ai khác dù là bố, mẹ, vợ chồng, bồ bịch… nên (và được phép) mở cái cánh cửa bước vào.

Khói

.

Có một con đường hay đưa ta về hoài niệm. Con đường ấy mong manh, ngoằn ngoèo, mờ ảo. Khiến ta lan man, vật vờ, nhung nhăng, mây gió.

Ta hay bắt gặp, rồi bị cuốn đi vào lúc buổi chiều. Là khói.

Chiều cuối năm tĩnh lặng. Thắp nén hương đợi phút giao thừa, có gì thiêng liêng hơn. Làn khói mỏng bay lên như vẽ một đường lên trời, kết nối không gian và thời gian. Những cõi người, âm và dương, quá khứ và hiện tại, còn và mất, hôm nay và hôm qua.

Có ngày hôm qua bên bếp lửa.

Những người đàn bà ngồi đun mỗi buổi sớm chiều. Lửa làm khô nứt khuôn mặt, hắt lên tường cái bóng hình khăn vuông mỏ quạ, im lìm như một bức tranh. Những ngày mưa làm rạ ẩm, mắt mũi cay xè. Nhưng những người đàn bà không giụi mắt.

Và những mái nhà.

Khói luồn qua khe, vật vờ mái lá. Khói dùng dằng bay, như không lên nổi trong làn mưa, trong không khí nằng nặng hơi ẩm buổi chiều.

Khói là con đường đi về nỗi nhớ. Chiều Tây Bắc của Quang Dũng không thoát khỏi con đường này:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Đấy là con đường đi về cõi tâm linh.

Trong đời sống thật, khói không hiền lành, mong manh như thế.

Ngùn ngụt đống lửa đồng chiều. Người ta đốt những gốc rạ chuẩn bị đất để mùa sau. Những cái lò gạch cũ nhả khói vào bầu trời. Đống lửa sưởi ấm, hun chuột hay thui một con vịt bọc đất mới bắt trộm được của trẻ chăn trâu. Khói làm mờ đi một vệt núi, vạt một góc đồng, hay che khuất mái chùa chập chờn trong sương. Có khi nhuộm trắng một buổi chiều.

Khói còn nhuộm ra màu, trầm như màu thời gian.

Đòn gánh, thúng mủng, rổ rá, nong nia, giần sàng còn nguyên tre tươi, gác lên gác bếp. Khói thấm vào, nhuộm ra một màu như bén cháy. Người tôi ngoài nắng, tre tôi bếp lửa.

Ấy là khói đồng quê.

Có đám khói không phun ra từ lửa, là những đám khói đô thị. Chúng hung bạo.

Những cái ống thổi vào bầu trời làn khói đen kịt nhuộm xám cả bầu trời.

Những luồng khói xả vào mặt người đi trên phố.

Những làn khói vật vờ bên hố bom. Vành khăn tang trắng phố Khâm Thiên mùa Noel 1972, chỉ còn mấy tháng nữa là hòa bình.

Những làn khói khen khét mùi lửa đạn chân cầu Sài Gòn, vào những phút cuối cùng của cuộc chiến tranh.

Vừa lúc nãy thôi, bản tin trưa của VTV, ở một tỉnh miền Trung, những cột khói bốc lên sau tiếng nổ của những trái bom còn sót lại.

Đám khói ngùn ngụt ở một góc thành phố sau vụ đánh bom hôm qua trên đất nước của “một nghìn một đêm lẻ”. Lại xác người, máu chảy, làn khói vật vờ bên đống tường đổ nát.

Và hôm nay trong ngôi nhà, xa rồi bếp lửa chiều hôm.

Không có lửa, không có khói. Vì bây giờ đã có những cái bếp không cần lửa, hay loại lửa không có khói. Bếp ga, bếp từ, bếp điện, lò vi sóng… Những cái bếp không làm cay mắt người. Không mùi, không vị, không tan…

Và đôi khi, mắt ta cay vì nhớ khói.