Quê
Thị dân sống ngoài kẻ chợ dù có thay hình đổi dạng thì thực chất vẫn cứ mang trong mình một sợi dây kết nối, rang buộc với cái nơi gốc gác của mình. Nơi ấy đất đã bơm đậm vào từng sản vật của nó những vị ngọt bùi, chua cay, đắng chát mà người đi xa muôn đời vẫn cứ canh cánh một nỗi thèm.
Sài Gòn sáng cuối năm, ngồi trong cái se se “rớt lạnh” như từ Hà Nội thổi vào, nhà hàng Cốm Xanh với những món mang hương vị Bắc. Bát bún ốc, đĩa bánh cuốn, tô cháo lòng, bát miến ngan, đĩa xôi khúc, chả phải của ngon vật lạ gì mà đắt như cao lương mỹ vị, mà vẫn đông nghịt, đa phần là khách “nhập cư”. Nghe lao xao nhiều giọng nói, những âm sắc xứ Nghệ đã nhẹ đi rất nhiều, Hải Phòng hay Hà Nội thì ngôn từ cũng đã chịu ảnh hưởng nhiều của Sài Gòn. Nghe những chất giọng pha trộn từ nhiều vùng miền ấy, rồi nhìn người ta ăn, chợt nghiệm ra rằng, người ta có thể đổi giọng, pha tiếng nhưng cái “miệng ăn”, cái tình với mấy thứ thuộc “đồng quà tấm bánh” ấy thì còn thấm đậm và âm ỉ lắm, chả dễ gì suy xuyển được. Đôi lúc người ta nghĩ đến quê có khi chỉ từ mấy miếng ăn. Có lẽ quê hương cũng là ở những gì rất trần thế, cụ thể, chả phải cao siêu gì.
Thế nào là dân tỉnh? Người ta hay nói về người Hà Nội. Thế thế nào là người Hà Nội gốc, thực ra rất khó định nghĩa. Mỗi một người Hà Nội đều đến từ một vùng quê nào đó, có thể là từ thuở rất xa.Từ một cái làng, thuộc một phủ, một tổng của một tỉnh, một vùng miền. Sống nhiều đời thì bớt dần chất “quê” và thêm dần chất “thị”. Nhưng vẫn còn cái mớ quan hệ họ hàng nhằng nhịt ở quê mà nhờ nó, như sợi dây liên hệ, mỗi gia đình vẫn còn một “phần quê” trong mình. Rồi là sự đi lại thăm thú lẫn nhau. Người tỉnh về quê ăn giỗ, lúc giặc giã chạy về quê lánh nạn. Người quê ra tỉnh thăm họ hàng, ăn cưới, dự đám ma, đi chữa bệnh. Mỗi lần thăm thú là một lần quà cáp. Ngày xưa dân Hà Nội mang về quê mấy cái bánh mì mậu dịch, chai xì dầu, gói kẹo cứng Hải Châu, bánh quy gai, quy xốp. Quý hóa lắm. Khách quê ra là bu gà, nải chuối, gánh khoai, vài cân gạo nếp. Cũng quý hóa lắm.
Người quê rất trọng khách, mỗi khi khách tỉnh về, họ đón như thượng khách. Được tin về là nhốt gà từ hôm trước, mới nghe tiếng còi toe toe tít ở đầu làng là đã cuống quít, là quáng quàng áo xống, chạy vội chạy vàng ra đón rước. Có bể nước mưa tích trữ nấu ăn cả năm nhưng vẫn múc đầy chậu thau cho khách rửa mặt. Cơm rượu bày ra trên mâm, khách tháo giày tây, cởi áo vét, khoanh chân đĩnh đạc trên phản rồi mà chủ vẫn cứ xoa hai tay vào nhau mời mời mọc mọc, lúng ta lúng túng. Rồi thì sai vợ, quát con.
Xưa cơm nhà quê đãi khách, thuần túy là gà luộc, cỗ lòng xào su hào, nước dùng nấu bát canh bí xanh. Bát cơm thơm thơm mùi gạo mới. Bát canh, đĩa xào có cái mùi oi khói rơm rạ. Khách thích chí gắp gắp chan chan, rồi tợp ngụm rượu gật gù.
Nay cơm quê đãi khách cứ lưỡng lự, nửa quê, nửa tỉnh. Đã đành là vẫn gà luộc, lòng xào, bát canh khoai sọ, nhưng còn có đĩa giò lụa, chả quế, giá được giò chả Ước Lễ thì tốt quá, nhưng có nhà lại cầu kỳ “mật báo” cho con ngoài Hà Nội mua về thêm giò chả chợ Đồng Xuân. Có mâm cơm đã đặt lên bát su hào nấu mọc. Tỉnh thành rồi. Khách trách khéo nhà mày vẽ chuyện. Nhiều nhà giàu nhà quê bây giờ mang bia ra mời, khách thì cứ nằng nặc đòi rượu sủi tăm nút lá chuối. Một đằng thì muốn tỏ ra cho sang, một đằng lại cứ thèm khát cái vị tự muôn đời cho lạ cái miệng quen uống rượu tây.
Khách ra về thì cố dúi vài quả bưởi, mấy túm bánh nếp, lủng lẳng ra xe.
Cái anh thành thị về quê đôi lúc có gì hơi kẻ cả. Xoa xoa đầu trẻ con, phát cho dăm ba cái kẹo. Rồi giở chứng, đòi nào là gà quê, gạo quê, đôi lúc cất giọng lả lơi đòi cả “gái quê” nữa. Gái quê xưa gặp khách tỉnh về là cứ phải đứng túm tụm vài ba em, bá vai nhau, má phây phây hồng, sơ mi phin nõn chật căng cứng bộ ngực, nghe giai tỉnh tán thì rúc vào lưng nhau cười rinh rích. Đứa nọ đun đẩy đứa kia. Nay dạn rồi, má đã bôi crème Trung Quốc chứ chả phải thứ thuốc nẻ như sáp nến nữa. Quần jean trễ nải, bá vai bá cổ giai rồi. Vài ba trí thức tỉnh về cứ chép miệng chết chết, rồi than phiền nhiều nhà tầng, nhiều nhà gạch, mất hết làng, mất hết làng. Dân quê đang hí hửng với căn nhà mới xây nhờ tiền tích cóp từ việc đi lao động, buôn bán ở nước ngoài, chả hiểu đầu cua tai nheo thế nào cứ đực mặt ra cười trừ. Đôi khi dân thành phố cứ ích kỷ thế nào. Các bác trí thức, các nhà văn hóa tỉnh về quê cứ đòi giữ vẻ đẹp hồn làng, có bờ tre ao cá, có đống rơm đống rạ, cho họ lượn gót giày tây đi ngắm cảnh, để có cảm xúc viết văn. Nhưng mà chả ai chỉ ra được cho người quê biết phải xây nhà thế nào để họ sống cho ra người. Chả lẽ cứ phải giữ mãi mái tranh, mái rạ, chuồng lợn, chuồng bò cho các bác về chiêm ngưỡng vẻ đẹp thôn dã?
Nhưng dân quê ra tỉnh làm khách thì thương lắm. Rụt rà rụt rè, khép na khép nép. Là ra thăm nhà của con của cháu đấy, mà cứ như ở nhà ai. Bây giờ ngoài tỉnh cái gì của quê cũng có, mùa nào thức ấy, tôm cua ốc ếch, chim ngói, cốm xanh, nên quà gì cũng bớt quý đi. Đôi lúc có đứa con vô ý nhìn mẹ mang bu gà còn mắng sa sả “mang xách làm gì cho nhọc”. Chứ ngày xưa quý lắm. Có lẽ bắt đầu từ sự quý người, rồi ra quý của.
Xưa không thế. Có ông bà nọ ở Hà Nội khoảng ba đời. Ông là trí thức thời Tây, bà là bà đỡ, nghĩa là làm nghề đỡ đẻ, cũng từ thời Tây. Cứ xem cách sống của họ, ga giường nệm trắng, bàn ăn, bàn nước sạch sẽ tinh tươm, thì tưởng ra, với dân quê là xa cách lắm. Nhưng mà không phải. Khách quê ra nhà họ như ra nhà người ruột thịt. Đau ốm thì nhờ bà đưa đi chữa bệnh, bụng to thì nhờ khám thai, thậm chí có chị hồi thời chiến, đàn ông trong làng vợi cả, mà lại chửa hoang, cũng lại ra nhờ bà đưa đi “giải quyết”. Lại được kín tiếng, chứ cái chuyện ấy ở làng là hệ trọng, vỡ lở là hỏng cả đời người. Bà giúp tuốt. Nhà thờ họ có chuyện tranh chấp, cũng lại ra nhờ, vì ông là đại biểu Quốc hội. Ông nghị gật già yếu cứ nằm trên giường mắt lim dim mà nghe chuyện. Bà thì ngồi khâu vá. Khách quê ngồi ngay trên đệm giường trắng tinh tường trình nguyện vọng. Xong việc ra về chào hỏi một cách rất tả chân: “Ông nằm, bà ngồi, nhà cháu xin phép”! Thế là dù đi khám viêm gan, đẻ đái, chửa hoang hay kiện tụng thì ra về cũng để lại ngoài sảnh khi cặp gà giò, lúc bao gạo, hoặc có lần là cả gánh khoai mà có thể đến một nửa là khoai hà. Có nhiều hôm, khách quê ngủ lại, bà cho nằm cùng giường, chả ngại gì hôi hám. Chỉ nhắc khách, “mày nhớ rửa chân”!
Hồi ấy quê và tỉnh là như thế, chả có gì là thiêng liêng đến nỗi phải lên gân lên cốt hay là hét rống lên. Chả có những tiếng thốt lên “ôi quê hương”… Cứ bình dị, tự nhiên mà sống, mà nồng nàn với nhau.
Năm nay quê xa thì đã một phần mà quê gần thì lọt hẳn vào Hà Nội mất rồi. Nội ngoại bây giờ trong Hà Nội cả. Thành ra về quê ở Thanh Oai hay Phủ Khoái cũng như chạy lên chợ Bưởi hay xuống Thanh Trì. Về Ước Lễ mua mấy cân giò chả cũng chả khác gì phóng xuống chợ Mơ mua vài bìa đậu phụ, hay lên Bưởi làm nửa cân thịt chó, hay mấy miếng lợn quay.
Đường về quê ngày một gần, tết phóng về làng mà lòng vời vợi một nỗi nhớ xa.