← Quay lại trang sách

Ngồi *-Khóc, cười

Ngẫm cái sự ngồi ở ta, nó cũng có nhiều kiểu, nhiều cách và để làm nhiều việc.

Các cụ ngày xưa thường thực hiện hầu hết công việc ở tư thế ngồi. Lúc đi làm đồng, mệt thì ngồi bệt xuống bờ ruộng, đàn ông ngồi bắn thuốc lào, đàn bà cẩn thận thì kê đít bằng cái mo cau, hay đòn gánh. Có khi chả cần, hạ luôn xuống đất, phe phẩy quạt bằng cái nón lá, cũng thỏa thuê.

Ở nhà thì ngồi đun bếp, vì bếp rơm bếp rạ. Ngồi mổ cá, làm gà. Ngồi sàng gạo. Ăn cơm thường ngồi xuống đất, đặt mâm nơi đầu hè, hay ngồi trên chõng. Cái bàn ăn phải mãi sau này, ra thành thị mới có. Ăn xong thì cắp rổ bát đĩa xuống ngồi rửa ở cầu ao. Đi ỉa thì ngồi xổm, vì làm gì có nhà toilet, “nhất quận công, nhì ỉa đồng”.

Ngồi có nhiều kiểu. Ngồi bệt, khi nghỉ mệt, hay trẻ con ăn vạ. Ngồi giẫy đành đạch. Ngồi xổm, khi chờ đợi, xem chọi gà, hay khi làm việc nhà. Ngồi xếp bằng trên chiếu khi tụng kinh, khi ăn cỗ, hay đánh bài.

Tắm ngồi cũng là một nếp quen của người Việt xưa. Có lẽ nó thể hiện sự kín đáo, phù hợp với hoàn cảnh, và tâm lý Á Đông. (Có lẽ với người phụ nữ Á Đông xưa, khỏa thân khi đứng là một sự lõa lồ quá thể, dù ở một chốn rất riêng tư?). Nhà quê không có nhà tắm, đôi khi chỉ quây tấm cót lại ở một góc vườn để che. Người phụ nữ ngồi tắm lúp xúp trong đó, chỉ thấp thoáng mái tóc đen.

Các tư thế ngồi đã trở thành thói quen cố hữu trong đời sống, trong sinh hoạt, nó truyền đời từ hàng nghìn năm, nên nó ăn vào máu, vào nếp.

Cho đến bây giờ vẫn thế!

Ở chợ người Hà Nội, những đám người mũ cối, quần bộ đội, dép lê, ngồi chồm hổm chờ việc bên hè.

Ở công viên, hay bờ hồ Gươm, thanh niên vẫn mũ cối, dép nhựa nguyên đôi, ngồi xổm trên ghế đá.

Có dạo ở đường Nguyễn Thái Học có một dãy các anh thợ khóa, complet Tàu cả loạt, ngồi ngay ngắn, thẳng hàng, mỗi anh một thùng gỗ trước mặt, nom như nghệ thuật pờ pho mân (perfo- mence), thật thích mắt.

Trong nhiều cuộc họp, không ít người ngồi giả vờ đăm chiêu, giả vờ chú ý, ghi ghi chép chép ý kiến lãnh đạo, giả vờ thán phục trước những ý tưởng rất tầm thường và nhàm chán, nhưng được nói ra với cái vẻ quan trọng, cao siêu.

Ở nghị trường, nghị sĩ từng hàng đều tăm tắp ngồi ghi ghi chép chép và biểu quyết nhất trí.

Quan chức có vài người “ngồi xổm” trên dư luận. Và nhiều ông thích ngồi lâu, ngồi dai, thành ra rất dễ nghĩ dại.

Nhiều người sống ở Hà thành hay có kiểu ngồi lê đôi mách. Ngồi quán nước vỉa hè, ngồi co ro, tay đút túi, đùi rung rung (vì trời rét). Có khi bàn cả chuyện chính trị.

Giữa phố phường, mấy bà đồng nát ngồi với quang gánh, thúng mủng, soạn mấy món hàng mua được, là sách báo cũ. Thỉnh thoảng mấy chị nhà quê quang gánh ngồi nghỉ mệt sau khi bán hết gánh rau, gánh chuối, để chuẩn bị về nhà.

Gánh cốm Vòng, hàng xôi, mẹt bánh cuốn Thanh Trì, bánh mì chả, trứng vịt lộn, ngồi bệt vỉa hè. Có cả khách complet, veston. Thúng đội đầu, đang “bánh mì lóng đê…” rồi bỗng dưng phệt một cái, thế là xổm ngay xuống đất, cân đo, đong, đếm, thu tiền giắt ruột tượng.

Người châu Âu trong sinh hoạt hay đứng. Khi làm bếp, khi giặt, là, khi tắm (vòi sen là một sản phẩm mang đặc tính cách ấy, phụ nữ thường thích tự ngắm mình khỏa thân trong gương). Các tiệm ăn nhanh, người ta chỉ để cái bàn cao, hay kệ tường, nhai nhanh uống vội, rồi đi. Ở ta ít những nơi như thế. Cứ là phải ngồi, và còn thích khề khà nhiều lắm.

Ngồi là trạng thái tĩnh, trạng thái của tư duy, có thể nẩy sinh ý tưởng uyên thâm, sâu sắc. Nhưng ngồi cũng là trạng thái của trì trệ và lười biếng, của chậm trễ và ù lì.

Đứng và đi là trạng thái động, là hành động và linh hoạt, là lưu chuyển.

Người ta bảo, thói quen tạo ra tính cách, tính cách tạo ra số phận. Đấy là nói về một cá nhân, nhưng với một dân tộc, chắc cũng vậy.

Khóc, cười

Con trai đầu vào tuổi mười tám, cũng bằng với số năm ông nội nó đi xa.

Mùa đông năm ấy, ông cụ đã vào tuổi tám mươi mà lại ra đi đương lúc còn khỏe, còn làm việc, khi đang dự một cuộc họp xét duyệt phương án thiết kế cho một công trình kiến trúc đặc biệt của thủ đô. Lần về thăm trước đấy, chào bố để đi mà lòng không một dự cảm xấu nào. Thì ra với người già, cuộc chia tay nào cũng có thể là cuộc chia tay lần cuối.

Nên từ đấy, cứ canh cánh trong lòng một nỗi lo mỗi lần về thăm mẹ. Nhất là vào cái lúc cúi xuống hôn lên hai gò má nhăn nheo luôn ướt bởi hai dòng nước mắt của bà cụ phút tiễn con cháu ra xe. Lo, nhưng cứ phải cười, để giấu đi cái lo và nỗi buồn. Suốt nhiều năm khi mẹ còn tỉnh táo, khi còn nhận biết được thì nỗi buồn xa cách và nỗi phập phồng mỗi lần tiễn con đi làm mắt bà rơi lệ. Nhưng người ra đi, là con, là cháu, cứ phải cười.

Rồi cái lẫn của tuổi già ập đến, nó thật lạ. Nhớ những điều rất xa nhưng lại quên những cái thật gần. Chuyện xửa xưa, thời Pháp thuộc, ra kháng chiến, lên Việt Bắc… kể ra như những thước phim tư liệu. Nhưng lại quên dần ngay cả những cái tên vốn rất quen thuộc của những đứa con, đứa cháu ruột thịt của mình. Rồi bỗng thành như trẻ con, vô lo nghĩ, ngẩn ngơ. Gặp con cháu là cười, con về thấy vui, cười. Con đi cũng chẳng biết buồn, vẫn cười. Gặp con cái cứ chào bằng bác. Tiễn con đi xa mà như tiễn khách, lại đôi lúc cứ nghĩ nó về nhà gần đâu đây, rồi mai nó lại đến.

Những lần chia tay trước, mẹ tiễn tận ra xe, mẹ khóc thì ta vẫn cười.

Còn bây giờ, mẹ không đi xuống nữa. Bà cụ đứng đó, trên những bậc cầu thang gỗ đã mòn vẹt bước chân người, trong suốt mấy chục năm. Những tiếng lọc cọc của đôi guốc mộc trên bậc cầu thang gỗ mỗi sớm mùa đông khi ta còn nằm trong chăn ấm vẫn văng vẳng đâu đây.

Tiễn con đi mà mẹ cứ cười, nhưng lòng ta bật khóc!

Mùa Vu Lan 2007