Người của con đường
Thế là ông chủ hàng cơm Pháp, quán Augustin - người hàng xóm bên kia đường, cũng là ông bạn vong niên khả kính, người đàn ông bệ vệ với khuôn mặt luôn viên mãn, cư dân già nhất của con phố, kẻ sót lại cuối cùng trong số người sống lâu nhất ở đây - đã ra đi. Cũng chả có gì đặc biệt, chỉ là cái chết già ở tuổi ngoài tám mươi, như xong một kiếp người. Nhìn qua lớp kính, khuôn mặt đầy đặn của ông có thể coi là mãn nguyện. Thế thì có gì mà buồn, một đám tang không tiếng khóc, chỉ tiếng kèn réo rắt nhà đòn cho thấy là nhà có đám, còn là vui, khách tây khách ta ngồi cụng ly đưa ông về nước Chúa.
Nhưng ông đi rồi, nhìn cánh cửa sắt nhà ông im ỉm đóng, thấy như cái miệng ngậm chặt của người chết. Mạch sống của ngôi nhà như khựng lại, in một nỗi buồn tê tái trong lòng con phố, cho dù xung quanh vẫn không ngưng chảy những hoạt động, và không khí ì xèo của một con phố thương mại.
Lịch sử, hồn cốt của mỗi đường phố thường được tạo nên từ đời sống, ngành nghề của những con người diễn ra ở đó. Và phố Nguyễn Thiệp này với chưa đến hai chục số nhà, nơi vị cư dân già nhất của nó vừa ra đi, là một đường phố khá đặc biệt. Nó đặc biệt ở vị trí, là đường phố nhỏ nhất, ngắn nhất trong lòng một khu trung tâm nhất. Nhưng đặc biệt hơn là những con người sống tại đó và ngành nghề của họ đã để lại cho nó nhiều dấu ấn. Những con người chỉ bằng cái tên cửa hiệu nhỏ nhoi của mình mà có thể đưa cả con phố đi vào tâm thức cộng đồng. Người ta biết đến đây không phải là nhờ tên phố, vì phố quá nhỏ, mà là nhớ cái tên của một tiệm bánh, một quán cà phê, một tiệm may, hay một hàng cơm. Lên taxi nói tên phố, nhiều anh tài ú ớ chả biết ở đâu, khách lại phải thêm lời là tên cái tiệm bánh B, hay quán phở Z. Những cái tên đó còn đưa con phố đi ra bên ngoài, đến với thế giới. Tên con phố và tên cửa hiệu của họ đã được in trên cuốn guidebook nổi tiếng Lonely Planet.
Bây giờ thì những cái tên một thời in đậm trong đời sống quý bà quý cô ở Sài Gòn đã lần lượt ra đi. Hai anh em ông chủ nhà may Bình và Xuân Sơn. Tiệm đồ thêu tay quần áo trẻ con, khăn trải bàn Ngọc Bích mà bà chủ - từng là một mệnh phụ phu nhân – nói tiếng Pháp như người Pháp. Cái cửa tiệm nhỏ xíu chưa đầy chục thước vuông, song dường như bất cứ người châu Âu nào cũng phải tạt vào khi đến Sài Gòn. Hay ông chủ tiệm vàng My Lon người Hoa nổi tiếng từ trước 1975, những năm khó khăn sau giải phóng đã từng làm tổ phó dân phố chuyên đi phân phối nhu yếu hphưẩnmg.đNến một ngày ông cũng ra đi, để lại căn nhà cho
Nhà nước tiếp quản rồi rơi vào tay một vị giám đốc. Những con người ấy đã đến ở đây từ đầu thập niên 1940, với hai bàn tay và một cái nghề, khi con phố chỉ là một dãy những căn nhà buồn tẻ đều tăm tắp được xây để cho thuê. Rồi cuộc đời họ, con người họ, nghề nghiệp của họ đã tạo ra con phố có bản sắc, có tên hiệu. Nên dù chỉ là một người bình thường, nhưng ông chủ Augustin chính là một phần của lịch sử, là một phần hồn cốt của con phố này. Cái chết của ông như là sự mất đi nốt chút gì đó còn sót lại của những tháng năm xưa.
Chỉ còn tiệm bánh Brodard là cái tên cũ đầy ma lực còn sót lại. Những cái tên cửa hiệu mới đang dần được thay vào và tính pha tạp những ngành nghề dường như trái ngược đã xuất hiện trên con phố.
Nếu như ngày xưa thương nhớ của những văn nhân, trí thức hay công chức sang trọng là ngồi nhâm nhi ly cà phê nhỏ giọt chậm rãi trong tiệm Brodard ngắm đường Tự Do (hay Đồng Khởi), bên kia đường là dãy nhà hai tầng mái ngói mà phía dưới là những cửa tiệm nhỏ, thì bây giờ là cái không khí vui vẻ trẻ trung của một kiểu hưởng thụ mới trong Gloria Jean với cách tự phục vụ rồi ngồi ngâm mình trước cái laptop hoặc ngắm dãy hàng hiệu nơi tầng trệt của khách sạn Sheraton bên kia đường. Và qua lớp cửa kính trong suốt của nó, bên kia vỉa hè vẫn còn bà cơm sườn, tủ thuốc lá lẻ chen chúc trong mớ bùng nhùng xe cộ. Hai hàng cơm Pháp là Augustin và D-house là hai cái vẻ mặt trầm mặc già nua vào buổi tối, nhưng trước cửa vào ban ngày lại là một không khí khác hẳn. Những người trẻ trung nhiệt huyết với đồng tiền, những nhà đầu tư vào một lãnh vực rất cao cấp là chứng khoán song lại sinh hoạt nghề nghiệp với một phương thức vô cùng giản dị, chỉ bằng hai ba cái ghế nhựa và mấy ly cà phê cũng bằng nhựa uống trên vỉa hè, cũng là cho dễ bề chạy công an khi bị đuổi.
Chả còn ai là người của “muôn năm cũ” sau cái chết của ông chủ Augustin. Cũng còn một gia đình, nhưng là hàng con cháu thế hệ thứ ba thứ tư gì đó. Người ta đã bán nhà, đã xuất cảnh và đã đi về thế giới bên kia. Dân cư còn lại đông nhất bây giờ là một ngôi nhà tập thể, những cán bộ công nhân viên của một cơ quan Nhà nước được phân chia ở trong đó từ sau 1975, theo từng đơn vị ở, tầng trệt là cửa hiệu kim hoàn, có cả cửa hàng trên lối đi bán ba lô túi xách loại rẻ, lên dần là căn hộ và cao hơn nữa là những tổ chim, chuồng cu mà để lên đó phải trèo theo những cái thang cây nhỏ hẹp. Một tổ hợp người ở rất giống với hình ảnh những nhà tập thể ngoài Hà Nội thời bao cấp. Bây giờ thì chả ai phải nuôi heo trong nhà, nhưng đã có cán bộ về hưu ở đây làm một xe bánh mì, xôi mặn trước cửa để khai thác tối đa giá trị thương mại của con phố. Và người ta nhìn ra sự xa xỉ của gã chủ một hàng cơm Pháp khi thấy bảo gã chỉ muốn mở quán ăn như để giữ gìn một chút gì đó cái kỷ niệm xưa cũ của gia đình, trong khi lợi nhuận gã thu được chỉ bằng một phần rất nhỏ so với cho thuê.
Rồi đây, những cái tên mới, những con người mới trên con phố này sẽ đưa đẩy nó đến đâu? Một ý đồ quy hoạch, một chủ trương khai thác, tạo dựng sẽ chỉ là chuyện phiếm trên bàn của những nhà quản lý, nếu không có sự tham gia của một đời sống mà trong đó người ta biết cảm nhận những giá trị về bản sắc, để định ra tính chất, loại hình kinh doanh cho phù hợp.
Tất cả, có lẽ phải bắt đầu từ con người, những con người của con phố...
.