Lụa Hà Đông
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”.
Lụa Hà Đông vào Sài Gòn lần đầu năm nào, Nguyên Sa viết những dòng thơ ấy năm nào, tôi không biết.
Nhưng tôi biết một nơi, một con phố ngang, nhỏ như một cái ngách nứt ra từ những khối nhà - phố Carabelli (sau này là Nguyễn Thiệp), nối hai con đường lớn nổi tiếng một thời, Catinat và Charner (Đồng Khởi và Nguyễn Huệ bây giờ). Vào năm 1938, tại một trong những căn nhà của cái dãy phố hai tầng này, có một người phụ nữ gốc Bắc đã mở một cửa hàng tơ lụa. Từ ấy, những súc lụa Hà Đông được gửi vào từ Hà Nội, những súc lụa sắc trắng, sắc ngà và những đường tơ óng lên trong nắng Sài Gòn.
Những súc lụa đã đi con đường nào đến đấy? Con đường của sự giao thương hàng hóa hay con đường của số phận con người?
Đã có những câu chuyện về lụa, bắt đầu từ lụa, số phận con người như bị cuốn vào cái vòng giăng tỏa của cái thứ vải mềm óng ánh đầy mê hoặc ấy. Như câu chuyện từ thế kỷ 19 của nhà văn Ý Alessandro, mà theo tờ Newsday đã viết, là một câu chuyện tình “có những sắc màu rực rỡ, có cuộc sống bị dồn nén, và có cả bùa ngải của một bức tiểu họa”. Bắt đầu từ một cuộc viễn chinh vì lụa, dẫn đến một câu chuyện tình có sức ám ảnh như một thứ bùa mê.
Đã có một cuốn phim truyện Việt Nam về lụa.
Bà Nguyễn Thị Khang và bà Nguyễn Thị Hải.
Phim cho thấy một cách thể hiện “nặng tình” với lụa. Nhưng dường như người ta đã áp đặt vào đó quá nhiều “giá trị tinh thần”, nên vô tình đã ấn cái tấm lụa mong manh ấy trôi theo một cuộc đời sóng gió, đầy chìm nổi, vật vã, và khốc liệt của chiến tranh. Đẩy số phận của lụa vào chỗ phải chịu một kiếp khổ đau không đáng có.
Có thể có một tấm lụa Hà Đông như thế.
Nhưng thực ra, có một đời sống khác của lụa. Giá trị của những tấm lụa Hà Đông không giản đơn như thế, thân phận của những tấm lụa Hà Đông không đáng thương như thế.
Có những tấm lụa Hà Đông không cần phải đi qua chiến tranh, không cần chìm nổi vật vã, kể cả lúc loạn lạc, nó vẫn sống, mềm mại, óng ả ngay bên lề cuộc chiến.
Những súc lụa Hà Đông không chịu kiếp nghèo hèn, mà sang trọng lắm.
Ngoài những cô gái quê chân chất, mộc mạc, những tấm lụa ấy còn khoác lên những tấm thân ngà ngọc của cô tiểu thư, của quý bà môi son má phấn lướt giày cao gót trên phố Hàng Đào, con đường một thời được gọi là “Rue de la Soie” giữa lòng Hà Nội.
Những súc lụa có thể đẩy đưa, dẫn dắt đời người, chứng kiến mọi diễn biến của đời người, có thể cuốn chặt vào mình những đời người, những số phận, những mối tình vừa ngập tràn hạnh phúc, vừa tan nát khổ đau.
Nhưng lụa không cần và không phải chịu khổ theo số phận con người.
Lụa của cái cửa hàng mép mình trên con phố cũ Carabelli nhỏ bé kia là như thế.
Một ngày tôi đọc được câu chuyện về lụa từ những bức hình đen trắng cũ của gia đình. Chúng như những khuôn hình dừng lại của một cuốn phim.
Là câu chuyện về những cuộc đời thật, những con người thật, và một căn nhà thật.
Là câu chuyện về những người đàn bà tài sắc đã mang lụa đến đây, bán lụa ở đây.
.
Gia Đình tại Pháp.
Bắt đầu từ một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Hà Đông, xứ Bắc Kỳ thời thuộc Pháp.
Làng nghèo, đến cái tên nghe cũng mộc và nghèo. Làng Bồ Nâu. Chả có nghĩa to tát gì, chỉ là tên của một loại củ dùng nhuộm vải, cho ra những tấm vải gụ nâu sồng.
Nhưng lụa không phải là hình ảnh dẫn dắt đầu tiên cho câu chuyện này.
Mà bắt đầu là một khuôn mặt trùm khăn mỏ quạ giữa Paris tuyết trắng.
Hai người đàn bà đẹp, sang trọng và quý phái trong hai tấm áo lông.
Họ đã mang lụa từ Hà Đông vào Sài Gòn. Nhưng lụa đã dẫn họ đến Paris.
Bắt đầu là họ mang lụa đi, nhưng rồi lụa dẫn dắt, đưa đường cho họ.
Những tấm lụa đi bằng tàu hỏa, tàu biển, máy bay. Những tấm lụa không chìm nổi, tuy cuộc đời những người mang lụa cũng rất nhiều sự nổi chìm.
Khăn mỏ quạ xuất thân từ ngôi làng ấy, khăn mỏ quạ lớn lên, khăn mỏ quạ lấy chồng. Chồng là một ông hàn (cách gọi những người có tí chữ ở quê), khăn mỏ quạ trở thành bà hàn.
Rồi ông hàn ra Hà Nội làm công chức nhà dây thép. Có lúc bị bổ đi làm ở những miền xa, tận Lạng Sơn, Cao Bằng. Ông bà hàn có một ngôi nhà ở Hà Nội, phố Sinh Từ. Sống cuộc đời êm ả, đủng đỉnh công chức thời Tây, ăn uống cầu kỳ, kỹ lưỡng. Ngồi nhấp trà từng ngụm nhỏ, thức đêm ngắm hoa quỳnh.
Bà hàn sinh bốn người con, ba gái, một trai út.
Gái cả tính tình cẩn trọng, căn cơ, theo nghề dạy học. Lấy chồng đốc học tỉnh Thanh.
Gái hai nhan sắc mặn mà, thông minh, sắc sảo, mạnh mẽ, có máu hoạt động xã hội, ra đời với nghề đầu tiên là viết báo. Vào đầu thập niên 1930 viết cho tờ Phụ nữ thời đàm ở Hà Nội.
Gái ba kém chị kế chín tuổi, đẹp rực rỡ, hiền lành, nhân hậu. Nữ sinh Đồng Khánh, một ngôi trường mà từ đó khá nhiều người trở thành những bậc phu nhân của những trí tức tài danh hay chính khách. Theo lời kể, thì là một trong năm cô gái đầu tiên đi xe đạp ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Tốt nghiệp Lycée, đi làm ở sở Canh nông. Sắp được qua Pháp học thì xảy ra chiến tranh thế giới, Đức chiếm Pháp, việc đi bị hủy.
Thì ở nhà bán lụa.
Cậu út là giai một, được nuông chiều, học hành phất phơ.
Bà hàn mở một cửa hàng bán lụa ở phố Sinh Từ, lấy tên gái thứ ba (đẹp nhất nhà) đặt tên cho cửa hiệu, tiệm Nguyễn Hải.
Lụa lấy từ Hà Đông, vừa bán, vừa bỏ cho những cửa hiệu khác nổi tiếng trên phố Hàng Đào, như nhà Quản Đại Lợi, Ba Năng, rồi cho những nhà buôn có tiếng ở Hải Phòng. Những mối quan hệ với mấy nhà mà sau này gọi là “tư sản” bắt đầu từ đây, chuẩn bị cho một “con đường tơ lụa” xuôi Nam.
Bà Nguyễn Thị Hải.
Năm 1931, nhân có cuộc triển lãm đấu xảo ở Paris, nhà báo Nguyễn Thị Khang, con gái thứ của bà hàn, sang Paris dự hội chợ, có lẽ là một chuyến đi định mệnh, vì đã dẫn đến cuộc gặp gỡ định mệnh.
Có một người đàn ông Tây học, từng là ký giả kiêm nhà hoạt động trẻ nổi tiếng đất Nam Kỳ vào thập niên 1920, cũng có mặt ở Paris lúc đó. Là ông Cao Văn Chánh.
.
Ông Chánh sanh năm 1903, con của một điền chủ Nam Kỳ, tốt nghiệp Collège Mỹ Tho và sau này tốt nghiệp cử nhân văn chương ở Pháp. Những tờ báo do ông làm chủ bút hoặc sáng lập, như Công luận báo, Nam Kỳ kinh tế báo hay Tân thế kỷ, đều là những tờ báo quốc ngữ có tinh thần yêu nước, dám đối đầu trực diện với chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Cao Văn Chánh có chị gái là bà Cao Thị Khanh, tức madame Nguyễn Đức Nhuận (gọi theo cách Tây, lấy tên chồng), người sáng lập tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng.
Và họ, Cao Văn Chánh và Nguyễn Thị Khang, gặp nhau tại cuộc triển lãm đấu xảo Paris ấy.
Sau khi về nước, làm đám cưới rồi theo chồng vào Sài Gòn, bà Khang vẫn cùng chồng tiếp tục những năm viết báo.
Nhưng còn một dòng máu nữa vẫn chảy trong người phụ nữ ấy, là máu kinh doanh.
Gia đình ngoài Hà Nội vẫn nghề buôn lụa. Từ chuyến “xuất giá tòng phu”, một con đường mới mở cho những súc lụa Hà Đông đi vào Sài Gòn.
Cô em gái xinh đẹp ở Hà Nội là người lo đầu cung cấp hàng cho chị trong Sài Gòn, gửi những súc lụa vào Nam.
Ông Cao Văn Chánh vừa viết báo vừa hoạt động chính trị, có tinh thần chống Pháp. Vào năm 1940 bị bắt và đi đày ở Bà Rá vì có liên quan đến cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Đầu 1942, Cao Văn Chánh tuy đã được thả nhưng vẫn bị quản thúc, chính quyền thực dân cấm không cho đi khỏi Nam Kỳ, nên khi bố vợ mất cũng không ra được Hà Nội để chịu tang, về sau mới ra dự giỗ đầu.
Khi ấy cô em ở Hà Nội chưa lấy chồng. Tiểu thư xinh đẹp hằng ngày áo dài tung cánh, đi làm sở Canh nông, rồi vừa đi học lớp nữ hộ sinh, vừa lo việc hàng hóa.
Cửa hàng lụa phố Sinh Từ được xây dựng lại, ông thầu khoán giới thiệu anh ruột là kiến trúc sư vẽ kiểu nhà.
Tạ Mỹ Duật khi đó tuổi ngoài ba mươi, chả đẹp giai gì, nhưng tài ba, lại gặp lúc nổi danh, đang thời phất, mới có vài giải thưởng kiến trúc, mua được chiếc “tac xông”(traction) Citroën, complet đũi trắng, giày tây nện lốp cốp, vào ra, giao tiếp khách hàng chỗ giàu có, lớp danh giá Hà thành. Quen biết cũng nhiều, nhưng đến đây đưa mắt liếc trộm tiểu thư con nhà hàng vải.
Chàng kiến trúc sư và tiểu thư con gái nhà tơ lụa thành duyên số. Nhưng Cao Văn Chánh và Tạ Mỹ Duật, hai người chồng của hai nhan sắc, hai người chưa một lần gặp nhau.
Cách mạng Tháng Tám 1945, ông kiến trúc sư đang thời hoạnh phát, danh tiếng như cồn, hồ hởi với mùa thu cách mạng như bao nhiêu trí thức văn nghệ sĩ khác. Độc lập rồi, độc lập rồi, còn một cuộc đời rộng lớn lắm. Thế là theo, thế là gia nhập, ngun ngút ngọn lửa của tinh thần yêu nước, chứ chưa biết cộng sản là gì.
Rồi cả nước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Tạ Mỹ Duật cùng gia đình rời Hà Nội một đêm mùa đông 1946 để lên Việt Bắc, tham gia đoàn văn hóa kháng chiến. Điểm dừng chân đầu tiên trong đêm là gia đình ông Dương chuyên bán lụa ở làng Vạn Phúc, Hà Đông (là chỗ lấy mối lụa). Đang ngồi trên nhà thì như có linh tính, ông chủ nhà bảo “thôi cô xuống nhà đi, tôi thấy nguy hiểm lắm”, vừa xuống đến dưới đất thì một quả đạn xuyên qua tầng hai. Ngôi nhà này cũng chính là điểm dừng chân của nhiều vị lãnh đạo chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trên đường rút lên Việt Bắc.
Trong đôi thúng treo hai đầu quang gánh do người làm của gia đình Tạ Mỹ Duật gánh đi, ngoài hai đứa con còn có vài đứa cháu con bà chị ở Sài Gòn, chúng được gửi ra Hà Nội ở với dì (vì gia đình trong Nam xảy ra biến cố trước đó: ba bị tù đày, má vừa lo đi nuôi chồng, vừa tần tảo ngược xuôi, buôn bán). Ở vùng kháng chiến, ngoài giới kiến trúc, Tạ Mỹ Duật hay túm tụm với giới văn nhân, như các cụ Phan Khôi, Bùi Huy Phồn, Nguyễn Tuân, và giới họa sĩ, thân với gia đình Tô Ngọc Vân. Nhà ông là nơi lui tới, rượu chè của dân văn nghệ, vợ đẹp hằng ngày trồng rau, nuôi gà, cơm nước phục vụ cho đám bạn của chồng…
Cũng năm 1945 ở Sài Gòn, sau ngày 23 tháng 9 (ngày Nam Bộ kháng chiến), ông Cao Văn Chánh mượn ô tô của bạn chở gia đình xuống Cần Thơ lánh nạn. Đến khi quay trở lại trả xe thì ông mất tích tại Bến Lức, Long An. Năm ấy, ông 43 tuổi, chia tay gia đình lần cuối vào ngày 31 tháng 10 năm 1945.
Lộn về Sài Gòn, bà chủ cửa hàng tơ lụa vừa đi khắp lục tỉnh tìm chồng, vừa phải lo buôn bán, một mình tất tả ngược xuôi. Lũ con thì một số gửi ngoài Bắc, số gửi dần sang Pháp học.
Hằng ngày, bà ngồi bàn giấy, tóc vấn cao, áo dài sang trọng, gọi tê lê phôn đi các nơi điều hành công việc. Tầng dưới là cửa hàng, tầng trên là văn phòng điều hành nhập xuất. Nhìn trên ảnh, bà mềm mại trong tấm áo dài, nhưng gương mặt đầy quyết đoán như một vị tướng. Thời gian này lụa đang bán chạy, những súc vải đầu tiên sắp lên tàu sang Pháp.
Hai năm sau, với những dòng thông tin chắp nối lại, bà được biết là chồng đã bị thủ tiêu vào một buổi chiều bên một bờ sông. Những người du kích nghi ông là Việt gian vì ông không mang theo giấy tờ, lại lái xe hơi, đeo kính trắng, ăn mặc kiểu trí thức.
Bà cho người ra vùng kháng chiến ở ngoài Bắc lôi lũ con trở vô Sài Gòn, rồi cho sang Pháp. Nhốt tất cả vào trường nội trú.
Một mình bà ở Sài Gòn vẫn điều hành công việc tại 15 Carabelli. Hàng của bà xuất cảng sang Pháp, thành đồng franc, trở về thành đồng Đông Dương, thành những cửa hàng, dãy nhà phố, biệt thự. Cho đến 1954, hiệp định Genève ký kết.
Bà em xinh đẹp ngoài Việt Bắc về Hà Nội trước, để thăm bố chồng - cụ thân sinh ông kiến trúc sư ở quê đang gặp nạn vì cải cách ruộng đất. Trong tấm ảnh cuối cùng chụp chung với gia đình, ông cụ quần trắng, áo the đen, khăn xếp, chân đi guốc mộc. Địa chủ Tạ Mỹ Ân nét mặt buồn như linh cảm những ngày cuối cùng sắp đến. Chỉ vài tháng nữa thôi, ông sẽ bước chân vào tù.
Rồi bà em cắp hai đứa con vào Sài Gòn, gặp lại mẹ, gặp lại chị và những súc lụa Hà Đông.
Đường Catinat, Charner, Bonnar, người đẹp tơ lụa phất phới áo dài, quần lụa trắng, giày cao gót, tay lủng lẳng ví đầm.
Ông thầu khoán là em ruột ông kiến trúc sư cũng vào Sài Gòn, có thời làm quản lý cho bà chị của người chị dâu. Ông cũng mua được Citroën. Ngoài người vợ đã mất ở Hà Nội, ông lấy thêm ba bà vợ để ở ba góc Sài Gòn, được tất cả mười chín người con. Ông bố mỗi Chủ nhật, bệ vệ complet đũi trắng, giày “deux couleur”(hai màu) đi chơi chụp hình bên cái xe hơi màu đen, đỗ bên vườn trước dinh Norodome, cùng con cũ, con mới. Những người con gái vợ đầu cũng vào từ Hà Nội, những cô gái Hà Nội tóc uốn kiểu Sài Gòn, nhưng tung tăng áo dài, quần trắng lụa Hà Đông.
Bà chị đưa mẹ và cô em sang Pháp chơi, vẫn khăn mỏ quạ trùm đầu, phu nhân ông kiến trúc sư khoác áo lông trên mình nhưng vẫn để lộ cái cổ áo dài lụa, đứng trong tuyết trắng Paris.
Bà chị dụ cô em ở lại, Paris hay Sài Gòn cũng được, ở đâu cũng có tiền, ở đâu cũng có nhà, nhưng “đừng ra ngoài ấy”. “Rồi tôi cho người ra đón chú ấy vào”, xán lạn quá còn gì! Đã bao trí thức quay về thành, kiến trúc sư mà vào trong này tha hồ đất sống, tên tuổi nhé, vốn liếng nhé, một trí thức từ bỏ Việt Minh cộng sản nhé, chả thiếu thứ gì!
Ông kiến trúc sư ở ngoài Việt Bắc ngày đêm trông tin vợ mà lo sốt vó. Một đằng vợ đẹp ở xa, mọi lời cám dỗ, xã hội phía bên kia những miệng rắn hang hùm. Một đằng con đường đã đi, là lý tưởng đã nhất quyết theo rồi, sắp đến đích rồi, bỏ làm sao được. Về thôi, về thôi. Vợ đẹp nhất định trở về để ra ngoài ấy với chồng.
Bỏ ngoài tai dụ dỗ, bỏ ngoài tai giận hờn.
Rơi nước mắt chào mẹ, chào chị và chào những súc lụa Hà Đông đang nằm trên tủ.
Theo con đường 100 ngày (là thời gian quá độ cho hai miền tự do đi lại, theo hiệp định Genève), bà lặng lẽ mang hai đứa con trở ra Hà Nội.
Đấy là những người đàn bà của một thời, họ đẹp, họ thông minh, và họ cũng trải qua đầy những nỗi truân chuyên, biết bao giằng xé.
Và lúc ấy cũng là thời điểm chỉ còn những súc lụa cuối cùng. Hai miền chia cách, cũng như con người, những súc lụa Hà Đông không còn vào được Sài Gòn.
Cửa tiệm ở Sài Gòn sau khi hết lụa Hà Đông vẫn theo đường bán vải, song trên tủ kính thời Mỹ là những súc vải nhập từ Hồng Kông, Nhật Bản, trong đó có nhiều “soie Pháp”, tức thứ lụa bằng sợi hóa học thay thế cho tơ sợi tự nhiên. Nhưng rồi chất khốc liệt, tính cạnh tranh và kiểu làm ăn nhiều thủ đoạn thời Mỹ đã đánh gục người đàn bà cổ điển thời Pháp. Những khối gia sản lớn lần lượt ra đi...
Cho đến năm 1975.
Một tối không lâu sau ngày 30 tháng 4, tôi là người đầu tiên đại diện cho gia đình ngoài Hà Nội vào Sài Gòn thăm bà bác. Từ Ngã Bảy, chiếc xích lô máy chở thằng trai gầy ốm nhưng vẫn được anh xe gọi là “thầy hai” chạy băng băng dọc đường Tự Do, đến chỗ ngã ba góc Nguyễn Thiệp. Nhà hàng Brodard trong nhấp nháy ánh đèn, những chiếc bàn trải khăn trắng muốt kê ngoài vỉa hè, trai thanh gái lịch, những anh bồi thắt nơ chạy qua chạy lại…
Căn nhà số 15 tối mờ ánh điện, sau rất lâu với nhiều lần nhấn chuông, một chị người làm rụt rè mở cửa, cánh cửa sắt kéo lâu ngày không dầu mỡ rít lên những tiếng rợn người. Bà bác già bước xuống, lọm khọm trong tà áo dài trắng, mái tóc bạc phơ… Những chiếc tủ kệ hai bên tường từ năm 1938 vẫn còn, cao ngất ngưởng, nhưng trống rỗng.
.
Bà Nguyễn Thị Hải, 2014.
Gần cửa là một vài bịch gạo với hàng chữ “Điểm dịch vụ bán gạo phường”. Một phần ngôi nhà đã phải sang nhượng cho người khác.
Hằng ngày bà đi nhà thờ, rồi về lẩm bẩm những câu thần chú đợi ngày xuất cảnh sang Pháp đoàn tụ với con cái(1). Hằng ngày vẫn ông thư ký già còng lưng cưỡi cái Mobylette cũ từ thời Pháp tới làm việc. Mà có làm gì, ngoài việc đi đánh những bức điện sang Pháp giục tiền, hay lâu lâu đi bán dấm dúi một vài đồ kỷ vật cũ. Tất cả chỉ còn như những chứng tích, những con người bảo tàng của một thời.
Chú thích:
(1) Bà Nguyễn Thị Khang mất tại Paris ngày 29 tháng 6 năm Quý Mùi (2003), thọ 94 tuổi.