Đường Lâm, làng và (một vài) người- *-Đường về đất Phật
Lâu không về lại chỗ này. Lai lịch của nó ai về rồi chắc biết, ai chửa thì về khắc biết, nhắc lại làm gì.
Cứ ngờ ngợ phân vân, nên gọi phố hay làng?
Thì rõ là làng rồi, giờ giấy trắng mực đen trên văn bản, rành rọt trên miệng người. “Làng cổ Đường Lâm” rành rành ra đấy.
Cũng phải đi qua ruộng rồi mới đến nơi, có cổng làng, có đình, có rơm phơi, có bò và phân bò trên đường. (Công nhận là cái mùi rơm, nằm vật ra mà ao ước giá có cái “đi zi tồ” gì để thu giữ được mùi!).
Đường gạch cũ, mới, hay đường xi măng, chả quan trọng, vẫn ngóc ngách, sâu vào trong vẫn còn mùi vị âm lịch, tương cà, tường cũ rêu phong, liếp che, giàn mướp là còn quý hóa quá.
Cổ kính đã có phần sắp đặt, sập gụ tủ chè thì ra kiểu người giàu, bày cái bình men sứ kiểu Giang Tây đúng chỗ, thêm cái giỏ ấm tích cho ra nhẽ. Ông chủ kể chuyện cha ông, tự hào, ý thức về nề nếp gia phong, giữ gìn di sản. Lời lẽ có bài có bản, rõ thực nếp nhà.
Một dạng cổ khác bình dị hơn, kiểu “nhà nho nghèo yêu nước”, nhã nhặn nhưng mặt ông nhà nho lại văn minh kinh khủng, như vua rock Ăng lê John Lennon, kính trắng mắt tròn, hàm râu quai nón, Tây rặt. Thấy ông “John” này đang ngồi tập viết chữ nho. Có bức ảnh trên tường như của một bậc thầy “phô tô gờ ráp phờ” chụp, khoe là do một ông Tây, giờ thành bạn.
.
Trước khi vào làng, mỗi khách dừng xe chỗ ba ri e đầu cổng nộp mỗi người hai chục. Hỏi các chủ nhà cổ nơi được giới thiệu cho khách (đếm trên đầu ngón tay, cả làng hiện còn ngót chục nhà) mỗi gia đình được hỗ trợ bao nhiêu, họ bảo đâu ba trăm nghìn một tháng. Giữ được thế này là phải bán tương, làm cơm dịch vụ, và chắc còn nhiều thứ khác nữa.
Ông “John Lennon” viết chữ nho này nhăn nhăn trán, phàn nàn mỗi ngày có khi phải giả nhời hàng trăm câu hỏi, nhà có tự thế kỷ nào, xây bao giờ, mấy đời cụ kỵ tổ tông??? Chán, mệt, khàn tiếng. Thỉnh thoảng có đứa vào chả được câu chào, ngó ngó nghiêng nghiêng, hỏi hỏi han han rồi cắp đít nguẩy, chả thanh kiu thanh kìu gì sất.
Nhưng cũng ra phố rồi.
Sân trước đình như quảng trường trung tâm, vui nhộn nhịp. Hàng quán tưng bừng nhưng vừa phải lắm, bán nước chè tươi, nụ vối, lạc luộc, kẹo dồi, mận chua kèm dịch vụ đi toa lét thu hai nghìn, sạch sẽ.
Mà vẫn còn là chỗ phơi rơm. Đầu óc đa nghi cứ nghĩ, hay người ta sắp đặt cho ra nhà quê? Hóa ra đúng như thế. Xưa mỗi năm hai vụ chiêm mùa rõ rệt, giờ lúa ngắn ngày, lúc nào chả có thể là vụ gặt để phơi rơm. Thế cũng hay.
Đã có thêm đủ thứ nghề, cắt tóc, mộc, mua bán ti vi cũ…
Đang âm u hoài cổ, thỉnh thoảng thấy một cái lối dẫn vào nhà rất điệu, cây cối, cổng gỗ trông “có nghề” thì đoán chắc là của một tay chơi sành điệu, một “artist” nào từ Hà Nội về đây.
Nghe bảo có những ngôi nhà chục tỷ rồi, bây giờ người ta đã thấy giá trị cổ chứ không còn là giá trị đất. Thật đã văn minh.
Lại một “ông Tây”, chồng bà bán nước chè, mũ phớt cao bồi miền Texas. Bà lão áo cánh nâu, quần lụa thâm, răng đen nhưng tay ôm túi kiểu “eo vì” giả con cháu đi lao động mang về từ Hàn Quốc, móm mém ngồi vắt một chân lên ghế xởi lởi với khách xa về.
Kể cũng khó. Giờ mà hỏi mấy đứa giai gái ở đây, phóng xe máy vù vù, áo quần sành sỏi, tóc tai dựng ngược, rằng nhà cháu/em ở đâu, chả biết chúng nó có gãi đầu gãi tai mà ngượng ngùng bảo “dạ, làng Đường Lâm” không nhỉ? Chắc là không!
Đường về đất Phật
Bước xuống đò nhìn rặng núi mờ xa, thấy chợt gợi về một buổi chiều của Nguyễn Bính:
“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ”.
Nhưng hôm nay là buổi sáng, một buổi sáng như còn ngái ngủ trong bay bay mưa bụi của tiết xuân. Xa xa rặng núi mờ đi trong màn sương, trời không lạnh, chỉ hơi se se nhờ sự ẩm ướt hơi mưa, nhưng cũng đủ để tạo ra cái tê tê về cảm giác và nhập nhòa cho thị giác, đường về chùa Hương, người đi như chìm trong hương và mơ…
Mái chèo khua sóng của cô thôn nữ đưa con thuyền trôi trên dòng Yến Khê hướng về đất Phật. Năm nay lòng suối đã rộng hơn, nước đã trong hơn, nhìn rõ từng cọng rong đung đưa theo làn chảy, đưa đẩy đáy thuyền. Và sạch, hãy còn xuân sớm, người đi chưa đông nên vẻ tĩnh lặng của chốn thinh không chưa bị phá vỡ bởi nhiều tạp cảnh. Chỉ có hương mùa xuân, một mùi ngan ngát tinh khôi của đất trời, của hoa và cỏ dại, một mùi xuân rạo rực dậy thì nao nức lòng quân tử. Nhưng thâm trầm hơn, thắm đượm và sâu thẳm hơn vẫn là mùi hương của hương, cái mùi cứ quyện vào làn không khí ẩm ướt cùng với đoạn cuối của khúc chầu văn “Á a a á ả à a…” để rồi ám vào hồn ta, làm lay động tâm linh ta.
Dãy núi mờ xa, làn nước xanh trong giữa hai hàng vạt lúa viền bên bờ suối, màu má em gái chèo đò hay chỉ một khuôn mặt thấp thoáng ở thuyền bên khiến ta như lẫn vào giữa cõi mơ và thực, mơ về rừng mơ trên dãy núi xa, mơ về một cuộc đời dưới một mái nhà:
“Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương”.
(Nguyễn Bính)
Và ta thấy, trước mắt ta là một mái nhà ẩn giữa rừng xanh, chênh vênh triền núi, như là nơi cư ngụ của một bậc chư tăng hay là một kẻ sĩ ở ẩn, một nơi mà:
“Ánh sáng ngoài hiên
Chẳng sớm, chẳng trưa đây bức họa,
Tiếng chim trước cửa
Không tơ, không trúc đấy cung đàn”.
(Lời ghi ở Thiên Trù)
Đường về chùa Hương, mờ ảo giữa núi gần núi xa, giữa trời và nước, giữa mơ và thực. Cái thực như mờ đi trong cái mơ của không gian huyền ảo, có gì đó như cảm giác được trút bỏ, được gột rửa, và được trở về. Nơi trở về là nơi làm lòng ta yên ổn, nó thanh lọc tâm ta, cứ thấy sờ sợ cái sự nhìn rõ, sợ cái lồ lộ của kiếp đời trần thế, và chợt nghe văng vẳng đâu đây cái âm thanh của thế giới sắc không:
“Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không”.
(Thơ thiền sư Từ Đạo Hạnh,
(bản dịch)
Nhưng rồi trước mắt ta vẫn là cõi thực của hôm nay, không còn “quần lĩnh áo the mới, tay cầm nón quai thao ”, chỉ có tấm nón lá và áo cánh nâu trên con thuyền gỗ còng lưng khua nước chở quần bò trễ rốn đi với tóc đuôi gà, “em đi chùa Hương” của ngày hôm nay là thế. Và xa xa dải cáp treo như một sợi dây trói lơ lửng giữa trời, lại chợt nghe văng vẳng đâu đó tiếng xô xát của cuộc choảng nhau giành giật hôm nào. Những “bộ veste” ngồi cabin đi chùa, những lưng còng mỏ quạ vẫn chống gậy leo dốc, miệng lẩm bẩm Nam Mô A Di Đà…
“Căn tu” là nghiệp vận vào từng số phận, nhưng những dòng sông con suối dẫn về nơi đất Phật vẫn là nơi hằng năm ta muốn đến để được trôi về, những dòng sông đầy hương và mơ…
Yến Khê - Hương Sơn,
xuân Bính Tuất 2006