← Quay lại trang sách

Biển mùa đông

Điểm chấm bút đầu tiên trên bản đồ chữ S.

Là nghe người ta nói thế về Tràng Vĩ, Trà Cổ. “Mũi Cà Mau, địa đầu Móng Cái”, ấy là cách nói “đại khái’ thôi, ý là ở hai nơi ấy có những vị trí “xông ra” biển nhiều nhất trong toàn tuyến biên cương. Nói cụ thể ở Cà Mau là Đất Mũi, ở Móng Cái là Trà Cổ với cái điểm được ấn định “cực Đông” nhất là Tràng Vĩ.

Ở nơi đón bình minh sớm nhất lại là một bình minh không có ánh mặt trời, nhưng có vẻ đẹp của nỗi buồn, và cũng là cảm giác sướng nhất khi ra biển “trái mùa”. Cái ánh sáng mà không sáng của sự hoang sơ, mây mù bao phủ và gió ngả nghiêng những tán phi lao, chòng chành những “con thuyền không bến” nằm vật vờ sóng vỗ. Biển không người, không rác thải du lịch nhưng rải rác những đụn rác tự nhiên không bốc lên một chút mùi vị. Gã xe ôm nằm thẳng đuỗn trên cái xe máy Tầu che dù ngủ. Nhiếp ảnh dạo sau mấy phút mời chào không được, cau có trả lời vớ vẩn mấy câu hỏi của khách cho xong.

.

Ai mà lòng không run run ở mốc cây số 0 của Tổ quốc, mà chắc chắn là không phải run vì gió lạnh!

Và thấy thật sáng suốt khi tối hôm trước bỏ qua Móng Cái với ánh đèn xanh đỏ để chạy thẳng về đây. Trà Cổ tối muộn le lói ánh đèn, khách sạn nhà hàng đã ngủ hết. Duy nhất một nhà hàng của gã chủ cởi mở với chuyện “em đã từng đi tù vì dùng súng đi cướp hồi là lính ở Tiên Yên và bị tòa án binh xử ba năm nhập kho” còn bán. Biết trước khu nghỉ mát mùa đông là thế, nên đã chuẩn bị “hàng xách tay”, em này dong dỏng quốc tịch Ba Lan với cái tên mỹ miều “Belveder” trong vắt, rất “bắt” với đĩa cá khô nướng mặn chát và những con tôm hấp cuối cùng còn sót lại trong ngày nhưng vẫn còn tươi ngọt. Có lẽ nhờ phải trải qua một đêm lạnh co ro trong tấm chăn mỏng ở nhà khách rẻ tiền (may không có cái mùi tù đọng), lại thêm phần khó ngủ vì tiếng khò rền vang của lão giường bên mà được ra biển đón bình minh sớm.

Trà Cổ với khuôn mặt thật trong buổi sáng mùa vắng khách có cái vẻ lặng lẽ chờ thời. Nhưng nhìn những nhà hàng khách sạn và hệ thống “phân lô bãi biển” thì hình như đã đâu vào đấy cả rồi. Chắc do vị trí xa xôi và thời khủng hoảng nên chưa có nhiều công trình mọc lên, chưa thấy sự hỗn độn, song tương lai thế nào chả biết, chủ những lô đất bãi biển kia là ai, họ sẽ cho những thứ gì mọc lên ở đấy sau này. Tuy nhiên, cứ nhìn ở cái thành phố miền biên viễn là Móng Cái đầy không khí thổi đến từ phía bên kia biên giới, thì cũng đã dự cảm được điều gì sẽ đến ở đây mà lòng thật sự thấy lo ngại.

“Lênh phênh xã đảo”.

Đấy là cái “tít” bài báo đã viết về Quan Lạn từ mấy tháng trước của bác nhà văn đi cùng. Hai ông đi với nhau, một ông đã Trà Cổ, chưa Quan Lạn, một ông đã Quan Lạn chưa Trà Cổ. Thôi thì chiều nhau mà mỗi người đều đi lại cái nơi đã đi vào cái lúc chả phải mùa.

Để ra đảo, phải qua bến Vân Đồn là nơi bắt tầu đi Quan Lạn. Về lịch sử thì nơi này là một địa danh gắn với tên tuổi vị danh tướng Trần Khánh Dư đời nhà Trần với lắm tài nhưng cũng nhiều tật (mà theo như bác nhà văn đi cùng gọi là có nhiều “khuyết điểm”). Tài đánh giặc là kinh nhất, làm tan tác đoàn thuyền quân lương của giặc Nguyên tới 500 cái chở đầy những người và ngựa chiến trên dòng sông Mang là cái lạch biển ngăn cách giữa hai đảo Quan Lạn và Trà Báu. Còn “khuyết điểm” là thông dâm với công chúa Thiên Thụy, con dâu Trần Hưng Đạo, bị đày ra biên viễn “cùng bọn hèn hạ làm nghề bán than” (cũng theo lời bác nhà văn, bảo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” biên thế). Thêm một tài nữa về kinh doanh kiểu “đầu cơ” và dùng “biện pháp hành chính” của vị danh tướng là “khi trấn giữ Vân Đồn, ông ra lệnh không được đội nón của phương Bắc mà phải dùng nón Ma Lôi, mỗi ichiếc g á ngang tấm vải, nhờ thế bán được cả mấy thuyền nón mua cất từ trước”.

Chuyện sử sách thì lôi thôi lắm, nhất là dân ngoại ngạch như tôi. Thành ra phải tảng lờ mà giấu cái sự “dốt sử” bằng cách hướng mắt nhìn vào mấy quả núi đứng chỏng chơ trên bờ, cạnh mấy căn nhà con con trên trục đường chính dẫn ra bến tàu nằm trên vịnh Bái Tử Long, một địa danh kề bên Hạ Long di sản. Đấy là kết quả của một chương trình lấn biển mà Quảng Ninh thực hiện trong nhiều năm qua. Những quả núi xưa kia nằm trên biển, “non xa xa, nước xa xa”, giờ nằm lừng lững sau lưng nhà tưởng chừng như với tay là đụng phải. Kiệt tác của thiên nhiên đã bị bức tử từng phần cho những ngôi nhà phố mọc lên với những tấm bảng hiệu, nhà nghỉ, hàng quán và cắt tóc gội đầu. Về cơ bản, con người đã thực hiện một quy trình tiêu diệt thế giới tự nhiên không thương xót một cách hoàn hảo. Bản tin thời tiết báo bão ở xa, đã mùa đông lại còn bão tố, nhưng chả có cơn bão nào tàn phá nổi thiên nhiên như con người.

Con tàu rẽ nước để lại những vệt trắng dài trên vịnh Bái Tử Long lướt qua những quả núi xanh rờn, biển êm sậm một màu u ám. Nếu trước đó chưa đầy một giờ là cảm giác mệt mỏi của chặng đường đi qua vùng than đầy bụi, thì cái vùng biển hẹp này như một vị thuốc tiên của trời ban tặng, thổi đi tất cả những u uẩn nặng nề. Nhìn vào bờ, rồi hướng về đảo xa, cứ thấy khoảng cách giữa hai phía như ngày càng gần lại. Con người sẽ còn rút ngắn dần cái khoảng cách ấy đến đâu?

Tên đảo là Quan Lạn nhưng nó gồm hai phần, là hai xã Quan Lạn và Minh Châu, trong đó Quan Lạn đóng vai “thủ phủ”, nơi tập trung các cơ sở chính của đảo. Mùa không có khách du lịch nên người ta được hít thở, được cảm nhận hết cái vẻ “nguyên gốc” của nó. Thủ phủ Quan Lạn mang không khí của nơi thị tứ, với cái cấu trúc thường có ở các đảo nhỏ, con đường trục xuyên dọc xã với hai dãy nhà thường thấy ở tỉnh lẻ như một thứ bản sao thu nhỏ của các đô thị trên bờ. Những dấu ấn quý giá nhất là một tổng thể ba công trình đứng liền nhau là đình, chùa và đền. Ngôi đình thờ vua Lý lập cảng Vân Đồn từ thế kỷ 11, đạt đến cái độ khiến ông nhà văn phải thốt lên: “Tỷ lệ, kích thước và các bức chạm trên câu đầu, cửa võng không thua gì một ngôi đình xứ Đoài”. Bên cạnh là chùa nhưng “tiền Phật, hậu Thánh”, và đền thờ ba ông tướng họ Phạm theo Trần Khánh Dư đánh giặc độ nào. Lác đác còn sót lại những căn nhà cổ của nhiều dòng họ, giờ cái bỏ hoang, cái làm xưởng mộc mà nghe đâu đều có chủ là người ở tỉnh và trên Hà Nội mua rồi để đấy.

Những lối rẽ nhỏ đưa vào bên trong, mở ra một thế giới “gan ruột” với những gì nguyên xưa của nó. Không khí làng xóm vẫn còn, đáng chú ý hơn là một đời sống với nếp xưa cũ, đơn giản, đạm bạc thực sự là do nghèo nên lòng người vẫn hướng tới sự đổi đời từ những căn nhà, mảnh đất hương hỏa mong được bán đi nhưng không may gặp thời khủng hoảng. Kỷ niệm của quá khứ vẫn là một cái gì da diết lắm, song không thể sống nghèo mãi trên cái nền đất bỏ hoang và căn nhà cũ kỹ của gia tộc. Họ cứ khăng khăng giữ mà không chịu bán khi khách hỏi mua một cái chậu giặt làm từ mảnh xác máy bay cách đây mấy chục năm đã được hàn vá bằng một miếng nhôm theo lối thủ công ngày trước, nhưng lại đau đáu trông chờ người ở tỉnh về để bán đi căn nhà trên mảnh đất hương hỏa của mình.

Chừng hơn mươi cây số từ thủ phủ đảo về vùng hoang dã Minh Châu, con đường lúc thấp thoáng thấy biển, khi dập dờn bãi sú, lúc lại dải cát dài trắng phau hay một vùng lốm đốm đất và lạch biển có những con bò thả rông lững thững. Cũng vì sự “trái mùa” mà cái vẻ hoang sơ được tôn lên, cho dù đã có hẳn một cái “resort” với giá phòng được tính bằng tiền triệu vào mùa hè. Chính vì vậy, thấy rõ cảm giác là có lúc ta nhìn biển còn thích thú hơn nhiều lần đắm mình vào nó, nhất là vào mùa đông, vì một vẻ đẹp khác chứ không phải vì lạnh.

Sá sùng là một loài “giun cát” đặc sản của Quan Lạn, nổi tiếng như người ta nói đến Lý Sơn là tỏi. Tỏi cho mùi, sá sùng cho vị, dù đã hầm xương hay đã bỏ vào một nắm tôm khô nhưng chỉ thêm vài con sá sùng thì nồi nước dùng dậy vị hơn hẳn. Đào bắt sá sùng là những người phụ nữ khăn mũ sùm sụp, quần xắn cao quấn xà cạp, họ vác mai lúi húi trên bờ cát như nữ chiến binh trong chiều nhập nhoạng. Con gái Quan Lạn gọn gàng săn chắc cũng đã ngóng tai nghe về cái cuộc thi “Next top model” trên ti vi. Mà phải, họ có nhiều tố chất hình thể đáng cho sự “ngóng tai” này.

Với vẻ đẹp hoang sơ đang bị khám phá, điện lưới còn trong quá trình “năm tiếng một ngày”, một chút đặc sản nhỏ là sá sùng và việc đánh bắt quanh quẩn ven bờ có vẻ như không đủ để người dân Quan Lạn có được những gì họ đang khao khát. Chắc rồi đây, chính cái vẻ hoang sơ mời gọi kia sẽ dần dần mang tiền đến cho người ta, nhưng cũng không gì dễ vò nát cái vẻ hấp dẫn ấy nhanh như đồng tiền kiếm được từ nó.

Lại một vòng lẩn quẩn với cái vết xe nghiệt ngã cứ lăn nghiến hết từ vùng đất này đến vùng đất khác, từ đất liền ra hải đảo. Có cách nào ngăn lại?