Hòn *-Ẩn ức Lý Sơn
Là đảo con, đảo cháu, hay là đảo anh em của hòn đảo chính trong một quần đảo, nhưng vì cái thân bé mọn mà bị gọi là hòn?
Phú Quốc xênh xang áo gấm với những resort các loại, sang hèn hay chỉ là để giữ chỗ, thì cũng cứ nhơn nhơn, thằng nào đụng vào ông cứa cổ, ấy là lời ấp ủ trong đầu của các chúa đất. Đường sá sau mấy năm trở lại mà vẫn thế, bụi đỏ bay mù, nẩy tưng tưng, thành ra thích nhất vẫn là cái mùi tanh tanh, khăm khẳm của cá, của mắm ở thị trấn Dương Đông.
Đường ra bến tàu để đi hòn Thơm qua những cánh rừng, những bãi đất trống, hầu hết đều có chủ. Rải rác những túp lều mái xanh đỏ, là của những gái trong bờ ra hành nghề, tài taxi bảo thế. Dân Phú Quốc bán đất hết, giờ cũng chả còn gì, ông chủ đất cũ chiều chiều nằm võng đung đưa khúc ca u hoài phơi cái bụng phệ do nhiều bia bọt nhìn sang bên kia hàng rào với niềm thương tiếc khôn nguôi những vạt dừa xanh tươi mơn mởn hôm nào.
Đâm ra cái hòn cách đảo chính chả mấy mái chèo kia vẫn còn khá lớn mảng xanh rì của vườn tược, và hàng dừa lướt thướt ngoài bãi biển với tàu thuyền san sát lại gây một sự gì như bình yên. Mặc dù bước chân lên bờ là lộn xộn, là rác và những bước gập ghềnh của con đường như chả ai buồn đoái hoài tới, được chất lên những cái bao đất tạo bậc.
Thoạt đầu là trên bến dưới thuyền tấp nập, đàn ông nhởn nhơ bài bạc, đàn bà vẫn cứ là te tưởi. Gái đảo ở đâu cũng vậy, ngăm giòn, ngực căng, chắc nình nịch. Đi sâu vào chừng 15 phút đã chỉ thấy vườn, ngót nghét có được mấy chục nóc nhà? Bao nhiên nhân khẩu, bao nhiêu miệng ăn, nhưng thấy đủ trụ sở UBND xã to oành, công an, trường phổ thông cơ sở, trạm y tế… Phố chợ vui vui cà phê nhạc tình tang thương nhớ, anh thợ cạo chăm chút tỉa tót đầu trai làng, hay đeo đèn ngoáy tai cho lão kia lim dim ngủ, rõ ra không khí ban trưa.
Giếng Tiên là một cái khe nước luôn chảy ra một dòng nước trong mát, nơi ấy có miếu thờ Đức Gia Long. Tương truyền dòng nước mang lại sức lực, may mắn, giờ xây thành cái bể xi măng như Hà Nội thời khan nước, tưới tắm thì múc từng gáo nhựa, mình không biết suýt nữa nhảy vào, xin được hỉ xả ạ.
Gặp đám thuyền chài dạt vào thư giãn, là dân tận Hà Tiên đi biển lênh đênh dài ngày thấy chán, thích nhẩy lên bờ tìm hơi đất. Gặp khách xa mừng và quý, hồn nhiên, chân chất, nhiệt tình đắm đuối quá. Mực tươi, cá tươi, “cà seo” (một loại sò) tươi nướng, ngọt như chắt ra từ toàn những tinh chất của biển. Khoái nhất là chú lùn cao mét rưỡi, mặt chai đen sạm hầm hố có cái tên con gái Hồng Thủy. Yêu anh chàng này nhất.
Vẫy chào nhau, hẹn hẹn hò hò. Bơi ra tàu về bờ. Một lúc mà chiều xuống nhanh, biển và trời một màu sẫm lại.
Ẩn ức Lý Sơn
.
1. Chuyện của chúng nó thôi, hai thằng ngồi cãi vã, thằng hơi đứng tuổi đeo kính, thằng tóc nếu còn chắc cũng xanh - gọi tắt là đeo kính và đầu trọc, nhanh cho vuông.
Đeo kính hào hứng khoe: tao mới post hình kèm dòng chữ “Lý Sơn mùa không có tỏi”. Đầu trọc nhảy dựng, câu của em. Đeo kính bảo, ừ thì “Lý Sơn mùa này không có tỏi” vậy, khỏi đụng hàng.
Chỉ mỗi chữ “này” mà thằng kia phải nín.
Cũng đều là Dương. Một lão tóc bạc, một gã tóc đen. Tóc bạc khọm già, bụi bặm, tóc đen tao nhã, trí thức. Nhưng xe tóc bạc máy khỏe (là chú đầu trọc kính lão mà nhường cho), xe tóc xanh máy hơi yếu, lại hình như không phanh. Cô gái lưỡng lự, chọn xe hay người? Cuối cùng là chọn người. Phi công trẻ chạy vù vù chả biết vì xe hay vì đổ dốc không phanh mà thế, như thể lỡ leo lưng cọp rồi, xuống làm sao? May không lao xuống biển. Sau kể lại là run lắm.
Hôm sau sáng sớm ra chợ, rồi nhung nhăng, gặp chú râu tóc mời lên xe “zin” ba, tóc bạc ngồi giữa, cô gái ngồi sau vì có cái ba lô. Cái ba lô nặng trĩu như muốn kéo ngược người cô ra đằng sau, nhưng hai tay vẫn kiên quyết chỉ bám vào một chút cái thành bagage. Bám vào vai “bác” í, kẻo ngã. Dạ được ạ. Hỡi ôi, đến cái “bờ vai” nghĩa đen còn chả thiết.
2. Cũng lại chỉ mấy lọn tóc đen - trắng, mà như giữa núi cao, vực sâu.
Chỉ gần một giờ tàu chạy đã đến nơi, vậy là rất gần đất liền, ngó vọng vào cũng thấy bờ mờ xa. Thi nhau tí tách trên tàu nên lại càng thấy nhanh. Biển êm như ru ngủ. Mỗi lá cờ là phần phật.
Ôi chao là cái mùi tanh khi bước chân lên đảo, nó cứa vào khứu giác, như cá làm vạ cơm.
Phút nói thật, đang tìm người rủ đi chơi một hòn đảo ở Quảng Ninh, nghe nói đến Lý Sơn, vập vào ngay. Vừa ngao du, vừa làm việc tốt, ok quá. Lúc đầu cũng lờ mờ thôi là như thế, như thế… cũng như bao lần đi các nơi là người tốt việc tốt khác. Nhưng lần này…
Nhiều người nghe nói đến Lý Sơn, hỏi ở đâu? Giả nhời, ngoài khơi Quảng Ngãi, chỗ có tỏi í. À à, biết rồi. Vậy người ta biết đến Lý Sơn là nhờ tỏi.
Bao nhiêu thứ của Lý Sơn, ngoài tỏi và còn hơn cả tỏi, nhiều người đâu có hay!
Lý Sơn gần Hoàng Sa đấy, thế à? Lý Sơn có nhiều ngư dân bị bọn Trung Quốc bắt giữ đấy, thế à? Dám chắc còn có nhiều cái mồm há hốc chữ A, thế Hoàng Sa thì ở đâu?
Lý Sơn được chú ý đến là từ vấn đề Hoàng Sa. Nhưng cứ nghĩ, đến như Hoàng Sa mà bao nhiêu năm chả có cuốn sách giáo khoa địa lý nào nhắc tới nó, chả có luồng thông tin công khai chính thống nào nói về nó, cho đến gần đây, và bây giờ, khi những cặp mắt gian tham, cuồng vọng ngấp nghé gần bờ quá rồi thì mới rộ lên. Huống chi là Lý Sơn.
Cũng đi được vài ba hòn đảo nước nhà. Phú Quốc với không khí rì zọt ăn ngủ nghỉ. Côn Đảo với nỗi ám ảnh về tội ác. Cát Hải, Cát Bà vừa sản xuất vừa tiêu dùng… Sướng khổ lam lũ đủ cả, nhưng cảm giác chung là yên bình. Đến những nơi ấy dễ dàng ca ngợi vẻ đẹp, máu hưởng thụ rần rật trong người, khen món ăn này, chê kiểu dịch vụ kia… Nhưng ở Lý Sơn có gì khang khác.
Hay đầu tiên là bị chi phối bởi cái tâm lý “nơi anh đến là biển xa, nơi anh đến là đảo xa”? Mặc dù chỉ cách đất liền chưa đầy một tiếng tàu trung bình tốc.
Phải rồi, đấy là cái tâm lý Trường Sa!
Cũng vẫn thế thôi, nắng và gió, trời và biển, vị mặn mòi của những món ăn, nước da mặn mòi sém nắng của người, sự khô cằn bờ cát, sức chống chọi truyền đời của bản năng tồn tại, và tất nhiên - vẻ đẹp - trời, nước, tàu thuyền, ánh sáng, bình minh và hoàng hôn. Nhưng không hiểu sao ta cứ chiêm ngưỡng và thưởng ngoạn tất cả với một sự lo lắng không hề mơ hồ?
Và một nỗi rấm rứt bực dọc thế nào, ngay trong một tâm lý khá thoải mái của một chuyến đi vừa có tính ngao du, vừa có tính “thiện nguyện”.
Cái nhà trọ với một dãy phòng xếp hàng chạy dài ra bờ cát, mở một khoảng nhìn ra biển. Hàng cây bàng xòe tán lá che rợp khoảng sân, những lỗ thủng tạo những “giọt nắng” nhảy nhót trên tường đúng kiểu nhìn của ông Trịnh nhạc sĩ. Cho dù lỏng chỏng là mấy cái ghế nhựa rẻ tiền mà vẫn thấy thích, thích hơn nhiều những cái ghế nhựa giả mây ở mấy khu rì zọt cấp cao. Khỏi cần “wellcome drink” - ly nước mời chào ở mỗi khu nghỉ, nắng thế kia cứ trà đá mà tu ừng ực là đã lắm rồi. Phòng giản dị, quạt đủ dùng cho mỗi đầu người, hai cái nhỏ tròn trên đầu, một cái cao đứng cuối chân, vù vù phành phạch. Đơn sơ nhưng sạch, có lẽ vì gió biển, còn hơn mấy cái mi ni sang không ra sang, hèn chả ra hèn, mở cửa vào là thấy trên giường loang lổ và cứ thoang thoảng mùi tinh khí cũ, phát kinh.
Nhưng vài bước ra ngoài thì bẩn quá, rác là rác ngập tràn mặt đất, bồng bềnh mặt biển.
Ở đâu cũng đẹp và ở đâu cũng rác.
Người ta sống chung với rác như một lẽ tự nhiên. Không ai suy nghĩ gì và dường như cũng chả ai bắt họ phải suy nghĩ.
Đằng sau những người đàn ông đi biển là những người đàn bà Lý Sơn.
Trong gian phòng lớn của trụ sở Ủy ban huyện đảo, chiều xuống dần ngoài cửa sổ, họ ngồi một dãy dài bên chiếc bàn lớn, chờ đến lượt lãnh tiền. Đến lãnh tiền nhưng họ khóc. Những khuôn mặt mờ đi trong ánh sáng ngược có thể làm khó chịu cho các tay máy, nhưng như thế đúng hoàn cảnh họ hơn, nhìn họ thấy thương và đúng thân phận hơn là lúc lên sân khấu nhận quà trong ánh sáng lóa mắt ở các buổi lễ trọng thể. Buổi gặp gỡ trao nhận giản dị, người trao (gã đeo kính lúc này trông như một cán bộ lão thành đã hưu trí) cũng giản dị, chân tình và nhiều xúc cảm.
Họ đang nghĩ đến những người chồng đã nằm trong lòng biển sâu ngoài khơi xa, hay những người đàn ông đã bị liệt nửa người phía dưới đang ở nhà trên giường hay trên những chiếc xe lăn cũ.
Thấy người phụ nữ đẩy xe lăn cho ông chồng liệt như thế nhưng không ai để ý đến, chị âm thầm, có phần hơi khép nép, nhún nhường thân phận. Thật khổ. Sao mọi người chỉ chú ý vào ông chồng liệt nửa người kia, sao không để ý đến nữ anh hùng đứng sau chiếc xe lăn ấy? Liệt thì còn biết gì cảm giác, vậy có đoái hoài gì về cảm giác của người đàn bà bên cạnh mình? Trẻ, khỏe, làm lụng, hầu hạ, chịu đựng, cắn răng?
Nghe nói ngư dân bị liệt là do lặn sâu, ở lâu dưới nước. Vậy là tại ai? Sao một nơi có nghề biển truyền đời như thế lại không có, không biết, và không một sự huấn luyện những kinh nghiệm cho những người đi biển? Một sự thiếu trách nhiệm của con người với chính bản thân mình trước, rồi thành ra với cả gia đình, xã hội?
.
3. Những tờ giấy khen dán kín một mảng tường nhà cũ kỹ lụp sụp của một cháu học sinh cấp 1, và những tờ bằng khen của Thủ tướng Chính phủ treo ở trên cao, nơi trang trọng nhất trong nhà anh ngư dân - “sói biển” nổi tiếng Mai Phụng Lưu. Có gì giống và khác nhau?
Thì đương nhiên là khác rồi. Khác ở tầm cỡ sự việc, tầm cỡ người ký để khen.
Nhưng mà giống chứ, những thành tích đạt được từ sự chịu đựng gian khổ, vượt qua gian khó để rồi vẫn tiếp tục gian khó hơn.
Mấy hôm nữa anh Lưu lại ra Hà Nội để tiếp tục nhận bằng khen, nhưng ngôi nhà của anh vẫn còn đang phải thế chấp sổ đỏ để vay tiền tiếp tục nghề đi biển.
Em gái cấp 1 kia vẫn hằng ngày vừa cắp sách đến trường, vừa phụ mẹ bán hàng, hoặc làm một việc gì đó quá khổ so với tuổi của em, để kiếm sống.
Cái anh dân chài kia đã từng có lần phải lạy mấy thằng cướp biển để được về nhà, vì mạng sống của mình là chỗ dựa cho cả gia đình. Vậy có đáng trách không?
Ngư dân Lý Sơn phải bám biển, nhiều người nói họ vì lòng yêu nước. Giản dị hơn như lời anh Mai Phụng Lưu, là vì “từ thời ông bà tôi đã đánh bắt cá ở Hoàng Sa thì tôi quyết bám cái ngư trường mà tổ tiên mình đã bám giữ”. Cũng có người sợ, ngại vì đã mất thuyền, họ không còn khả năng đi biển, hoặc không đủ phương tiện để đương đầu với bọn cướp. Họ muốn ra bám ngư trường lắm chứ, trước tiên là vì đời sống đã, nhưng ai cho không phương tiện? Làm sao trách họ được, khi phải bỏ ngư trường để mặc bọn cướp biển hoành hành?
Người ta đang xây một bức tường bê tông cốt thép cao vòng quanh đảo như một bức tường thành, chắc để chống xâm lấn của nước biển, song quan trọng hơn là để phòng vệ. Nhưng đấy chỉ là vòng ngoài. Còn những con người bên trong thì sao, có gì bảo vệ, giữ gìn cuộc sống, phát triển nghề nghiệp cho họ, cho cơ sở hạ tầng, cống rãnh, hệ thống xử lý chất thải, môi trường…? Bao nhiêu tiền nhỉ, trong số hàng trăm nghìn tỷ đang được dự liệu đổ vào để làm tái sinh những dự án tàu biển to tát hướng tới những bến bờ xa, thì chỉ cần một phần mấy nhỏ nhoi là đủ cho một hòn đảo gần nơi đầu sóng ngọn gió như Lý Sơn này?