Người đàn bà bên bức tường gạch cũ- *-Từ ao làng-đến đài phun nước
Khoảng 40 năm trước, đọc trong “Ngày phán xử cuối cùng” của B. Dimitrova, nữ văn sĩ Bungari, gặp một câu mà cứ ấn tượng mãi: “Tôi đã bay nửa vòng trái đất để được gặp một nụ cười”. Cái “nụ cười” ấy là nụ cười bất ngờ lóe lên trên khuôn mặt khắc khổ của một người đàn bà Việt Nam trong chiến tranh. Giữa những ngày Hà Nội chìm trong bom đạn, phố xá vắng tanh, một “thành phố đi vắng” vì chiến tranh, chắc đến hai phần ba dân cư đã về nơi sơ tán, chỉ những người có nhiệm vụ thời chiến mới bám trụ ở lại, trẻ con, người già càng tuyệt hiếm. Từ khách sạn Thống Nhất (là Metropole bây giờ), Blaga thả bộ trên phố Ngô Quyền vào một buổi sáng sớm, trong cái vắng lặng lúc nắng chưa lên, từ xa bà văn sĩ chú ý tới một thân hình nhỏ nhoi như một cái chấm dần hiện đến, là một cụ bà lẫm chẫm cúi đầu bước từng bước một, một thân hình queo quắt, cứ thế vừa đi vừa như tìm một vật gì dưới đất. Khi đến gần, trước người phụ nữ nước ngoài xa lạ, bất ngờ cụ bà ngẩng mặt lên, và bất ngờ hơn là trên khuôn mặt héo khô ấy nở một nụ cười, một nụ cười vô thanh, không cần ngôn ngữ.
Ừ, dù nước mắt hay nụ cười thì cũng không cần phiên dịch. Và sự im lặng cũng thế.
Nhất là sự im lặng của người già.
Rất nhiều lần nhìn hình ảnh “bà còng” chống gậy trên con đường làng, hay ở góc xa xa cuối phố, thấy rất cô đơn. Cứ thấy chống chếnh giữa niềm thương cảm, nhưng nói thật, là sự ngưỡng mộ.
Họ rất đẹp, một vẻ đẹp thăm thẳm trong nỗi cô đơn ấy.
Cho dù là một bà khăn mỏ quạ nhà quê, hay một bà nhung the thành thị.
Năm năm trước, gặp một bà còng trên con đường rơm rạ ở Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Hôm qua gặp một bà khăn mỏ quạ chống gậy bước đi bên bức tường gạch cũ ở thôn Na, Bắc Ninh.
Và một bà cũng bên bức tường gạch, không phải quê ở Na, nhưng giờ cũng như người làng Na. Bà đứng đấy, nhìn một vật gì đó, nghĩ một điều gì đó, không biết cái “điểm nhìn” khiến bà suy nghĩ, hay sự suy nghĩ dẫn dắt điểm nhìn.
Nhưng không một chút cô đơn. Và rất đẹp.
Bà là họa sĩ Nguyễn Mộng Bích, thân mẫu họa sĩ Bùi Hoài Mai.
Tết Bính Ngọ 2014
Từ ao làng đến đài phun nước
.
Ngoài lễ hội, hay việc làng diễn ra ở sân đình, đi cúng lễ ở chùa, giao tiếp buôn bán nơi chợ búa, trong đời sống người Việt xưa ít có những thói quen sinh hoạt khác ở chốn công cộng, nhất là những sinh hoạt mang tính thư giãn, nghỉ ngơi cho cá nhân. Đến chỗ nào thì cũng phải vì việc gì đó, lễ hội thì bị cuốn theo không khí tưng bừng của lễ hội, vào chùa thì phải tôn nghiêm, cầu xin, khấn bái, ra chợ thì mải chuyện bán mua... Ở những nơi diễn ra sinh hoạt như vậy, ý thức mỗi người thường bị cuốn hút vào cái không khí chung của sự việc. Những sinh hoạt, nghỉ ngơi cá nhân chỉ trên mảnh sân con, hay hàng hiên nhà mình, chả còn chỗ nào khác. Do vậy, từ xưa chưa hình thành cái ý thức chỉ dẫn cho những sinh hoạt mang tính cá nhân ở nơi chốn công cộng.
Có một nơi sinh hoạt công cộng, mà mọi hoạt động, thói quen cá nhân diễn ra thoải mái nhất, nơi người ta vừa làm mọi việc, nhưng cũng là nơi thư giãn, là cái cầu ao ở làng. Vừa giặt giũ, mổ cá, làm gà, lại vừa tán chuyện, hoặc cãi nhau. Ở đây, người ta được thể hiện tự do nhất các thói quen, và mọi sự tùy tiện. Người ta làm những việc có ý thức và vô ý thức. Một bà giặt chiếu nổi lềnh bềnh mấy cục phân trẻ con, nhưng bên cạnh đó, người khác lại rửa nồi niêu, làm cỗ lòng, mớ cá. Ông thợ cày ngoài đồng về, chân lấm bùn điềm nhiên lội xuống khoắng một cái ngay bên cạnh một bà đang rửa bát, ai nấy đều cho là bình thường. Mình làm sạch cho mình, nhưng không có cảm giác làm bẩn cho người khác.
Thị dân nhập cư từ nông thôn mang ra thành thị một số nếp sinh hoạt và những thói quen bên ao làng, cùng với sự hồn nhiên của những thói quen. Cũng chả trách gì được họ. Trong hàng thế kỷ, đa phần cái không gian công cộng mà họ gắn bó nhiều cũng chỉ loanh quanh cái vỉa hè trước cửa nhà, sân chung trong dãy nhà tập thể, hay là một cái bể nước, vòi nước công cộng. Nó cũng chẳng khác một cái cầu ao chuyển ra thành phố, cũng vui vẻ, cũng thoải mái, hoặc om sòm những tiếng cãi nhau.
Những không gian đô thị dành cho sinh hoạt công cộng như công viên, vườn hoa, quảng trường một thời rất ít và rất xa lạ với nhiều tầng lớp dân cư. Theo quá trình phát triển đô thị, chúng được xây dựng dần, và cũng theo đó là những tầng lớp dân nhập cư mới. Nhu cầu hưởng thụ ngày càng nhiều nhưng chưa ai kịp chuẩn bị gì. Mọi hành vi vẫn bị chi phối bởi ý thức cũ. Một thời có xu hướng làm công cộng hóa những không gian riêng biệt, những ngôi nhà riêng, biệt thự bị chia năm xẻ bảy. Và ngược lại, là cá nhân hóa những không gian công cộng, những mảnh sân chung bị lấn chiếm, đền chùa bị lấn chiếm, vườn hoa, vỉa hè cũng bị lấn chiếm, từ đó nảy sinh một ý thức có tính phổ biến, là tự do và tùy tiện. Làm nhập nhằng các khái niệm cá nhân và công cộng, không còn gì linh thiêng nữa, những góc riêng tự nhiên xả rác trong công viên, đài phun nước thành nơi tắm giặt cho người vô gia cư, nhà chờ xe buýt là nơi đi tiểu, ghế đá ven hồ là chỗ ngủ trưa.
Thực ra ở phương Tây người ta cũng chả quá trang nghiêm lắm ở những nơi công cộng. Họ đề cao sở thích cá nhân, và khá thoải mái. Những bãi cỏ, hành lang, khoảng trống ở sân bay, bậc thềm nhà hát hay sân quảng trường vẫn ngổn ngang người nằm ngồi phơi nắng mùa hè, thậm chí còn hở hang. Nhưng trong sự thỏa mãn cá nhân ấy vẫn thấy như có gì rất chung, rất tôn trọng và hòa quyện vào tinh thần cộng đồng, vẫn giữ gìn những lề luật, những quy định của cộng đồng. Điều khiến người ta không thấy chướng có lẽ là ở sự hòa hợp ấy.
Những nhà thiết kế đô thị không khó để tạo nên một không gian đô thị đẹp, và tiện ích. Người ta có thể sáng tạo, có thể bắt chước hay học hỏi từ những nơi thiên hạ đã làm. Nhưng ý thức của con người hưởng thụ mới là cái chi phối, cái tạo nên đời sống thực chất của những không gian đô thị ấy. Nó có thể làm sống hoặc giết chết cái không gian ấy. Một khúc ngoặt dưới đường hầm tàu điện ngầm rất dễ trở nên tăm tối, dơ bẩn và đầy sợ hãi, nhưng bỗng nhiên nó sống động và yên lành khi có vài chàng lãng tử ngồi hát và chơi đàn. Trong khi cả một góc công viên, một đài phun nước giữa khu vực trung tâm bỗng trở nên bất trắc khiến người ta ngần ngại, vì chúng đã bị một số cá nhân sử dụng một cách đầy chiếm hữu và tùy tiện. Riết rồi người ta sẽ mất hứng thú và mất luôn cả thói quen hưởng thụ ở những nơi đáng ra là cực kỳ cần thiết và thú vị cho một đời sống có chất lượng.
Bây giờ đã có phố đi bộ lớn như một quảng trường ở đại lộ Nguyễn Huệ Sài Gòn, một không gian thoáng đãng giữa khu trung tâm với những dẫy nhà cao tầng hai bên đường, một không gian lung linh, hiện đại. Đã có nhiều ý kiến về khu này nhưng gì thì gì, dân chúng cũng đã có một nơi để đến, thư giãn và hít thở không khí của nền văn minh mà ở các nước đã có từ những năm xửa xưa của thế kỷ trước. Những ngày đầu tiên đã có những đứa bé nhảy xuống tắm ở đài phun nước, và mỗi tối người ta vẫn túm tụm đông ngẹt xung quanh cái vòng tròn nước lung linh sắc màu với niềm thích thú tột độ. Những cảm giác lạ lẫm ban đầu sẽ dần qua, sự quá khích lộn xộn của giới trẻ như phóng xe qua đường, hẹn hò nhau đánh lộn sẽ đến lúc bị lên án và ngăn chặn và người ta sẽ thích nghi dần, bị chi phối dần bởi những giá trị do sự văn minh mang lại. Cái sự văn minh hình thành từ một không gian mới sẽ mang tới cho họ những thói quen mới khiến cho những gì lạc hậu sẽ trở thành lạc lõng rồi mất dần.
Muốn có một nền văn minh thì trước hết phải có một không gian sống thực thụ tương ứng để người ta học cách văn minh, nếu không mọi lời ca thán, dậy dỗ nhau chỉ như những lời nói suông vớ vẩn.