Cụ Cẩn
Nhất Trí, nhì Lân, tam Vân, tứ Cẩn”, ấy là tứ trụ của mỹ thuật Việt Nam thế hệ l’École Indochine de Beaux-Art (Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương) trong những năm 1930 - 1940: Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn.
.
Cầu thang lên gác ba trong ngôi biệt thự số 10 Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội bây giờ có thể làm mỏi chân nhiều bậc trung niên, những đôi chân quen đi thang máy dù lên xuống chỉ một tầng lầu, hay vì cái bụng uống bia nhiều nên nặng. Nhà Pháp xây cao, cái cầu thang dài thườn thượt không chiếu nghỉ, đưa ta trở về thời bao cấp là cái vệt xe chạy một đường thẳng dài từ dưới lên để người ta đẩy xe đạp (về sau là xe máy) chia đôi bản cầu thang thành hai lối hẹp. Tự dưng chả nghĩ đến tranh pháo, cứ tưởng tượng ra hình ảnh cụ Cẩn của những năm 1970, 1980 và đầu những năm 1990, ở cái tuổi ngoài 60, 70, 80 của cuộc đời, người đàn ông dong dỏng, ôm ốm, râu dài rậm rạp hằng ngày vác cái xe đạp, hay quần đùi áo may ô xách những xô nước lên xuống mấy lần những bậc cầu thang cho người vợ nhỏ hơn mình 34 tuổi tắm táp mỗi chiều hè thì thật là cung kính cụ quá. Cung kính không phải với danh phận của một danh họa, mà với chức phận một con người, một người Đàn Ông rất đáng viết hoa.
Chớm hè, cái nóng chưa dữ dội nhưng sự hâm hấp cũng đủ làm dâm dấp mồ hôi lưng áo. Lại thêm cái mùi “nhà tập thể” nữa, là cái mùi nước mắm gặp lửa bay ra từ tầng hai. Đi qua đấy là nơi ở của những tên tuổi của nền văn học nước nhà, Tế Hanh “Nhớ con sông quê hương” (có phải?), và Nguyễn Văn Bổng “Con trâu”. Nơi của “Em Thúy” tít tận gác ba, là hai căn phòng rất nhiều cửa sổ và những bức tường cũ với nhiều vết nứt.
Khi đi vào chỗ ở của một danh nhân là ta đi vào cái thế giới của họ. Dù chỉ là một căn phòng nhỏ, nhưng là nơi đã chứa đựng, gói ghém cuộc đời với đầy những dấu tích vừa to tát của một cái “nghiệp lớn” hay nhỏ nhặt của một đời thường, nên ta có tâm lý rất pha trộn, nửa hau háu, nửa dè dặt. Vừa muốn trong một khoảng thời gian rất ngắn phải nhìn, phải thấy tất cả, lại vừa muốn từ từ, để cảm nhận theo cách nhấm nháp, như ăn dè một miếng bánh, hay nhấp từng ngụm nhỏ một ly rượu ngon.
Cụ Cẩn vắng nhà theo nghĩa đen đã 16 năm,
nhưng bức tượng (người tạc là vợ cụ) đặt trên bệ khiến cho khách được cảm giác như cụ đang ở nhà, nhờ mấy cái ổ khóa để bên. Có gì giống như lúc khách đến thì cụ vừa đi đâu về, mở cửa cho vào, vứt uỵch mấy ổ khóa lên bệ rồi bảo “ngồi chơi”. Những nhà nhiếp ảnh chụp nội thất có thể sẽ không muốn cho mấy cái thứ linh tinh lọt vào khuôn hình, nhưng mấy cái ổ khóa này cũ lắm, có thể còn những dấu vân tay họa sĩ Trần Văn Cẩn in trên đó chăng?
“Em Thúy” ngoài đời nghe nói năm nay đã ngoài bẩy mấy. “Em Thúy” của tranh thật thì ngồi trong bảo tàng mỹ thuật, chỉ còn kia “Em Thúy” của tranh in phiên bản, treo trên tường, chếch phía trên đầu bức tượng. Đôi môi như một nụ hồng và ánh mắt nhìn đăm đăm vào góc nhà, trong ánh sáng có phần nhập nhoạng và một thứ linh cảm tinh thần dồn nén thì ánh nhìn từ bức tranh in cứ như có hồn thật. Là hồn cụ lẩn khuất quanh đâu đó ám vào bức tranh, hay là do tâm lý?
Các mảng tường dày đặc những tranh thiếu nữ và hoa, đấy là những bức sơn dầu, có khung hoặc không khung. Tranh sơn dầu của cụ không nhiều, một số trên tường, một số nằm trong cái thùng tôn ở góc nhà đậy điệm như cất chăn bông khi qua vụ rét. Hai cái thùng tôn và một thùng sắt như thùng đạn pháo đựng toàn bộ di sản còn lại của Trần Văn Cẩn, hơn một nghìn bức tranh, trực họa, ký họa, nghiên cứu, phác thảo bằng các chất liệu sơn dầu, chì, bút sắt, màu nước, sáp màu, pastel, mực nho… nằm im trong đấy.
Những bức thời tiền chiến chỉ còn là hình ảnh trong tư liệu, tranh in. Hai cái thùng sắt tây chứa hàng trăm bức của thời chống Pháp, ký họa những vùng kháng chiến đi qua. Những cảnh núi rừng, chợ, những “bà bủ”, bộ đội, tù binh, thiếu nữ, qua tranh Trần Văn Chiẩếnn kta có cảm giác như thấy cuộc kháng chiến sao “đẹp” thế, người đẹp, cảnh đẹp, nhiều cảm xúc, và yên bình.
Vào những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này, vẻ đẹp con người trong tranh cụ lại toàn khỏe khoắn, săn chắc, hừng hừng khí thế sản xuất, chiến đấu của những trai gái thợ lò, nông dân, công nhân, dân quân miền biển… xem những bức ấy có cảm giác như nghe những bản hùng ca. Kiểu “trông lên Trường Sơn kìa gió đang thổi, trông ra biển Đông, kìa sóng đang gầm…”. Ý đồ tư tưởng, quan điểm nghệ thuật có ý thức “lập trường” rất rõ nhưng thực sự bằng những nét vẽ tài hoa, bố cục tạo hình chuẩn, thấm đẫm sự hiểu biết cặn kẽ về “anatomie” người Việt nên tranh đẹp và thực sự gây ấn tượng.
Nhưng sướng nhất vẫn là xem mảng “thiếu nữ” của cụ và đặc biệt là những bức nude dù không nhiều. Ở đây ta gặp một cụ Cẩn khác. Một cụ Cẩn mê, một cụ Cẩn của vẻ đẹp phụ nữ. Nghe nói trong số 50 nhân vật trong tranh chân dung cụ vẽ thì có tới 43 là phụ nữ. Khuôn mặt, thịt da thiếu nữ Hà Nội hiện ra dưới những những nhát quẹt, mảng màu ấm áp trên cái nền vải mỏng, mát của sắc nhẹ nhàng, trung tính, hay một tấm thân trần trụi không phải nõn nà, mà phồn thực, đầy đặn ấm nồng ngả nghiêng bên những bông cúc vàng, nét mặt và dòng suối tóc đen nhánh chảy ra sau lưng phảng phất nét dáng thời “Thiếu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân nhưng lại “phô bày” khiến người ta đê mê như khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp “bên trong” của một thiếu nữ còn tinh khiết.
Nhiều bức nude khác của cụ ở dạng trực họa nhìn đẹp và “vui”. Có lẽ là vì ở những dáng tạo hình, thế nằm ngồi cong, uốn… Một vài bức “vui” ở chỗ cụ trực họa những hình ảnh người tình, người bạn đời ở những khoảng khắc rất tự nhiên, như vô tình…
Một điều rất rõ là các “maitre” (bậc thầy) thuộc thế hệ Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đều thấm đẫm một tinh thần dân tộc, những tình cảm sâu đậm ấy như có sẵn trong hồn, trong quá trình hình thành mỹ cảm từ thuở nhỏ. Về cảnh quan là những hình ảnh đồng quê, chùa chiền, mái đình, cây đa, bóng nước, những chi tiết kiến trúc cổ, cảnh sinh hoạt, cấy lúa, tát nước. Con người thì từ hình ảnh người mẹ, người chị, hay một người phụ nữ nào đó của đời sống với sự e ấp, mềm mại kiểu Á Đông (có thể chỉ là hình thức do bị đè nén). Và đến lúc vào Beaux-Art, gặp và tiếp nhận cái chuẩn mực của các nguyên tắc tạo hình và những kiến thức căn bản nhất của văn hóa phương Tây, nhưng họ vẫn bị ám ảnh những đường nét cũ và thế là có sự gặp gỡ, hòa trộn. (Trong kiến trúc cũng vậy, những ngôi nhà kiểu Đông Dương thường là những mẫu mực của tỷ lệ, những thành phần che chắn của một ngôi nhà nhiệt đới nhưng vẫn “cõng” trên đó những đường nét của kiến trúc cổ truyền). Có điều, họ biết xay tán khá nhuần nhuyễn và đã tạo thành một nền tảng. Và sự khao khát bản năng đầy ắp bên trong cái vẻ như bình lặng ấy đã được “thổ lộ” ra một cách tinh tế dưới bàn tay tài hoa và trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ, thành tác phẩm mang phong cách đặc trưng của một thế hệ ở một thời.