Khách Hà Nội
Nhà giáo Vượng sáng nay có khách. Suốt chiều hôm qua anh đã giục vợ con chuẩn bị đánh lại cái chậu thau rửa mặt, đổ nước đầy bể, dọn dẹp lại cửa nhà. Khách ở đây là gia đình bà Đốc Hải, bà đi cùng hai người con trai, cậu lớn ở bên Pháp về chơi sau nhiều năm xa xứ, cậu nhỏ cũng làm ăn xa, nghe đâu mãi tận Sài Gòn, nay về thăm lại ngôi làng xưa, đối với gia đình bà, thực ra cũng chẳng phải quê cha đất tổ gì, nhưng là mảnh đất của cái tình, cái nghĩa, sâu nặng một thời, trải qua cả một chặng dài, suốt hai cuộc chiến tranh.
Gọi là bà Đốc, bởi vì bà làm vợ của một ông “đốc tờ”, Hải là tên chồng. Ông mất cũng đã lâu. Nghĩ cũng lạ, quê quán ông bà ở đâu, nào ai biết, nhưng ở chốn này, từ hơn năm mươi năm nay, người ta quý bà, từ cái thời bà còn được gọi là cô. Họ quý bà như một người ruột thịt, hơn một người ruột thịt, và họ ghen tị lẫn nhau vì bà. Bà như có họ hàng với toàn thể dân làng. Một lần về, đi từ đầu làng đến cuối xóm, chốc chốc lại có người chào hỏi, lại giữ bà lại chuyện trò, mời mọc. Vài bước lại phải dừng, trò chuyện, cho quà. Họ quý bà vì bà đẹp, cũng phải. Thời trẻ bà từng là một cô gái đẹp, với một vẻ dịu hiền, e ấp của một cô gái Hà Nội “con nhà’’. Lúc luống tuổi, bà càng đẹp, vẻ đẹp sang trọng, quý phái, kiêu sa của
một bà hoàng, những bức ảnh cụ chụp từ mấy mươi năm trước nay đã hoen ố, ngả vàng, nhưng vẫn nói lên điều đó. Và bây giờ bà vẫn còn đẹp, những sợi tóc như những sợi cước trắng tinh, mượt mà, óng ả. Không có cái vẻ to béo, phốp pháp thường thấy nơi các bậc mệnh phụ phu nhân lúc về già, bà vẫn gọn gàng nhỏ nhắn, với khuôn mặt rạng rỡ, phúc hậu, làn da mịn, hồng hào, khỏe mạnh. Nhìn bà Đốc, thấy rõ ra là một người sang cả, nhưng cũng thật dễ gần. Nói chẳng quá lời, ở bà có cái gì đó rất gần với hình ảnh của một bà tiên trong truyện cổ tích. Nhưng cái chính nhất, người ta thích bà vì bà nhân từ, rộng rãi với tất cả mọi người. Nghĩ cũng lạ ithật, kiếp người như lắm lúc có nhân duyên.
Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, thuở còn đi học, bà từng là nữ sinh Đồng Khánh. Thế rồi cọ nữ sinh, con vị công chức nhà dây thép gặp một chàng sinh viên trường thuốc, con của một vị quan tuy không to, nhưng làm ở phủ Toàn quyền. Họ nên vợ, nên chồng, kể ra cũng là môn đăng hộ đối.
Lại nói chuyện về cái “nhân duyên’’ mà từ đó đưa gia đình ông bác sĩ quyền quý ở Hà Nội đến với cái làng nghèo, nhỏ bé bên bờ sông Nhuệ này. Chàng sinh viên trường thuốc ra trường trở thành ‘‘ Ông Đốc’’ cưới được cô vợ trẻ đẹp, nề nếp, rồi mở phòng mạch tư, thu nhập đều đều, rồi ra đời một cậu con trai đầu lòng kháu khỉnh, ngôi nhà nhỏ bên hồ Ha Le thực sự là một tổ ấm yên lành.
Vào thời ấy, ‘‘đốc tờ’’ là một nghề cao sang lắm, giới giao tiếp của gia đình ông bà thường là những người quyền quý, có tiền. Ấy vậy, nhưng đối với bất cứ ai, ông bà đều có cái nhìn thiện cảm, đều có thể giao hòa, thân thiện, từ anh xe, chị bếp, hay một ông giáo trường tư bên nhà hàng xóm. Thế rồi, vào một đêm của tháng Mười hai năm 1946, súng nổ đì đùng trong thành phố, điện tắt, nhà cửa rung lên, trong cái rét căm căm, cả gia đình ông Đốc vội vã khăn gói rời thành phố, không phương hướng, không ý thức rõ rệt trong đầu, như một phản xạ tư nhiên, cốt sao đi cho xa, cho nhanh khỏi cái thành phố đang đầy mũi tên hòn đạn này. Nắm tay theo vợ chồng người hàng xóm đi suốt đêm, khi những tia nắng đầu tiên ló rạng thì trước mặt họ, thấy xa mờ một dải màu xanh, thanh bình, yên ắng. Chỉ có tiếng gà gáy te te, vài tiếng chó sủa rời rạc từ xa xôi vọng lại. “Làng tôi đấy’’, vợ chồng ông Đốc lặng lẽ nhìn theo ngón tay của người hàng xóm, “chừng hơn hai cây số nữa là tới làng, ông bà cứ yên chí đi cùng chúng tôi, tạm lánh ở đây ít ngày, thư thư nghe ngóng thế nào rồi tính’’.
Và họ về làng, lần đầu tiên trong đời vợ chồng ông Đốc về một làng quê, không phải là một cuộc dạo chơi, mà để sống. Một làng quê nghèo, cổ kính với những mái nhà tranh lúp xúp, xiêu vẹo, không nước máy, không đèn điện, không nhà tắm, không nhà vệ sinh… Hai vợ chồng và đứa con trai mới hơn một tuổi, cái tuổi chỉ biết ngồi trong xe đẩy hay trên sườn chị vú. Với ông bà Đốc, đây chính là những ngày đáng nhớ nhất trong đời. Ở quê, bên cạnh cái khổ sở về tiện nghi vật chất, một cam go nữa đối với ông bà Đốc chính là sự khắt khe, ngặt nghèo của những thông lệ, tập quán trong sinh hoạt, trong đời sống riêng tư. Đối với vợ chồng ông, đấy là cả một thử thách lớn. Cũng thật may, gia đình ông được xếp ở nhờ nhà người em ruột của người hàng xóm, chả biết họ rủ rỉ thế nào mà người em lại dành cho gia đình ông Đốc hẳn nửa gian nhà, lại kèm thêm cái chái, nơi vẫn chứa thóc mọi ngày, làm phòng ngủ riêng. Ở quê, chuyện khách đến nhà mà ngủ cùng nhau dù là vợ chồng cũng không được, cũng là kiêng kỵ lắm. Đằng này, không những thế, họ còn thương cảm cho gia đình ông. Nhìn cái cảnh ông lúng túng kéo từng gầu nước giếng, hay cảnh bà lúi húi rửa chân ở cầu ao, họ thường chép miệng: “Thật rõ khổ, đang là sung sướng thế”, cứ như thể những người như vợ chồng ông chỉ có quyền được sướng, được hưởng đầy đủ những tiện nghi vật chất thị thành. Không chỉ có chủ nhà, nhiều người trong làng cũng xót thương cho họ, người ta mang chuối, mang
bưởi vườn nhà đến biếu. Họ càng quý ông hơn, tôn vinh ông hơn, vì ông thường xuyên khám và phát không thuốc cho dân làng và con cái họ. Trong những ngày ấy, lần đầu tiên trong đời, vợ chồng ông Đốc có được một cách nhìn về người nhà quê, không phải qua sách vở mà bằng sự cảm nhận từ chính đời sống đầy vẻ mới lạ, ngỡ ngàng, và ông bà trở nên gắn bó dần. Gia đình đã sống từ nhiều đời ở Hà Nội, không quê quán, nay lần đầu tiên ông bà thấy có một nơi chốn mà ở đấy đã cảm nhận được một điều gì đó khác lạ lắm trong tình cảm, trong tâm trạng.
Không chỉ là ít ngày như lúc đầu dự tính, gia đình ông Đốc trú tại ngôi làng đó đến mấy tháng sau. Chẳng biết thế nào gia đình ông không kéo nhau về Hà Nội như bao gia đình tản cư khác, mà lại gồng gánh nhau lên Việt Bắc! Nói là “gồng gánh” bởi vì hôm lên đường dân làng cử hằn một lực điền gánh con ông bà và đồ đạc. Trong hai cái thúng lủng lẳng ở hai đầu, một bên là tay nải áo quần, còn ở đầu kia là thằng bé con hơn một tuổi, ôm quả bưởi trong lòng, ngơ ngác nhìn bố mẹ nó khóc sụt sùi, và bao nhiêu người khác nữa cũng khóc lóc, bịn rịn chia tay.
Một thời gian sau không đủ sức chịu đựng thêm cuộc sống rừng rú, quá khả năng thích ứng với họ, vợ chồng ông lại bồng bế con nhỏ về thành, mở
Lại phòng mạch tư. Vào những năm tháng ấy khắp Hà Nội nhan nhản những tốp lính lê dương, đen, trắng, chật kín các hộp đêm, tiệm nhảy nhà chứa. Phòng mạch riêng của ông Đốc nằm trước cửa một trại bảo an, các chú lính đi chơi về đổ bệnh, âm thầm lui tới nhờ ông, và cứ thế ông Đốc giàu lên nhanh chóng. Đến lúc ta tiếp quản Thủ đô, ông đóng cửa phòng mạch, ông đi làm cho Nhà nước, ông là nhân sĩ, ông vào “mặt trận”, có năm ông trúng đại biểu Quốc hội. Nhiều biệt thự ông tậu được thời Tây, ông hiến cả, chỉ giữ lại được một phần, gồm vài phòng làm chỗ ở cho gia đình, trong một ngôi biệt thự nằm sâu tận cuối đường ở một con phố nhỏ. Gia đình ông vẫn giao tiếp, vẫn có những người thuộc giới cũ của ông lui tới. Cửa nhà ông thấy ra vào nhiều khách khứa mà nhìn họ, từ khuôn mặt cho đến cách đi đứng, ăn vận, người ta đoán biết ngay đấy là những “ông Thông, bà Phán” cũ, là những vị luật sư, dược sĩ, hay công chức lưu dung từ thời Tây. Ấy vậy nhưng lâu lâu, những người hàng xóm lại trông thấy, lúc thì ông nhà quê đen đủi, mặt xương xương, chân đi đất, khi lại là một chị, một bà, vẻ quê quê, ngơ ngác, thập thò trước cổng. Lại có lần thấy một bà chít khăn mỏ quạ, gánh cả một giành khoai đầy, trên đầu quang gánh lại thấy có cái bị, thò ra hai cổ con gà. Ấy là những người ở làng, cũng thường xuyên lắm, khi thì để khám bệnh, lúc ra chơi. Tiếng là đã đóng cửa phòng mạch, nhưng nhà ông vẫn còn nhiều bệnh nhân lui tới, những người ở quê, ai đau ốm gì, họ nghĩ về ông trước, hỏi đến bệnh viện, họ ra ông Đốc, như một thói quen. Khách ở quê ra được ông bà tiếp đón nhiệt tình, niềm nở.
Có người chả đau ốm gì, cũng thích ra chơi, như ra chơi với những người ruột thịt, và ông bà cũng đón tiếp họ, mời mọc họ như với những người ruột thịt. Dưới chế độ mới, đành rằng cũng là đơn giản và luộm thuộm đi nhiều, nhưng so với nhiều gia đình khác
ở Hà Nội lúc đó, trong gia đình ông Đốc vẫn còn phảng phất ít nhiều không khí của thời trước, nghĩa là còn sang lắm, các phòng ngủ có giường đệm, có “ga” trải giường, đến bữa ăn, bàn trải khăn trắng. Lúc đầu còn rụt rè, nhưng sau mãi thành quen, như cơm bữa, rất tự nhiên, họ ở lại, họ ăn uống, thậm chí nhiều hôm đông quá, có người còn được ngủ cùng bà, chung chăn, chung màn với bà. Mọi người trong nhà ai cũng lạ, sao bà chẳng ngại gì cả cái mùi thôn dã của nhà quê nhỉ, bà chỉ hay nhắc khách phải rửa chân mỗi lúc lên giường. Thỉnh thoảng lại có ông còn vác cả đơn kiện đòi lại nhà thờ họ, nhờ ông Đốc, với tư cách là đại biểu Quốc hội, chuyển lên trung ương.
Thế rồi đùng một cái, đạn lại nổ, bom lại rơi, đến thời chống Mỹ gia đình ông Đốc một lần nữa lại dẫn con cái về làng. Và lần này, như mọi chuyến “ về quê” thực sự! Trong nỗi lo chiến cuộc, cả nhà ông như có một điều gì đó vui vui, cái vui của một người được trở về nhà, về một nơi như mình đã được sinh ra, được cưu mang, được kính nể. Gửi luôn cậu út ở nhà quê, hằng ngày đi học trường làng, ông bà Đốc phải trở ra Hà Nội, còn phải đi làm, thỉnh thoảng mới về vào những ngày nghỉ, hoặc tranh thủ sau một ca trực, khi bằng xe ô tô, lúc xe đạp. Những lần như thế, trong hành lý của ông bà, bên cạnh dầu, mắm, gạo, mì... tiếp tế cho con, bao giờ ông bà cũng chuẩn bị cả quà cho làng xóm, thường là những chiếc bánh mì mậu dịch, mua từ tem phiếu theo tiêu chuẩn lương thực hằng tháng, hay những gói kẹo loại hai mà vợ chồng ông thường phải xếp hàng nhiều lần mới đủ. Họ mừng, họ vui, họ quý hóa và vô cùng cảm kích. Họ giành nhau mời ông bà Đốc lại nhà, ông bà không đi hết, họ giận, họ dỗi. Vợ chồng ông cứ phải chia ra, mỗi người đến một nơi, sợ mang tiếng khinh người. Cái trận bom rải thảm năm 1972, loa truyền thanh xã loan tin tàu bay Mỹ bỏ bom gần nơi bà Đốc làm việc, có bà chạy khắp làng, khóc hu hu, lo bà Đốc chết. Ngày ông mất, đến hơn nửa làng muốn ra đưa, bàn đi tính lại, đông như thế, chỗ đâu người ta tiếp đãi, bèn cử đại biểu, dễ cũng đến hơn ba chục người.
Ấy vậy, mà đã mấy mươi năm…
Chuyến về làng hôm nay, bà đã già và yếu đi nhiều lắm, nhưng vẫn cố về. Bà hiểu rằng, với mình thời gian còn lại không nhiều, phải về để tạ lễ với làng, để đáp lại tấm lòng của bà con làng xóm, tuy không ruột rà, máu mủ, nhưng lại có một sợi dây vô hình trong trái tim, trong tâm khảm, nó níu kéo, nó gắn chặt vào với họ, khăng khít keo sơn. Cũng nhân thể dẫn hai người con ở xa về chơi, cho chúng thăm lại cái nơi đã in đậm vào ký ức tuổ thơ và đã để lại trong tâm thức không ít nỗi hoài cảm, mà bây giờ khi giàu có, đầy đủ một cuộc sống vật chất rồi, chúng lại càng cảm thấy trở nên da diết. Và còn một điều sâu thẳm trong lòng bà chưa nói với ai, bà muốn tìm một chỗ nằm vĩnh hằng trong lòng mảnh đất mỗi năm có hai vụ chiêm mùa, với hương thơm ngào ngạt của mùa gặt hái tháng năm, tháng mười. Bà muốn được yên nghỉ trong lòng những người dân quê, chân lấm tay bùn, tưởng chừng như với bà, họ thuộc một tầng lớp khác, nhưng bây giờ bà cảm thấy mình như đã thuộc về họ. Mỗi lần đi thăm ông, nhìn chỗ ông nằm, tuy cũng là khu vực đặc biệt trong nghĩa trang Văn Điển, những dãy mộ xi măng thẳng hàng tăm tắp, theo tiêu chuẩn, trong tương lai bà cũng có chỗ nằm chung với ông ở đấy, bà cứ thấy sờ sợ và buồn.
Ở, chỗ ấy, bà như thấy có một không khí gì lành lạnh, thật ảm đạm, u ám, xa xôi với cuộc sống, với con người. Bà ao ước được nằm ở một nơi, thật gần gũi với cuộc đời trần thế, nơi hằng ngày có những đứa trẻ chăn trâu, chúng ngồi trên mộ bà, thả diều, thổi sáo, hay những người dân quê ngày hai buổi ra đồng, cày cấy, nhổ cỏ, gieo mạ… vừa làm họ vừa nói chuyện với nhau, bà sẽ được nghe những tiếng chuyện trò, bà sẽ cảm thấy như ngày nào cũng có người đến thăm mình vậy.
Còn mải mê với những ý nghĩ miên man ấy, xe đã đến đầu làng, từng đàn trẻ con chân đất chạy theo xe, reo hò ầm ĩ. Có đứa còn liều mạng nhảy lên cả thùng xe đằng sau, khiến bà và hai cậu con
trai phải xuống xe, cuốc bộ. Mới đến đầu chợ, trước vẻ đổi thay đến không thể nào nhận ra, ba mẹ con còn đang ngỡ ngàng, lớ ngớ cố tìm một lối xưa quen thuộc, thì một bàn tay đập mạnh vào vai cậu lớn: “Cậu Nâu hả, ối giời ôi, trắng cả tóc rồi!”. Nhìn sang, thì ra là giáo Vượng. “Ồ bác Vượng, gớm, chả nhận ra được bác tẹo nào!” - Hùng ngỡ ngàng reo lên.
Nâu là tên của cậu cả Hùng, được bà con thôn xóm đặt cho từ ngày đầu tiên chạy loạn về làng, đấy là tên của ngôi làng đã cưu mang, gia đình cậu, từ hơn năm mươi năm trước, dạo tản cư.
“Bà đã về” - Giáo Vượng chào bà Đốc, rồi với giọng hồ hởi: “Từ chiều hôm qua nghe ở Hà Nội điện về, chúng cháu rập rình từ sáng, đi vào, đi ra, tưởng xe về sớm”. Miệng nói, tay giằng lấy những túi, những bọc lỉnh kỉnh trên tay bà Đốc và hai cậu con trai hăm hở.
Giáo Vượng mới ngoài năm mươi, cũng trạc cậu cả Hùng, nhưng tóc bạc nhiều, lại rụng gần hết, má hóp, răng lại móm, thành ra nom như ông lão bảy mươi. Anh là con trai trưởng trong gia đình năm nào đã cho ông bà Đốc ở nhờ. Bố anh, ông Đồ, chính là em ruột bà hàn g xóm ngoài Hà Nội của ông bà Đốc năm chạy giặc ấy.
Thấm thoát đã mấy chục năm, họ bắt đầu như thế, hết tránh đạn Tây, rồi bom Mỹ, rồi nên thân thiết, rồi thành như ruột thịt từ bao giờ chẳng rõ. Chỉ biết lần nào về quê, ông bà Đốc cũng coi nhà
ông bà Đồ, bố mẹ anh giáo Vượng như chỗ ruột thịt, mỗi lúc giỗ chạp, thắp nén hương lên bàn thờ nhà ông Đồ, ông bà Đốc cảm giác như thắp lên bàn thờ của chính họ tộc, tổ tiên mình.
Phút chốc đã quây kín lại thành một vòng người, chả biết từ đâu tin loan đi nhanh thế: Bà Đốc lại về làng! Người như ở ngoài đồng về, vai vác cày, trên mặt còn dính lại những vết bùn, có bà lại như dang dở nồi cám lợn đang sôi, cũng tất tưởi chạy ra. Mấy đứa trẻ quần đùi, chân đất, tóc đỏ râu ngô, mũi thò lò, lấp ló sau lưng mẹ, nhìn khách Hà Nội, vẻ tò mò, sợ sệt. Cứ lào xào, mỗi người một ý, tranh nhau hẹn, khó khăn mãi, mấy mẹ con bà Đốc mới thoát được ra.
“Tôi xin cảm ơn các ông, các bà, các anh, các chị! Xin cho tôi được về chỗ bác Vượng đây, nơi có bàn thờ các cụ trước, rồi buổi chiều, sẽ lại nhà các ông, các bà, các anh, các chị” - dùng dằng, đôi co
Mãi, đám đông mới tản ra được.
Cảnh vật thay đổi đến ngỡ ngàng, hình ảnh làng quê yên ắng, với lũy tre, cầu ao, đống rơm, đống rạ, ăm ắp những kỷ niệm trong lòng hai cậu bé năm nào, khi ở xa cứ nôn nao một nỗi hoài cảm, sâu lắng, mà nay sao khác quá thế này? Vườn tre xưa bị chặt, bờ ao hôm nào ngồi câu cá mất rồi, ao bị lấp, nhà cửa chen chúc xây lên, đến cái tiếng chó sủa râm ran đầu ngõ cũng im ắng dần… Ngôi nhà xưa quen thuộc, có cái giại ngoài hè, mảnh sân phơi thóc, cây Muỗng bên bờ ao, cạnh bể nước năm nào cũng không còn nữa. Ông bà Đồ mất đi, ngôi nhà cũ được chia thành mấy phần, cho mấy anh em, nay lổn nhổn mọc lên mấy căn nhà gạch, nhà gác mái bằng, không một dấu tích ngày xưa.
“Quê mình thay đổi quá, lâu ngày về gặp lại các bác, thấy mừng. Nhưng nhìn lại cảnh làng, chẳng hiểu sao, chúng em cứ thấy buồn buồn …’’ cậu cả Hùng lên tiếng.
“Đúng đấy, tôi hiểu cái buồn của chú, buồn là phải, với các chú, quê là hình ảnh, là ký ức, mà nay…” - Hớp một ngụm nước chè, hít hít một hơi thuốc lào thật sâu, mắt lim dim, thở ra khoan khoái, giáo Vượng nói tiếp: “Các chú đi xa lâu ngày, nhưng cũng có hiểu cho người ở làng, từ lâu đời rồi, họ khổ, họ nhìn thành thị bây giờ, họ càng thấy là mình khổ hơn, cho nên…”.
Lời giáo Vượng đã bị cắt ngang bởi mâm cơm đã được bê vào. Chị Nhàn là bà chị cả trong nhà, từ khi khách tới cứ lúi húi dưới bếp cùng cô em dâu, đi lên đon đả: “Bà và hai cậu rửa mặt, rồi xơi cơm”.
Nhìn ra hè, đã thấy hai thau nước đầy, lại có bánh xà phòng thơm xinh xinh bên cạnh. Đấy là sự chuẩn bị của chị Nhàn. Là chị cả “thoát ly’’ từ sớm, lên huyện, rồi ra tỉnh làm công nhân, chị cũng tỏ ra rành rẽ cái “cung cách” lễ tân của người Hà Nội, cẩn thận, ý tứ. Sống ngoài tỉnh, nhưng nghe tin bà và hai cậu về chơi, chị phải về từ chiều hôm qua để lo tiếp đón.
“Xem nào, bày vẽ những thứ gì thế này? Chết, sao thịt thà nhiều thế, lại cả giò chả nữa kia à, vẽ quá!’’ Bà Đốc vừa mở lồng bàn, vừa trách yêu cô cháu gái.
“Đấy, con đã bảo rồi, bà và các cậu thèm vào thịt, vào giò. Chị con lại cứ đòi lặn lội ra tận chợ Đồng Xuân mua chả. Những thức ấy, ngoài Hà Nội có mà chán ngấy. Con biết rồi, cứ phải gạo quê, gà quê, muối tiêu, chanh ớt, thế là đủ, là thế nào các cậu chả xuýt xoa, có phỏng?” - Giáo Vượng vẻ đắc ý, nhìn về phía hai cậu, đầu gật gật.
“Phải rồi, phải rồi, lại cả bia chai nữa à? Ra là bia tỉnh nhà sản xuất hả, thế thì nếm thử cái hương vị quê ta, chứ nếu không, cứ là xin bác vài chén rượu gạo”. Cậu út vừa nói, vừa cởi giày, leo lên tấm
phản có mâm cơm, vẻ đầy háo hức.
Chợt cảm thấy như thiếu vắng thế nào, nhìn quanh quẩn một lượt, bà Đốc hỏi: “Thế lũ trẻ và bu chúng nó đâu, không ra ăn luôn thể?”. Ra là lũ trẻ lít nhít bị bố mẹ lùa vào phòng trong, nơi chứa thóc, đứa đứng, đứa ngồi, lố nhố nhìn ra.
“Không được, không được, ra cả đây, sao anh gia trưởng thế, anh Vượng!”. Bà Đốc xăm xăm bước vào, lôi tuồn tuột từng đứa một ra ngoài, ấn lên tấm phản gỗ: “Ngồi xuống, ngồi xuống đây!”. Lũ trẻ len lén làm theo, mắt lấm lét nhìn cha mẹ, vẻ sợ sệt. Bà Đốc tiếp:
“Anh có học mà còn phong kiến thế, chả trách!”.
Chị Nhàn cứ tất tưởi, gốc quê nhưng cũng đã sống ở thành phố nhiều năm, người Hà Nội họ thèm gì, chị biết cả. Song chị cứ nghĩ, chả mấy khi họ là khách mình, lại quyền quý thế, mà mâm cơm cứ trống trải, cứ trơ ra, hai ba món, đĩa thịt luộc chặt to, bát canh su hào nấu với nước xuýt, nó cứ thế nào, nó cứ thiếu thiếu làm sao. Luôn lo mình thất lễ, dường như cái chất “khách khí tỉnh thành” đã nhiễm vào con người chị. Chị chỉ ngồi mà ít ăn, hết gắp cho người nọ, lại mời người kia.
Chợt giáo Vượng lên tiếng, giọng đùa đùa, mà nghe như có gì nghèn nghẹn: “Nói bà và hai cậu bỏ qua cho, chứ người thành thị bây giờ ích kỷ và ang ác… thế nào, cứ thích lấy cái khổ của người nhà quê làm cái sướng cho mình. Thí dụ như các bác thích ăn gà quê, gạo quê, rồi hay than là gà quê bây giờ không ngon như trước nữa, nó dai. Gạo quê bây giờ nó không dẻo như trước nữa, nó bở… Rặt các cái thứ chỉ được là cao sản. Làm gì còn được cái giống gà, giống gạo ngày xưa, vì sản lượng nó ra ít lắm! Phải cao sản chứ. Nói giả dụ, không cao sản, chúng em lấy gì mà bán cho đủ các chi phí mà các bác tỉnh thành mang về dụ dân quê: nào xe máy nào ti vi, nào tủ lạnh, lại cả karaoke…”.
Cậu em tủm tỉm đế vào: “Lại còn cái khoản gái quê nữa chứ!”.
Được lời, giáo Vượng hả hê: “Ừ, bao nhiêu em gái quê ra tỉnh các bác tuốt cả. Có nhiều ông giày tây, xe máy về làng, nhìn các cháu mà nuốt nước bọt ừng ực”. Lại tợp một ngụm rượu, gắp một gắp, chưa và ngay, giáo Vượng nói tiếp: “Hôm nọ có ông viết bài trên báo, bảo rằng ở nhà quê bây giờ, ăng ten ti vi mọc lên tua tủa trên các nóc nhà mái bằng, trên cả các ngọn tre, làm hỏng cảnh quan làng xóm. Rõ thật lạ cái nhà ông ấy, thế không có nó thì cái ánh sáng văn minh từ các bác đến với dân quê chúng em theo cái lối nào nhỉ? Lại còn bảo chúng em không nên xây nhà bê tông, nó xấu làng, mà ở nhà gì thì chả chỉ ra được. Cứ theo cách nghĩ của các bác trên tỉnh bây giờ, để thỏa mãn được cái thú, cái ý thích lãng mạn, để gìn giữ những gì đối với các bác là quý báu, là cổ kính, là vẻ đẹp hồn quê, thì ra là ở nhà quê chúng em cứ phải khổ, phải chân lấm tay bùn, phải sống với những gì người dân quê đã sống với nó từ hàng trăm năm rồi”.
Nghe giáo Vượng thao thao, cậu cả Hùng cứ ngồi chống đũa, mặt lộ vẻ mông lung đầy nét đăm chiêu, tư lự. Sống ở nước ngoài nhiều năm, là trí thức, lại đa cảm, với cậu, nhà quê là những kỷ
niệm ngọt ngào, là hình ảnh mộc mạc bình dị, đầy chất thơ. Cậu chỉ muốn giữ gìn mãi hình ảnh con đường làng gồ ghề, lầy lội, ngập ngụa đầy phân bò, phân trâu. Mái nhà tranh, cây đa, giếng nước, với cậu tất cả đều đẹp, đều ấm áp một tình cảm chan chứa yêu thương. Thế mà giờ đây, cậu hiểu, trong tâm tư họ, những người dân quê, đấy là nỗi tủi cực, là cái kiếp nghèo, là cái điều phải nhanh nhanh phá bỏ.
“Nhưng tệ nhất là ở ngoài Hà Nội, người ta hay mang giọng của người nhà quê, mang cái ngọng nghịu, ngờ nghệch của người nhà quê ra làm tiếng cười trên sân khấu, phim ảnh, để mua vui, như thể trên đời nay không còn gì buồn cười hơn thế nữa!” - Rồi giọng giáo Vượng như chùng xuống: “Ấy là con nói về những người Hà Nội mới, mà trong số đó, không ít những người mà bản thân họ hôm nào và cha mẹ họ hôm nay còn lội bì bõm trên những cánh đồng làng. Sao mà họ thị thành nhanh thế! Họ ra tỉnh, họ giàu nhanh, no xôi, chán chè, rửng mỡ, vẽ chuyện, thích ăn cơm niêu, canh cua, cà muối… ra điều sướng quá, đủ quá rồi, chả còn biết thiết gì hơn nữa! Như nhà ta đây, con biết chứ, từ ngày nào đến giờ là người Hà Nội thật, Hà Nội gốc, lại giàu có thế, mà có bao giờ ra giọng gì đâu. Con vẫn nhớ cái ngày u con gánh một gánh khoai ra Hà Nội biếu ông bà, ngồi nhìn ông con bóc và cầm củ khoai luộc ăn một cách ngon lành, thích thú thật sự, con muốn rơi nước mắt”.
Giáo Vượng trước học trung cấp sư phạm, vốn con ông thầy Đồ ngày xưa có làm thư ký ở làng, nên gọi là “ông Thư”. Đang học dở chừng, anh đi bộ đội, vào tận chiến trường Tây Ninh. Năm cậu út sơ tán về, anh đi vắng, cậu bé như một niềm vui nho nhỏ trong gia đình, cái bi bô của cậu phần nào lấp đi sự nhớ nhung, lo lắng của bà Đồ cho đứa con ở chiến trường lửa đạn. Hòa bình về học lại, rồi về dạy ở trường cấp hai, môn văn, dạy thôn dưới. Anh cũng được đi đó đi đây, có học, lại có “gien” đồ nho, thêm sự nhạy cảm của người đi về đường văn học, nên nói năng sắc sảo, nhưng vẫn có tình. Vợ cũng là giáo viên cấp một, gia đình anh sống một cuộc sống nông thôn nửa thành thị, nghĩa là có lương, nhưng lại tính trên cơ sở quy ra thóc. Đi làm ăn lương Nhà nước nhưng nhà vẫn có ruộng, vừa tự làm, vừa cấy rẽ với người ta. Trong nhà vẫn cái xeđạp cũ, nhưng cũng được cái ti vi nhỏ cho mấy mẹ con, nhà xây trên đất do ông bà để lại, cũng chỉ mái ngói, một tầng. Dạo xây nhà, bà Đốc cũng bảo cậu út giúp cho một chút, gọi là… Mỗi lần ra Hà Nội, anh đều lại thăm ông bà, những lúc khó khăn hay nhà có việc, bà lại cho tiền hay tí chút áo quần cho trẻ nhỏ, tuy thực ra anh cũng chẳng có ý xin xỏ bao giờ. Những lúc ấy, anh vui vẻ nhận, lòng rưng rưng. Tuy khổ, nhưng lúc nào anh cũng tĩnh tại, bình thản, có tư cách, luôn tỏ ra biết người, biết mình. Người như thế, chả trách ăn nói cứ như xoáy vào gan, vào ruột người ta.
Có tiếng chó sủa, tiếng chiếc cổng gỗ cọt kẹt vang lên, mọi người nhìn ra. Bước vào là một ông già, tay chống gậy, vừa nói, vừa thở:“Bà Đốc đâu rồi, năm nào cũng mong”. Bà Đốc vội chạy ra hè, đon
đả: “Dạ vâng, chào cụ, cụ lại chơi. Tôi thật không phải, lẽ ra phải sang chào cụ trước, đằng này…”.
“Thôi thôi, bà về được thế này là quý hóa rồi, tấm lòng của bà ở cái làng này ai mà không biết, bà như người chôn rau cắt rốn ở đây’’.
Bà Đốc đỡ ông cụ lên thềm, vào nhà, cũng chỉ là chỗ hàng xóm, nào có họ hàng gì.
Chuyện vãn, chai rượu vơi quá nửa, mâm cơm chỉ còn đĩa giò “chợ Đông Xuân” là gần như nguyên vẹn, nồi cơm gạo mới bay vèo. Trời ngả sang chiều, nắng đã nhạt, bà Đốc muốn dẫn hai cậu đi thăm mấy gia đình khi sáng đã gặp, đã hẹn ngoài chợ đầu xóm. Rồi còn ra thăm mộ ông bà Đồ, cũng là tìm loanh quanh đâu đó một nơi… Trên đường đi đến mỗi nhà, những con đường nhỏ vòng vèo trong xóm như những thước phim quay chậm, từng cảnh, từng cảnh, lần lượt đi qua… cái giếng nước xóm chùa, cây mít nhà ông Quảng Trương, gốc ổi nhà chị Bống. Bà Đốc cứ vừa đi vừa chỉ, chỗ này, chỗ này… Cậu cả Hùng tư lự, lâu lâu lại thốt lên tiếng xuýt xoa, đôi lúc khuôn mặt như được giãn ra, lộ vẻ vui sướng như chợt tìm ra một báu vật đã bị đánh mất lâu ngày. Cậu út mặt ít biểu cảm, đi trong im lặng, có vẻ thanh thản, nhẹ nhõm trong lòng. Hình ảnh ba mẹ con bà Đốc, lịch sự, sạch sẽ, chải chuốt, tinh tươm, như nổi bật lên trên cái nền tương phản, là khung cảnh con đường làng gập ghềnh, cũ kỹ. Xóm nhỏ xiêu vẹo những mái nhà lúp xúp, những mảng tường vôi bong vỡ.
“Ôi bà, hai cậu!”. Tiếng một phụ nữ cất lên, một người đàn bà quần xắn cao quá đầu gối, tất tưởi chạy ra từ cánh cổng một căn nhà, tóc vương mấy cọng rơm vàng. Đây là chị Tình, họ hàng với chị Nhàn và anh giáo Vượng. Dạo bé mỗi lúc về làng, hai cậu suốt ngày sang nhà chị trèo lên cây ổi bên bờ ao, rồi nhảy tũm xuống nước. Sướng lắm. Nhớ ngày ấy ở nhà quê không có cầu tiêu, cứ phải ra đồng. Còn nhỏ, nhiều lúc đêm hôm, lại sợ ma, thành ra phải nhịn. Nhiều lần đến chơi, chị Tình hay phải dẫn đi, vậy mà…
Lôi bằng được ba mẹ con bà Đốc vào nhà, quáng quàng thu dọn đống chăn chiếu lộn xộn, đống bát đĩa ngổn ngang trên bàn, chị vừa làm, vừa nói: “Chả mấy khi bà và hai cậu về, phải ở lại ăn với
nhà con bữa cơm rau”.
Bà Đốc vội xua tay: “Thôi thôi, có bình nước chè tươi nào thì mang nhanh ra đây, chiều tôi phải ra Hà Nội ngay rồi’’. Biết là chả giữ được, chị Tình giọng tiếc rẻ: “Thế thì bà và hai cậu ngồi chơi, con xuống đun quàng ấm nước”. Đảo quanh một lượt khắp gian nhà, bà Đốc gật gật đầu tỏ vẻ bằng lòng, xèm ra nhà này khá, bộ trường kỷ bóng lộn đặt trước bàn thờ, lại có cả một cái tủ chè, trên thấy để ti vi, đầu máy.
Chị Tình từ dưới bếp đi lên, mặt còn đang đỏ hồng vì bếp lửa, bà Đốc ra giọng thăm dò: “Nhìn cửa nhà anh chị, ra là khá giả quá rồi?”.
“Chả giấu gì bà và hai cậu, con vẫn ở nhà với mấy sào ruộng, nhưng bố cháu sau cái đận bán đi cái xe thồ, chắt bóp mãi rồi cũng ra cái lò gạch, may đúng vào lúc người ta đua nhau xây nhà gạch mái bằng, thành ra …’’.
Vừa chế nước vào bình, chị Tình khoe tiếp, giọng đầy phấn khích và kiêu hãnh: “Hai cậu lần này về phải mừng cho chị, tháng trước mới khánh thành cái toa lét’’. Cậu út trêu chị, hỏi đùa: “Thế cái toa
lét là gì hả chị?”.
“Cậu ở thành phố mà không biết à? Nó là cái cầu tiêu đấy, có lót cả gạch men xung quanh, sạch lắm, tẹo nữa trước khi về thế nào các cậu cũng phải thử cái toa lét nhà chị, nhớ hôm nào cứ phải ra đồng, rõ khổ!”.
Chiều xuống thật nhanh, những tia nắng cuối ngày đã tắt hẳn trên cánh đồng làng, trời đột nhiên trở gió, se lạnh. Trong ánh sáng chập choạng của buổi hoàng hôn, mẹ con bà Đốc đứng dậy vái tạ trước hai ngôi mộ của ông bà Đồ, rồi lặng lẽ trở về. Trong cái ảm đạm của một buổi chiều như thế, thường ít ai tránh khỏi được nỗi buồn, hay một nỗi ưu tư nào đấy, nhất là đối với một người già. Nhưng mà không phải thế, trên khuôn mặt tuổi tác của mình, bà Đốc lại hiển hiện một vẻ rất vui, niềm vui thầm kín trong lòng mà bà chưa muốn nói, chưa muốn chia sẻ cùng ai. Bà đã nhắm được một chỗ cho mình, và còn ông nữa, một chốn an nghỉ vĩnh hằng trên cánh đồng làng. Bà sẽ đưa ông Đốc về đây, yên nghỉ cùng bà. Vợ chồng bà với vợ chồng ông Đồ sẽ được cạnh nhau, bên nhau hàng xóm, ở cái rẻo đất cao, trên cái gò thật đẹp, bao quanh là cánh đồng, những thửa ruộng rì rào gió thổi, những đứa trẻ chăn trâu, chăn bò…
Lúc tiễn bà ra xe, chị em nhà giáo Vượng mắt ngân ngấn nước. Họ cứ ám ảnh một ý nghĩ trong lòng, liệu lần trở về của bà lần này có là lần cuối không? Với mỗi người già, bất kỳ cuộc chia tay nào đều có thể là cuộc chia tay cuối cùng.
“Bà cố giữ gìn sức khỏe, sang năm lại về”. Giọng chị Nhàn như nghẹn lại. Bà Đốc mặt tươi tỉnh, cười cười, tay đập đập lên vai cô cháu: ‘‘ Yên chí, yên chí, cô còn về, còn về, và sẽ về đây mãi mãi”.
Hè Nhâm Ngọ 2002