← Quay lại trang sách

Số sát chồng

Tôi nhận được tin nhắn: Cậu về Paris lấy quà, địa chỉ số nhà… rue de… Người nhắn là chị Nhạn, bà chị họ bên ngoại.

.

Lạ nhỉ, có thể nào chị Nhạn đã tới được Paris, tới tận thủ đô nước Pháp? Lúc đầu còn bán tín bán nghi, nhưng khi cầm trong tay và xem kỹ mảnh giấy xé vội, nét chữ run run, nguệch ngoạc, rõ ràng đấy, mấy chữ địa chỉ ghi bằng tiếng Pháp như thể người viết phải “vẽ” từng chữ cái, thì đúng thật rồi, bà chị nông dân khốn khổ năm nào đã đặt chân lên đất Pháp.

Lâu lâu có người quen trong nước sang, gia đình tôi thường gửi quà, họ là sinh viên đi du học, trí thức sang nghiên cứu, hay cán bộ qua công tác, nhiều lắm, thành ra với tôi, cái việc đi lấy quà cũng là sự bình thường, mỗi ngày cũng bớt đi những háo hức, những hồi hộp. Nhưng lần này là chị Nhạn, người đàn bà mà trong ý nghĩ của tôi, nếu có một ngày được bước chân lên tàu hỏa vào Sài Gòn, cũng đã là trọng đại lắm, cũng là chuyện chỉ có trong mơ. Nhớ hôm nào chị cứ đùa tôi mà bảo rằng: “Cho chị đi một chuyến Sài Gòn, vào nhà cậu, cho chị làm người giúp việc, hay phụ bán hàng”. Là câu nói đùa, nhưng trong đấy, tôi biết nó chứa đựng cả một sự thèm muốn, một nỗi khát khao, như ước vọng về một cái gì xa xôi lắm.

Thế mà bây giờ chị đã đến tận Paris!

Tôi vội ra tàu, ngay trong đêm tuyết trắng, không phải với cái háo hức của một kẻ đi đến chỗ nhận quà, mà với sự tò mò, háo hức của một người muốn biết, muốn được giải tỏa tức thì những thắc mắc, những điều khó hiểu trong lòng, và cũng vì một tình cảm đặc biệt với chị, một con người đã phải gồng lên, đã phải chịu đựng quá nhiều những cay đắng, những nhọc nhằn trong cuộc đời.

Tàu lướt đi trong đêm, T.G.V(1) chạy nhanh nhưng tiếng bánh xe trên đường vẳng vào trong khoang ngồi ấm áp chỉ còn là những tiếng nhỏ nhẹ, đều đều, êm ả, có vẻ như muốn ru người ta vào giấc ngủ. Qua cửa sổ con tàu, những lùm cây tuyết trắng, những làng quê lập lòe trong ánh điện lờ mờ vun vút đi qua theo chiều ngược lại, kéo tâm tưởng của tôi trở về với những hình ảnh của một thời, bắt đầu từ những ngày tháng rất xa…

Năm ấy, những quả bom đầu tiên rơi xuống miền Bắc, chiến tranh, trong nỗi lo thời loạn lạc của cha mẹ, những đứa trẻ chúng tôi về làng với một niềm thích thú thơ ngây, hằng ngày được tắm ao, câu cá, được ra đồng hun chuột, bắt chim… Anh em tôi ở nhà chị Nhạn, một gian nhà ba gian, tường xây gạch, nền nhà vẫn bằng đất, mái lợp rạ, có một hàng hiên dài lại được lát đá hoa, và lại có một cái giại che nắng, là một không gian vừa kín, vừa hở, liền với cái sân gạch rộng hay dùng phơi thóc. Vào mùa hè, sau bữa cơm tối, tôi hay nằm ở đấy, với những ý nghĩ vẩn vơ, và thích nhất là được chị Nhạn gãi lưng, kể chuyện ma, vừa sợ nhưng lại vừa thích, nhiều hôm đái cả ra quần vì không dám ra ngoài, nhưng vẫn bắt chị kể, sự chăm sóc và những câu chuyện kể của chị lấp đi cho tôi nỗi buồn xa mẹ. Chị Nhạn xinh lắm, cao dong dỏng, ở thôn quê nhưng trời lại phú cho chị nước da của người thành phố, trắng muốt, và thật mịn màng, vẫn in đậm trong tôi hình ảnh chị lúc ở đồng về, quần xắn cao, áo cánh ta chẽn sát người, ướt đẫm mồ hôi, làm nổi rõ bộ ngực đang độ xuân thì của tuổi mười tám. Chị đứng ở đầu hè, nhẹ nhàng gỡ ra từng thứ một, tấm khăn che mặt, dải băng bằng vải quấn tay, quấn bắp chân, quấn đùi, và từ từ lộ ra là cánh tay trần mịn màng, bắp chân tròn lẳn, và cặp đùi trắng muốt.

Nghe kể hồi nhỏ, ngay từ lúc mới vài tháng tuổi, chị đã rất đẹp, một đứa trẻ nhà quê mà có vẻ đẹp như con Tây, kể cũng lạ, đến nỗi người ta gọi chị là con Đầm, và Đầm trở thành tên gọi thường ngày của chị, mãi sau này tôi mới biết chị có tên thật là Nhạn. Chả biết có phải khi ấy, lúc đặt tên cho chị, ra chừng ông Đồ Thơ muốn chị sau này sẽ được bay lên, như cánh chim nhạn, bay lượn, chao nghiêng giữa bầu trời rộng lớn, đi đó, đi đây. Ấy là nghĩ thế, chứ cái cách ông Đồ dạy chị, rèn giũa chị thì khác hẳn.

Trong ký ức của tôi, khi ấy, chị sống rụt rè lắm, xinh như thế, mà ít giao du, bè bạn, là cũng bởi tính nghiêm khắc đến nghẹt thở của bố chị. Trong khi bên hàng xóm, mấy đứa con gái mới mười lăm, mười sáu, mà tối nào cũng có mấy anh trai làng đến rủ đi tập văn nghệ, rồi lại thấy ngồi với nhau rúc ra, rúc rích ở bụi tre, chỗ cạnh cầu ao, nhưng chị thì ông cấm tiệt, ngay cả việc học, đâu như chị chỉ học hết cấp một, trường làng, biết đọc, biết viết, và làm tính, cốt để dùng lúc ghi công điểm với hợp tác xã. Học lên cấp hai là phải sang trường ở làng khác rồi, đi những mấy cây số, con gái con lứa, học lắm vào rồi lại vẩn vơ, không khéo có ngày chỉ mải viết thư cho giai, nên ông Đồ chỉ cho chị học thế, rồi ở nhà làm ruộng. Dù rất biết sự cần thiết của cái chữ, nhưng ông chỉ thích hướng cái sự học ấy vào hai cậu con trai. Chả thế mà hai cậu em chị, sau này, một anh học lên đến trung cấp sư phạm, một được học đến hết cấp ba.

Bỗng dưng ông Đồ đổ bệnh, ông bị ho lao, rồi thấy mọi người trong nhà cứ thì thầm to nhỏ, có gì như lo lắng lắm, như hệ trọng lắm. Một không khí nặng nề, đầy u ám trong nhà.

Những ngày này, chị Nhạn rất buồn, đôi mắt dường như sâu hơn, và trĩu nặng một điều gì u uẩn, có lúc cứ thấy chị ngồi thừ ra, nghĩ ngợi. Chị hay ra ngồi một mình ở cầu ao, nhìn về xa xôi. Rồi một tối chị vừa gãi lưng, vừa quạt nhẹ cho tôi, và bảo: “Em sẽ chẳng còn được nghe kể chuyện, gãi lưng bao lâu nữa, chị sắp phải lấy chồng!”. Khi ấy tôi đã hơi buồn ngủ nên cũng chẳng nhận ra nỗi buồn trong giọng nói của chị, và chính tôi cũng chưa kịp buồn, chỉ hỏi lại một cách bâng quơ: Ai thế? “Anh Đê!”, chị nói. - Sao, anh Đê á! Tôi chợt bừng tỉnh, như bị dội lên người một gáo nước lạnh.

Anh Đê là con ông Hàn Biểu, nhà ở xóm chùa, năm ấy quãng độ hai mươi, xét về tuổi tác, chị mười tám, anh đôi mươi, kể ra cũng được, cũng vừa, nhưng sao lại là anh Đê? Cái anh Đê ấy, mắt đã lác, lại lùn, cao độ mét rưỡi, “nhất lé nhì lùn”, anh có cả hai, chân đi vòng kiềng, người lạch bạch, mỗi buổi đi cày về, trâu đi trước, người theo sau, nhìn từ xa, chỉ thấy trâu mà chẳng thấy người, chỉ thấy cái cày trên vai anh lấp ló, trẻ con hay đi theo anh, hát ghẹo: “Chiều về trên cánh đồng xanh, lũn ca lũn cũn là anh Đê lùn”, rồi cười ngặt nghẽo, rồi bỏ chạy toán loạn. Được cái anh không biết cáu, chỉ giơ nắm đấm về phía tụi nhỏ, dứ dứ ra chiều dọa dẫm, rồi lại lầm lũi bước đi. Song cái chính, chả nói chuyện hình thức, giai tài, gái sắc, nhẽ đời là như thế, anh có xấu người, nết tạm được, giá như có tí chữ, hay tài cán gì đó, nhưng đằng này, mới học đến lớp hai bổ túc, nhiều khi thấy anh đọc, vẫn phải đánh vần từng chữ một. Đã đành là chị Nhạn cũng chả học cao gì, nhưng chị đẹp vào hàng nhất nhì ở làng, cũng nhiều anh giáo trường cấp một ngấp nghé, thế mà vẫn chưa thể làm quen, chưa tiếp xúc được với chị. Như một bông hoa mơn mởn trước mắt họ, chị là nỗi thèm khát, là niềm ấp ủ của nhiều chàng trai, có cả mấy anh trên tỉnh về, bông hoa ấy phải thuộc về ai chứ, phải xứng đôi, vừa lứa, không thể như một đôi đũa lệch, như chị và anh Đê, nó lệch quá, nó cong vênh quá. Hay cũng phải từ một tiếng sét ái tình, nhưng chị chưa bao giờ nói chuyện, chứ đừng nói là đã nghĩ đến anh Đê, thế thì làm gì có chuyện yêu đương, ra là sao nhỉ?

Hóa ra là tất cả từ bố chị, chỉ đơn giản là, ông cảm thấy trong người yếu lắm, ông linh cảm rằng ông sắp ra đi, ông có một lời nguyện với ông Hàn tự thuở hàn vi, khi hai ông còn là hai người bạn tối ngày ngâm vịnh, no đói có nhau, họ đã gá nghĩa bằng lời nguyện ước, sẽ gả con cái cho nhau, họ muốn cái tri âm, tri kỷ của họ được kết nối, được lưu giữ truyền đời. Ông Hàn chết đã lâu, nay cảm thấy mình sắp đến lúc cũng lên tàu đi gặp bạn, không làm được điều đó, ông Đồ không yên tâm nhắm mắt, ông còn mặt mũi nào để gặp ông Hàn! Chỉ có thế, mà ông gọi cả nhà lại, và ông bảo rằng ông sắp chết, ông bảo rằng ông quyết định gả chồng cho con gái, chị Nhạn phải lấy anh Đê. Dường như còn bao nhiêu chút sức tàn trong một con người đang đến gần cái chết, ông dồn vào giọng nói, ánh mắt, cử chỉ, khiến nó mê hoặc, nó thu phục lạ thường, làm cho cả nhà chị, từ bà Đồ, tới chị, và các em của chị, chỉ còn cách quỳ thụp xuống bên giường ông, vừa khóc, vừa lạy, nguyện làm đẹp lòng người sắp đi xa.

Hai họ gấp gáp lo đám cưới chạy tang, đau đớn thay, nhà trai mới chỉ kịp đội những mâm lễ vội vàng sang nhà gái, chữ ký trên tờ giấy kết hôn còn chưa ráo mực, đám cưới chưa kịp diễn ra, thì ông Đồ đã vội đi rồi.

Chị Nhạn như già đi mười tuổi, mắt thâm quầng, vì thương tiếc bố, vì cám cảnh cho thân phận chính mình, chỉ vì muốn cho tròn chữ hiếu, gật đầu một cái, mà cuộc đời thành ra rẽ sang ngả khác. Nay thì bố mất, tình không, chị bỗng dưng lại thành gái có chồng, mà đã kịp sống với nhau ngày nào! Vậy nên giữa chị và anh Đê, tình vốn đã không, còn cái nghĩa được tạo nên theo kiểu như các cụ ngày xưa, từ những cuộc hôn nhân cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, thì cũng không hề có. Đội trên đầu mâm lễ trả lại nhà trai, chị đến gặp anh Đê, và bảo: “Tôi với anh chẳng bén duyên nhau, tôi nhận gá nghĩa với anh chẳng qua vì chữ hiếu, nay bố tôi chết rồi, tình yêu giữa chúng ta không có, có sống với tôi, anh cũng chỉ được hưởng phần xác, tôi có đẹp đến mấy rồi cũng có lúc tàn phai, rồi anh cũng sẽ chán, vì cái phần hồn của tôi nó không thuộc về anh, rồi anh sẽ khổ, và tôi cũng khổ, nếu có con cái với nhau, rồi chúng cũng chẳng sung sướng gì. Thôi thì tôi lạy anh, tôi lạy anh trăm lạy, tôi lạy anh nghìn lạy, hãy thương tôi, anh thả tôi ra, anh tha cho tôi kiếp này, nếu như có kiếp sau, thì tôi xin trả nợ…”. Chị nói nhiều lắm, và khóc, anh Đê thấy thương chị, chị đẹp quá, chưa bao giờ anh biết đến xúc cảm yêu đương, đối với chị Nhạn, trong lòng anh chưa hề nảy sinh một tâm trạng, một niềm đê mê. Trước đó, chưa bao giờ anh dám nghĩ đến chị, chuyện hai ông cụ ngày xưa, thì cũng nghe thế, nhưng anh không dám nghĩ sẽ thành chuyện thật. Lúc bên ông Đồ đánh tiếng gả con gái cho anh, anh ngỡ ngàng tưởng như mơ, anh mừng lắm, anh thích lắm, bất ngờ như được của trời cho, một cô gái mà anh chưa bao giờ dám mơ ước tới, bỗng dưng thuộc về mình, như người ta bỗng dưng được bạc. Anh không thuộc loại người người cả nghĩ, sâu sắc, tự nhiên có được vợ đẹp, thì thích, thế thôi, anh sống đơn giản, vô tư, sau mỗi buổi đi cày về, là đi thả diều, rồi về nhà hút thuốc lào, rồi ăn cơm, rồi lăn ra ngủ, cứ thế, sáng mai ra, lại dậy sớm, lại ra đồng… Chẳng phải là loại người ham hố, nên thấy chị khổ, nhìn chị khóc, anh thấy mủi lòng, anh đỡ chị dậy, lần đầu tiên trong đời, anh làm một việc săn sóc cho một người con gái, ấy là lấy khăn mùi xoa lau nước mắt cho chị, bàn tay anh run run, đôi mắt anh rưng rưng, và bỗng chốc nhạt nhòa nước mắt…

Buổi xử ly hôn cho anh chị trời mưa to, tháng Tám, đang mùa giông bão, tôi bám theo như một đứa trẻ theo chị đi chơi. Mọi việc diễn ra nhanh gọn, trôi chảy, chỉ có những tiếng hỏi và trả lời gọn ghẽ, không một tiếng cãi nhau, cũng không một lời trách móc.

Chiến tranh ngày càng ác liệt, anh Đê lên đường ra trận, và đã không trở về, cuộc hôn nhân đầu tiên của chị Nhạn là như thế.

Thời loạn, trai làng xấu tốt gì rồi cũng lần lượt lên đường, là cảnh “giai thời loạn…”, ở làng chỉ còn lại là mấy anh què, vài ba ông góa vợ, có người những tưởng đây là cơ hội để léng phéng, để lợi dụng, đánh tiếng hỏi chị Nhạn, không được, lại quay ra dèm pha. Chị gầy ốm đi nhiều, mặt trở nên xương xẩu, tóp lại, làm nổi rõ hai gò má cao, đã xì xào đây đó, miệng lưỡi của mấy kẻ có thói thị phi, rõ ra là cái tướng sát chồng. Chị buồn và tức lắm, chị xin đi làm công nhân, để lại đằng sau một khoảng đời của tuổi trẻ, sắc đẹp, nhưng đầy những kỷ niệm buồn.

Tôi trở lại thành phố, lớn lên, trưởng thành rồi đi xa, những lần về Hà Nội, thỉnh thoảng cũng gặp lại chị Nhạn, chị hay ra thăm gia đình tôi. Rồi chị Nhạn lấy chồng ở tuổi ngoài ba mươi, là công nhân kỹ thuật, đã được đi học nghề ở nước ngoài, hai vợ chồng cùng một nhà máy, ở một huyện ngoại thành Hà Nội, được cấp nhà tập thể, chật chội, nhưng là một tổ ấm. Đang như một cây khô trên đất cằn, nay gặp nước, có tay người chăm bón, trông chị tươi tắn, trắng hồng, ngất ngây một vẻ đẹp của người đàn bà đang vào độ chín muồi. Hai đứa con, một trai, một gái, cũng đẹp như tranh vẽ, cuộc sống của gia đình chị như bao gia đình công nhân khác thời đó, vất vả, nghèo khó trong một sự vừa vặn, vừa vặn với sức chịu đựng, và quen thuộc với cái khổ chung của cả xã hội. Cũng mừng cho chị, hạnh phúc đến tuy muộn màng, nhưng ra chiều chắc chắn, bình dị. Mỗi lần về làng, vợ chồng chở nhau xe đạp, chuông bấm kính coong, chồng áo sơ mi trắng, cài cúc cổ, quần ka ki xanh, vợ áo phin hoa, quần lụa, con cái thấy hồng hào trên mặt, áo hoa trên người, lủng lẳng trên ghi đông xe là gói nhỏ, gói to, những món quà rẻ tiền, nhưng cũng nhuốm màu thành thị. Đã có nhiều ánh nhìn thèm khát vào gia đình chị, từ những người ở làng, số phận tưởng như đã được an bài, một quãng đời bình yên êm ả trôi…

Thì đùng một cái, anh mắc bệnh ung thư! Cái bệnh ung thư quái ác đã cướp đi người chồng của chị, người bố của những đứa con chị nhanh quá, trong vòng chưa đầy nửa tháng. Chị Nhạn như người mất hồn trong hàng năm trời, và chị lờ mờ cảm nhận về một định mệnh nghiệt ngã, về cái oan nghiệt, bạc phận của kiếp người mà mình phải gánh chịu, đau khổ và đầy lo lắng. Cuộc hôn nhân ngắn ngủi quá, chưa đến mười năm trời, anh đã ra đi khi những đứa con chưa kịp lớn, tài sản chẳng có gì, lại đúng vào cái thời gian nan nhất của đất nước, xóa bao cấp, thịt phiếu, gạo sổ, lương thợ bậc thấp nuôi ba miệng ăn, hai đứa con đi học! Mỗi tết về gặp lại chị Nhạn, tôi cứ có cảm giác như sau hàng chục năm trời, vì chị già đi nhanh quá, cái già, cái khổ, cái vẻ tàn phai cứ chen lấn nhau trên khuôn mặt chị, đến cái dáng dắt chiếc xe đạp cũng cứ ngả nghiêng, như người sắp ngã. Nhìn cảnh chị, ai cũng nghĩ, cứ ở vậy mà nuôi được hai đứa con cho đủ ăn, cho khôn lớn, có việc làm, đã là nan giải lắm. Rồi chị sớm mất sức, phải nghỉ việc, đi bán hàng vặt, tiền kiếm được ngày nào hay ngày ấy, chả dám nghĩ đến điều gì xa xôi. Lâu lâu, mẹ con chị ra chơi, mỗi lần giúp chị, cho các cháu ít tiền, tôi như có cảm giác của người làm từ thiện, cần phải làm một việc gì đó trước một cảnh đời đang nguy cấp lắm. Chị lầm lũi kéo cái phận sống nhọc nhằn ấy đến mười mấy năm trời, thì số phận lại run rủi cho chị… đi bước nữa.

Cứ nghĩ đời người như có những duyên nợ truyền kiếp hay sao, chứ không thế, sao lại có chuyện tự dưng một ông già ngót nghét tám mươi, ở tận đẩu tận đâu bên nước Pháp, lại lò dò về Việt Nam, lại gặp, rồi nên vợ nên chồng với chị Nhạn? Ở cái tuổi ngoài năm mươi như chị, lại khổ thế, lại một nách hai con dở dại dở khôn, ai mà còn dám nghĩ, mà còn dám dấn vào chuyện tình duyên. Cái khốn khó, sự lam lũ, và những cơn bão đi qua cuộc đời tưởng như đã quét sạch, không thương tiếc cái nhan sắc của một thời ở chị. Nhưng chưa, cái dáng cao cao, tấm thân mảnh dẻ và nước da trắng ngần của chị vẫn còn đấy, nhưng cái chính, đúng hơn là,cái phẩm chất quen lam lũ, cái vẻ tần tảo, tính thu vén và nét chịu thương chịu khó toát ra từ con người chị, đã đập vào mắt ông, đã khiến ông chú ý, đã làm ông xúc động. Sống ở Pháp từ hơn năm mươi năm, cũng gốc nông dân, bị bắt lính, bị đưa sang Pháp làm lính thợ, rồi giải ngũ luôn bên đấy, ông đã hai lần lấy vợ, nhưng rồi cũng chẳng được ở với ai. Lần đầu vợ đầm, được ít năm thì bỏ, lần sau vợ Việt, cũng lại chết sớm, con cái chả có, ông lủi thủi một mình với đồng lương hưu ít ỏi trong căn phòng đúng mười mét vuông giữa Paris hoa lệ. Sang Pháp từ lâu nhưng cái chất nông dân cố hữu, những thói quen, tình cảm, và nỗi ưu tư của anh thợ cày vẫn thấm đẫm trong ông, ông buồn lắm, ông nhớ quê hương, sau lần đầu về thăm quê trở sang, ông càng thấy nhớ, một nỗi cồn cào cứ tấy lên trong gan ruột. Rồi ông gặp chị Nhạn, vào lúc tuổi ông đã ngoài bẩy nhăm, chả còn là sự rung động như ở thời trai trẻ, mà vì ông đang cô đơn quá, đang cần một chỗ dựa lúc về già. Đang ở vào cái quãng trống vắng của buổi chiều hôm, mà cuộc đời lại có được một người đàn bà, lại ở ngay trên quê hương, xứ sở, sẵn lòng ở với ông, hầu hạ ông, thì mừng quá, thì phúc lớn quá đi rồi! Như một người đang hấp hối vớ được thuốc hồi sinh, ông quyết định hồi hương. Chị Nhạn cũng thế, sắp chết đuối lại vớ được cọc, cái cọc gỗ ấy cũng đã èo uột lắm, chả còn được cứng cáp, được rắn chắc như người ta, nhưng là gỗ quý, nó cứu chị và những đứa con của chị vào đúng cái lúc gian nan nhất của cuộc đời.

Ba nghìn quan tiền hưu trí một tháng, là mức lương tối thiểu, là bèo bọt với một người sống trên đất Pháp, nhưng ở Việt Nam là sáu triệu đồng, những sáu triệu đồng, là hàng tấn thóc ở quê, là hàng trăm cân thịt lợn, là hàng tấn ngô khoai, cà chua, bắp cải mà người nông dân quê chị phải còng lưng ra, đổ mồ hôi, sôi nước mắt, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, mới có được. Lấy ông, chị bỗng dưng thành bà chủ gia đình, trở thành chủ của cái tài khoản ấy, đều đều mỗi tháng được nghĩ đến, được tính toán chi tiêu thế nào cho phải, cho thích, lại còn cho dư để có thể dành một chút cất đi. Đấy là chưa kể tới số ông tích cóp được suốt mấy chục năm trời trên đất Pháp, mấy chục nghìn đô ở thời buổi này chả là gì với nhiều người thành phố, nhưng với chị, ấy là một sự khổng lồ. Thế là được tính chuyện mua nhà ở Hà Nội, mua được căn hộ lắp ghép, và trở thành cư dân thủ đô, con cái cũng đi học thêm, thỉnh thoảng còn giúp đỡ được cho ông em, là anh giáo khổ trường làng. Cả ông, cả chị, cứ như phải hơi nhau, lại thấy tươi ra, lại thấy đỏ da thắm thịt, tết nhất bao giờ cũng ra biếu mẹ tôi những cây giò loại ngon nhất, đắt tiền nhất. Chúng tôi hay trêu chị, về “khoản ấy” ông thế nào? Chị cười tươi: “Ôi dào, chả còn gì, vào tuổi này còn thiết gì nữa, đã từ lâu, tôi cũng quên rồi”. Lại kể thêm, như ở ta, về già rồi thì ai giường nấy, nhất là ở nhà quê, nhưng ông quen như ở bên Tây, vẫn bắt chị ngủ chung, nên cũng có rắc rối. Con bé thứ hai, chưa hiểu gì về sự quan trọng và cần thiết của ông đối với gia đình nó, tự nhiên thấy có ông già ở đâu đến giành mất mẹ mình, nó không chịu, nó cứ sưng mặt lên, đòi vào giường với mẹ, chị khổ sở mãi vì nó, mắng nó thì không nỡ, mà giải thích thì nó không chịu hiểu, thành ra nhiều lúc cũng làm ông tức, thằng anh lớn khôn hơn, nó biết, và còn biết làm đẹp lòng ông nữa.

Thì đã đành bây giờ chị Nhạn đã được đổi đời, và với chị, một cuộc sống khác đang trôi đi, đã đầy đủ và sung sướng lắm, nhưng chuyện được ra nước ngoài, được đi Tây, thì chưa bao giờ dám nghĩ, dám mơ tưởng đến, đấy là chuyện của người ta, những người làm ăn lớn hoặc giàu có, còn như chị, trời cho được thế này là may mắn lắm, là phúc lớn quá rồi. Nhưng mà chị đi Tây thật. Đến lúc mở cửa căn hộ, nơi chị đang trú ngụ nhờ ở Paris, vừa nhìn thấy tôi, chị đã nấc lên, và nhạt nhòa nước mắt, thì tôi chợt hiểu.

Hóa ra là do ông đổ bệnh, đàn ông đổ bệnh ở cái tuổi đã ngoài tám mươi là sự bình thường, nhưng cái khác thường là ông còn quốc tịch Pháp, ông được hưởng mọi chế độ của nhà nước Pháp dành cho một công dân, lại là một công dân có công với nước Pháp vì đã từng đi lính, đã từng đánh nhau với quân Đức, vì nước Pháp, nên ông được đưa về Pháp chữa trị. Là vợ của một người Pháp, chị được đi theo, chị phải đi cùng tấm thân thoi thóp của ông, cũng lại với căn bệnh ung thư, sang Paris chữa trị. Nhưng nước Pháp đã không cứu nổi ông, ông ra đi ở chính trên mảnh đất mà ông đã sống suốt mấy mươi năm tha hương, nơi ông đã quá buồn chán, đã tưởng như được vĩnh biệt nó, để trở về Việt Nam, để được sống nốt những giờ phút cuối cùng của cuộc đời, để được chết và nằm lại vĩnh viễn ở nơi mà ông đã mất gần cả cuộc đời cứ đau đáu nhớ thương. Thế mà giờ đây, nơi yên nghỉ của ông lại ở một nghĩa trang gần Paris, chỗ ông nằm là một cái mộ có nhiều tầng, nhiều lớp, ở các tầng dưới là những ông tây, cũng may là còn có vài người bạn đã đi trước của ông, nhưng họ bất hạnh hơn ông, không có được cái đoạn cuối như ông, là có một người đàn bà của quê hương đưa ra mộ.

Rõ thật khốn khổ cho cái thân chị Nhạn, cả đời được một lần ra nước ngoài, được bước chân trên đường phố Paris, lại là để đưa chồng ra nghĩa địa. Ba cuộc hôn nhân, ba người đàn ông đi qua cuộc đời, dù quãng ngắn hay dài, dù khi còn trẻ hay lúc đã về già, cứ đều bỏ chị mà đi. Bây giờ thì rõ quá, người ta bảo chị có số sát chồng, nghĩ mà xót xa cho chị. Những cuộc chiến tranh liên miên đã lấy đi sinh mạng biết bao nhiêu người đàn ông, nỗi bất hạnh đã dập xuống thân phận biết bao nhiêu người đàn bà trên đất nước này, chứ đâu phải chỉ riêng mình chị. Biết bao nhiêu ông chồng đã ra đi trước vợ, có phải bà vợ nào cũng là người có tướng mạo như chị! Thế nhưng với chị Nhạn, đến cái lần tiễn ông lão tám mươi ra mộ, người ta cũng cứ tính vào, cũng cứ bảo là do chị, cái gò má cao như thế…

Đầu năm 2003

Chú thích: TGV = Train Grand Vitesse = tàu cao tốc