Đêm phiền muộn
Chị không ngủ được, cũng nửa đêm rồi, trằn trọc mãi, nghiêng bên nọ, ngả bên kia, mắt đau đáu nhìn lên trần nhà, cái trần nhà thấp lè tè tuy mới được quét lại một màu sáng dịu nhẹ nhưng vẫn không thể làm cho lòng chị dịu đi, chị vẫn cảm thấy như có cái gì đó nằng nặng, ngột ngạt đè xuống căn phòng. Cũng may, còn cái cửa sổ nhỏ đang mở, nhưng ngoài kia, cũng chỉ là một khoảng trời đêm nho nhỏ hiện ra. Thu rồi, nhưng sao đêm nay trời nóng thế, tiếng vo vo của cái quạt cũ đứng ở góc nhà, tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ treo tường thả vào đêm những nhịp đều buồn tẻ khiến chị càng cảm thấy thêm mệt nhọc. Bên mẹ, hai đứa trẻ đã ngủ say, vô tư với giấc mơ hoàng tử. Ở bên kia, sau cánh cửa khép hờ, anh ấy đang ngon giấc sau vài phút họ rời nhau, chỉ còn chị, một mình với đêm, hai hàng nước mắt cứ ứa ra…
Từ nhiều năm nay, chị hay bị hành hạ bởi những đêm triền miên như thế. Mỗi khi đêm đến, là chị sợ. Nỗi kinh sợ giống như của một người có bệnh mãn tính khi trở trời. Lần nào cũng vậy, sau khi “phải làm” chuyện ấy với anh, chị không tài nào ngủ được. Từ lúc chập tối, sau bữa cơm chiều, cái vẻ ỡm ờ, cố tỏ ra “tình cảm” một cách đột xuất của anh, lăng xăng hỏi han, nói cười lơi lả, đã khiến chị thấy sợ, nó giống như những dấu hiệu ban đầu của một cơn đau sắp đến. Nghĩ cũng lạ, lúc bình thường, chẳng mấy khi có được cho nhau mấy lời ngọt nhạt, chỉ khi ấy… Những tưởng vợ chồng với nhau, thì “chuyện ấy” phải là điều tự nhiên lắm. Nó phải đến một cách thật nhẹ nhàng, êm ái. Lúc chuyện phiếm ở cơ quan, chị thấy bây giờ người ta hay bàn về chuyện ấy, là cái chuyện “chăn gối” của đời sống vợ chồng mà trước kia cứ mỗi lần đám đàn ông tán chuyện thì chị em trong phòng chỉ dám đỏ mặt quay đi, tủm tỉm cười. Còn bây giờ, lắm mồm nhất lại là mấy bà sồn sồn có chồng, thi nhau mang chuyện mình ra kể, thích thú lắm, bạo dạn lắm, như để khoe khoang, để hãnh diện, để làm chuyện tiếu lâm và chọc ghẹo lẫn nhau, cứ tự nhiên, dễ dãi như nói về chuyện tập thể dục hay một thói quen trong sinh hoạt vậy. Họ nói về số lần sinh hoạt vợ chồng trong một tuần như thể nói về số ki lô mét trong mỗi lần chạy bộ buổi sáng, hoặc nói về một thói quen tình dục theo kiểu như nói về thói quen uống cà phê sáng với ý thích nhiều hay ít đường. Chỉ có chị là bẽn lẽn, chị thường ngồi lặng im như người ngoài cuộc, thỉnh thoảng họ quay ra trêu chị, họ bảo chị “tầm ngầm mà đấm chết voi”, chị đỏ mặt, cười trừ, họ tưởng là đã chạm đúng “tim đen” chị, nhưng thực ra là chị ngượng, ngượng lắm. Là đàn bà đã có chồng, chị không xấu hổ gì về “chuyện ấy”, mà chị ngượng vì hoàn cảnh riêng của mình, nó chả giống ai, chả được như ai, chị muốn được như mọi người, cái ao ước tưởng là đơn giản quá, hiển nhiên quá, cái cảm giác người vợ được sung sướng bên chồng, được dâng hiến, được hòa quyện, được thăng hoa cùng chồng đến cái tột đỉnh của niềm hoan lạc ái ân. Như bao người đàn bà khác ở tuổi bốn mươi, còn đầy những khát khao và ham muốn, nhưng chị khát khao một cái gì khác lắm, nó phải bắt đầu từ những xúc cảm yêu thương, của một đời sống vợ chồng yên ổn, nó phải đến một cách từ tốn, nhẹ nhàng đầy thi vị. Đằng này, lại ra là như thế, vợ chồng ai lại cứ “vờn” nhau, như gà trống vờn gà mái, cứ phải “vỗ cánh, xù lông”, nó khác người quá, và thô thiển quá! Cứ nhìn cái vẻ mặt ưng ửng đỏ và ánh mắt dài dại của anh sau vài ly rượu bổ trong bữa cơm chiều, chị lại rùng mình, phải cố tình đánh trống lảng, cố ý lờ đi, cố giữ những đứa con ở bên như một bức tường che chắn. Nhưng mà không được, anh gầm gừ, anh khó chịu, anh đá thúng đụng nia, anh mang những đứa trẻ, chỗ dựa cuối cùng của chị ra hành hạ, rồi chị phải đầu hàng, phải làm việc ấy như một sự trả nợ. Lúc ái ân, trước sự hùng hục của chồng, chị cứng đờ ra, lòng tê dại. Chị muốn khóc vì sự trống trải, chị muốn khóc vì cảm thấy cô đơn, chị cảm thấy tủi thân, như một người bị cưỡng bức phải chèo một con đò nặng qua sông, rồi lại thấy như mình có lỗi, với chồng sao mà như “ngủ khoán”, chị không muốn thế, đôi lúc nghĩ đến cái nghĩa, chị muốn khác đi, mãi mà không cố được.
Mấy năm rồi, ở một góc nhìn nào đó, họ sống với nhau mà cứ như những người cùng “ở trọ”. Tuy cùng dưới một mái nhà, ra vào cùng một cửa, một lối đi về, thậm chí chung bát, chung mâm, lại có chung hai đứa con xinh đẹp, kháu khỉnh, mà sao như lại chẳng chung đụng gì. Có một không khí rất nguội lạnh và tẻ nhạt giữa họ. Họ gọi nhau bằng những đại từ nhân xưng nghe rất chống chếnh, kiểu như “bố nó…” hoặc “mẹ nó…”, gọi nhau như thế, bảo là tình cảm còn đang lúc ấm nồng thì cũng được, nhưng lạnh nhạt rồi cũng chẳng sai, nghe chẳng ra thân mật, cũng chẳng ra xa lạ. Họ phân chia nhau một cách rạch ròi và sòng phẳng cái trách nhiệm về kinh tế, người này trả tiền điện, tiền nước thì người kia đóng điện thoại và gas. Mỗi tháng chị nhận một khoản trích ra từ số tiền thu nhập thường là rất bí mật của anh, khoản ấy tương đương với 20 ki lô gam gạo cho cả gia đình, còn lại là tất cả, thực ipềhnẩhmọ,cthành cho con cái, những lúc ốm đau, sửa chữa nhà
cửa, tất cả những gánh nặng ấy đều chất lên đôi vai gầy guộc và tấm thân khẳng khiu của chị. Chị nhẫn nhục chịu đựng, ấy là vì chị là người có lỗi, cái lỗi lầm mà xét căn nguyên của nó, cũng là bắt nguồn từ chính sự chấp nhận hy sinh, sau đó là tính tin người của chị.
Năm ấy, sau khi ở nước ngoài về, họ đã có một số tiền kha khá. Anh là một nhà khoa học, một tiến sĩ, anh muốn được làm chuyên môn và được cống hiến hết thời gian và tâm lực của mình cho sự nghiệp khoa học cao cả ấy. Anh hay bảo: “Tôi không sống vì tiền”, chị thấy phải, cứ nhìn mấy ông tiến sĩ ở lại Đông Âu, người ra chợ bán áo quần, người thành ông chủ, cũng tướng soái cả đấy, nhưng giữa cái xã hội láo nháo chợ búa ấy, dưới con mắt của một người mê khoa học như anh, họ là những người hèn cả, cứ “nhếch nhác” thế nào. Anh thích làm và thích có tư thế của một “kẻ sĩ”, sống ở trời Tây vào thời buổi này với anh là không hợp, anh không muốn làm công dân loại hai, anh phải về. Khốn nỗi, ở xứ sở văn minh như thế, mà thân phận cái anh trí thức cũng chỉ là một kẻ làm thuê, mà cũng không hẳn đã là đủ sống bằng đồng lương của mình, huống chi là về nước, huống chi là anh, một con người trọng đạo làm khoa học, khinh rẻ tiền tài, thế thì chị phải vì anh, vì sự nghiệp của anh, cũng là vì cái tổ ấm của anh và của chị, chị sẵn sàng làm tất cả, để anh yên ổn với cái đạo của mình. Rồi chị đi buôn, chị nhận về mình cái phần việc đầy bấp bênh, trắc trở ấy. Những chuyến đầu có lãi, tuy rất mừng, nhưng chị cũng chỉ dám khoe với chồng về món lời khiêm tốn của những chuyến hàng đầu tiên ấy với một giọng nói đầy bẽn lẽn, chị tưởng là anh sẽ thờ ơ, sẽ lạnh nhạt, nhưng không, khi nghe đến số tiền lời, anh ngạc nhiên và trong ánh mắt có vẻ gì long lanh lắm, chị chợt nhận thấy rằng anh rất vui, anh thích lắm. Hóa ra là không phải, anh không chỉ thích làm kẻ sĩ, mà anh cũng thích làm người có tiền nữa. Làm kẻ sĩ, đã đành thì người ta trọng, nhưng là người có tiền nữa thì tốt quá, thì sướng quá. Xưa nay ở xứ mình, thường người ta hay nhìn mấy ông có tiền như là thằng trọc phú, văn hóa mỏng, nhưng mấy ông trí thức hoặc văn nghệ sĩ thường lại hay nghèo, mà cái nghèo lại hay đi với hèn, khổ thế, chứ nếu vừa có tiền, vừa có tiếng, lại được thong dong mà ngồi đọc sách, mà ngồi viết lách, thế thì thích quá, thế thì còn gì bằng. Đời làm thằng đàn ông như cụ Khổng dạy, có ba việc mà làm được, tức là thành công lắm, ấy là làm nhà, lấy vợ đẻ con trai và viết sách. Nhà thì chưa làm được, đang phải ở thuê, con trai kháu khỉnh đấy rồi, anh chưa viết cuốn sách nào, nhưng đi dạy cũng là đang làm công việc về chữ nghĩa, cũng như là viết sách vậy. Cho nên phải mua đất, phải làm nhà, phải có tiền, thế thì cái việc chị bươn chải đi buôn, nó là phải quá, nó là hợp lẽ quá. Nhưng mà chị không có nòi buôn bán. Cũng vẫn là chuyện làm ăn chung đụng với người ta, vẫn phải tin người, có gan và có “số” mới giàu được, chị có gan, có đức tin người nhưng giời không cho “số”, và chị bị mất, mất mà còn mang công mắc nợ. Lúc đấy thì anh gầm lên, anh tiếc của, tiếc lắm chứ, lời ba mà mất chín, vốn liếng cũ tích cóp được cũng chẳng còn, trong số đó, thực ra cũng là tiền chị làm ra là chính, nhưng dù có là “công vợ” thì cũng có phần “của chồng” trong đó, chị thông cảm với nỗi tiếc của anh, chị sống cun cút bên anh như một kẻ có tội, với một niềm ân hận dằng dai mãi.
Chị chịu đựng, chị đầu tắt mặt tối làm lại từ đầu, không quản ngại bất cứ việc gì miễn là ra tiền mà không tổn thương nhân phẩm, nhưng cũng chỉ là kiếm vặt. Với tai nạn ấy, chị mất luôn niềm tin của anh trong vấn đề tiền bạc, anh đã treo lên cuộc đời của chị một cái án lửng lơ, không thời hạn, như một sự trừng phạt. Và anh đã áp dụng với chị sự trừng phạt đó về kinh tế theo đúng nghĩa đen đầy đủ nhất của nó. Anh tuyên bố chỉ có trách nhiệm trong một giới hạn, với cái cái giới hạn ấy, ngay cả việc chỉ lo cho đời sống của riêng anh cũng đã là không sao đủ được. Lúc đầu tưởng là anh dọa, hóa ra anh làm thật. Anh thu nhập mỗi tháng bao nhiêu, chị không được biết, thỉnh thoảng thấy đi làm về, anh vào phòng đóng chặt cửa, loay hoay gì trong đó, hóa ra là để đếm tiền, rồi cho vào chiếc cặp có khóa số, rồi lại cất cặp vào tủ riêng, rồi khóa lại, ấy là do thằng con trai tám tuổi kể lại, chứ chị nào biết được. Một lần nó xin tiền học, chị chưa có, nó thì thầm bảo: “Bố nhiều tiền lắm, vẫn để trong tủ ấy”.
Anh muốn giấu chị nhưng có khi không để ý đến “tai mắt nhân dân” là ông con, người được “đặc quyền” ở bên lúc bố nó đếm tiền. Chị hỏi, thì anh điềm nhiên bảo: “Tháng này tôi đã mua cho nó cái bàn học, việc ấy cô lo!”, giọng anh tỉnh lắm, không một chút biểu cảm, không vui, nhưng cũng không hề tỏ ra bực bội, trách nhiệm đã phân rồi, thì cứ thế. Nhưng đến cái lần thằng bé nằm bệnh viện, ở phòng cấp cứu, bác sĩ kê một cái đơn thuốc phải mua ngay, đắt quá, chị không có đủ, hỏi đến anh, vẫn với giọng lạnh lùng vô cảm ấy, anh đã từ chối thì chị không còn chịu nổi nữa, không tin vào tai mình nữa. Chị nghẹn lại, lòng uất hận đến không nói nổi một câu nào, tự hỏi đời mình đã làm gì để phải bị trời đày ra nông nỗi thế, chả lẽ chỉ vì cái sự rủi ro ấy mà cuộc đời chị lại phải chịu một mức án cay nghiệt đến vậy sao? Chị không lý giải được, tại sao trên đời lại có một người đàn ông “thù dai” đến vậy, trơ lì đến vậy… Ừ thì tiếc của, ừ thì căm tức vợ, nhưng còn con cái, với con chẳng lẽ lại có thể lạnh lùng đến vậy được sao! Chị cảm thấy đổ vỡ tất cả, uổng phí tất cả, và dường như vô nghĩa tất cả, những chịu đựng côi cút của chị, những lầm lũi hy sinh của chị bấy lâu nay. Thế nhưng chị cứ phải sống bên chồng, lãnh đạm và nhẫn nhục. Vì con, chị sống như kiểu đời sống của một con gà mái hằng ngày cần mẫn đào bới và giương cánh để ấp ủ, để chở che cho lũ gà con của mình. Hình ảnh anh trong tâm trí chị như một cái gì đó vừa cụ thể, vừa mơ hồ. Có đấy mà tưởng như không, như không mà thành có. Rõ ràng là đấy, một ông chồng hiển hiện, bố của hai đứa trẻ, con chị, ngày hai buổi đi về, cũng trêu đứa nọ, chọc đứa kia, nhưng mà cứ chập chờn, ẩn hiện thế nào. Lúc phải nhắc đến trách nhiệm tiền bạc, ấy là lúc chị nhìn chồng ra là một người cùng ở trọ, lúc chồng lởn vởn ở bên, chị lại nhìn anh với nỗi khiếp sợ của một con mồi. Nhiều khi ngồi nhìn anh, ngắm nghía anh, chị chợt có cảm giác giống như đang ngắm một bức tượng, loại tượng thạch cao đúc sẵn, đẹp, mịn màng, trơn tru, sạch sẽ, cao một mét bảy mươi, người cân đối, thật chuẩn mưc về hình thể, mái tóc bồng bềnh xõa xuống vầng trán thông minh, nhưng sao có một cái gì đó làm chị cứ cảm thấy tiêng tiếc, như là sự vô hồn. Nhất là những khi anh mải mê bên máy vi tính, đôi bàn tay nhoay nhoáy lướt trên bàn phím, mắt đăm đăm vào màn hình với trò chơi điện tử hay mê mẩn theo các dòng tin trên internet. Chị bỗng đâm ra cố chấp, và dễ có ác cảm với mọi hành động của anh, những hành động mà ở một gia đình bình thường khác dường như sẽ chả có gì là “ầm ĩ” cả. Chị khó chịu với khói thuốc lá anh phả ra, khó chịu với những tiếng động, tiếng bước đi mỗi lần anh dậy sớm. Và chị hay suy diễn, cho là anh cố tình muốn làm chết cây của chị trồng mỗi lần anh hắt nước trà vào chậu cảnh, chị tưởng là anh muốn phá giấc ngủ của chị khi anh dậy sớm bật máy giặt áo quần… Tức mãi đâm nhàm, và chán. Chán ngay cả “cái sự tức” ấy. Chị trở nên chai lì tự lúc nào, không còn cảm xúc, thậm chí chị mất cả cảm giác tức giận ngay cả khi chồng bực mình vô lối, đập phá đồ đạc, nhà cửa như một người điên. Chị chỉ nhìn anh vô cảm, lại thấy anh cứ tồi tội thế nào, không cãi cọ, chị âm thầm nhặt nhạnh từng mảnh vỡ vứt đi. Có lúc nghĩ quẩn, chị ao ước, thà anh cứ hư hỏng, cứ sa đọa như nhiều người đàn ông khác ở thời buổi bây giờ, cứ rượu chè, gái gú, lại ra một nhẽ khác. Đằng này, anh lại sống cực kỳ mẫu mực, không đi sớm về khuya, không bồ bịch, rượu chè, sau những buổi đi dạy ở trường là anh về nhà đúng giờ, như một bộ máy hoạt động chính xác. Anh nguyên lành quá, anh sạch sẽ quá, một con người như thế, học thức như thế, mà lại không một chút gì xúc cảm, vợ ốm nằm trên giường không đi chợ được, mở nồi thức ăn thừa từ hôm trước, vẫn cứ điềm nhiên mà bảo: “Chợ búa làm gì, cứ ăn cho hết đã!”. Lúc lại có thể quát tháo ầm lên chỉ vì cái tội cả nhà dùng giấy vệ sinh tốn quá, tính toán với vợ từng đồng, cứ dửng dưng cất chặt tiền trong tủ trước sự tảo tần khốn khổ của vợ trong nỗi lo cơm áo. Mấy tháng nay, xót tiền điện thoại quá, anh đóng cái hộp gỗ, có móc khóa “nhốt” cái máy điện thoại lại. Ngoài anh ra, ba mẹ con chỉ có nghe mà không gọi đi được. Nhìn cái khóa treo lủng lẳng như một câu hỏi hư vô, chị thấy buồn nôn, và cứ nghĩ mãi, ra là lạ nhỉ, nó là thế nào, nó bắt nguồn từ đâu, là tính cách của một người đã phải chịu đói khổ quá nhiều, hay là văn hóa, cái văn hóa ứng xử ấy, phải chăng giữa học vấn và nó là một khoảng cách mà không phải ở mỗi người, cứ đạt được cái nọ thì ắt cũng sẽ đạt tới cái kia. Thì đấy, nhiều ông trí thức bây giờ còn có năng khiếu hành xử với nhau mang đậm sắc màu xã hội đen, như mấy ông thuê người tạt a xit, lại dùng đến cả mấy tay đâm thuê chém mướn. Xét về hiểm họa và sức công phá, một trái tim vô cảm trong một con người có cái đầu thông minh và học thức có lẽ không kém gì và có phần mạnh mẽ hơn so với cái bạo lực của một kẻ cục cằn, ít chữ. Tệ nhất là với tình cảnh như thế, mà anh không chán vợ, anh vẫn thèm khát cái thân xác của vợ, chỉ thân xác thôi, như một con nghiện, lúc trên giường, anh vẫn rít lên “thương lắm, thương lắm…”, anh lăn xả, anh ngấu nghiến, anh thỏa mãn…
“Tên em bắt nguồn từ một dòng sông, nơi bố em gặp mẹ…”, những lúc buồn trong đêm, chị thường thích nghĩ về ký ức của một thời. Ký ức ấy như một bàn tay mềm mại, nó vuốt ve nhè nhẹ vào cái chỗ tấy đỏ trong lòng, như một cơn mưa nho nhỏ, nó cứu vãn chị, làm dịu đi nỗi bức bối nóng bỏng trong lòng chị. Cái ký ức ấy thường trở về như thế, với cái câu mở đầu của câu chuyện cổ tích lãng mạn về mối tình của cha mẹ chị, chị hay kể đi kể lại với anh trong trong góc vườn lặng lẽ vào những buổi tối bên nhau, bên con người của nỗi xúc cảm đầu đời với chị, và lần nào cũng vậy, anh cứ ngồi lặng đi. Chị đã bắt gặp ánh mắt của anh, vào một buổi sáng, anh ngồi bên kia, trên chuyến tàu ngoại ô đi ngược lại, một khoảng khắc rất thoáng qua, nhưng nó như tia chớp của một cơn giông bão, rồi hai ánh mắt ấy cứ tìm nhau như một nỗi thôi thúc, mỗi buổi sáng chị bước lên tàu tới nơi làm việc với đầy dự cảm trong lòng… Họ chưa một lần nói lời yêu, nhưng cho đến nhiều năm sau này, chị vẫn hiểu rằng đấy là một mối tình, và với chị, nó sẽ còn là nỗi ám ảnh, nó sẽ là mãi mãi. Khi ấy, chị đã không đủ sức để vượt qua được lòng kiêu hãnh của mình, để đến với một tình yêu đích thực. Anh từng trải quá, còn chị thì trong trắng quá, chị sợ… Rồi đến lúc chị cảm thấy cần phải lấy chồng, chị đã lấy chồng mà chưa kịp yêu, cũng vì lúc ấy, anh, người chị lấy làm chồng sao mà nguyên lành thế, cần mẫn thế, anh có đầy đủ phẩm chất của một người đàn ông đứng đắn, sống ở nước ngoài, ở cái nơi mà người ta có thể ngủ với nhau chỉ sau hai lần gặp mặt, anh không cặp kè với ai, chỉ biết học hành. Cũng vì chị tưởng rằng, để làm một người chồng, anh như thế là quá đủ. Nhưng bất hạnh thay, những năm sống với nhau sau này, trái tim mẫn cảm trong con người chị lại không chịu hiểu như thế, lại không chịu chấp nhận như thế, nó không đập theo cái nhịp mà lý trí mong muốn, nó không chịu thỏa hiệp. Chị đau đớn nhận ra rằng, những “phẩm chất chuẩn mực” đầy lý tính ấy của chồng bỗng trở nên vô nghĩa, một khi nó không thể làm được một việc là lấp đi cái khoảng trống vắng vô hạn nơi trái tim chị, nó không một chút làm ấm lên cái khoảng trống vắng lạnh lùng ấy. Chị như bị đẩy sâu hơn vào bi kịch, vì cái nhan sắc ở tuổi đã ngoài bốn mươi nhưng vẫn chưa chịu nhạt đi cái vẻ mặn mòi, cái ánh vẻ cứ rơi vào ao nào là làm “chết cá” ao đấy, chị cứ phải chống chọi vất vả với nó, chị cố tình ăn mặc lôi thôi, không trang điểm, chị cứ để nguyên cái vẻ thẫn thờ, phờ phạc của những đêm mất ngủ trên khuôn mặt. Nhưng chị biết rằng, đàn ông vẫn cứ điên lên, điên lên vì chị, và mỗi đêm trong bóng tối, lúc phải đối diện với chính mình, từ trong sâu thẳm cõi lòng, chị hiểu rằng, không phải đã ngủ yên những khát khao về hạnh phúc. Nó vẫn còn đấy, nó thôi thúc, nó như một con sóng ngầm, chỉ chờ một cơ hội, nó sẽ trào dâng, sẽ phá phách và làm vỡ tan đi tất cả, những chịu đựng, những dồn nén, những ám ảnh về một chuẩn mực đạo đức mà chị cố giữ gìn và đeo đuổi. Có những lúc chị cảm nhận được hình như ở một nơi nào đó, lờ mờ một chút bóng dáng, thấp thoáng một hình ảnh của hạnh phúc mà chị mơ tưởng, mà chị có thể vươn tới, có thể đạt được, nhưng để đi đến đó, có khi, có đoạn, là con đường ngược chiều đầy bất trắc và những hiểm nguy rình rập, trên con đường ngược chiều đi tìm hạnh phúc đó, có thể chị sẽ đến nơi, nhưng với đầy hình phạt và thương tích. Cho nên chị sợ, mà cái hạnh phúc chị đang thèm khát ấy, nó có hình dạng gì đâu, nó có thật hay không, hay lúc chạm tới rồi, hóa ra cũng chỉ là ảo ảnh?
Sự tĩnh mịch của đêm cứ lạnh lùng đẩy chị chìm sâu vào nỗi cô đơn của kẻ độc hành. Bao giờ cũng vậy, trong những đêm như thế, chị luôn có cảm giác của một người đang phải cuốc bộ một mình trong đêm tối, hết lang thang với mọi nẻo đường của ký ức, lại lầm lũi quẩn quanh trong những ngõ cụt của hiện tại. Đêm cứ dài thăm thẳm, tiếng ngáy khè khè vẳng sang từ gian bên như cứa vào lòng chị, khiến chị muốn bật dậy, chị chạy nhanh vào nhà tắm, chẳng muốn bật đèn, chị không muốn nhìn thấy gì nữa lúc này, chiếc váy ngủ rơi xuống, chị thèm những tia nước, và muốn để những giọt nước mắt cứ việc lã chã tuôn ra, tự nhiên, không kìm nén. Có một chút ánh sáng lọt qua khe cửa, hắt qua người chị rồi in lên bức tường một hình bóng lờ mờ, nhìn cái đường cong còn đầy gợi cảm của chính mình, chị nở một nụ cười trong những tiếng nấc nức nở vang lên.
Cuối năm Nhâm Ngọ 2002