← Quay lại trang sách

Đi khách

Vào giữa mùa hè, chuyến bay từ Madrid về Amsterdam đầy ắp dân du lịch châu Âu, giữa lố nhố những thân hình vạm vỡ, những mái tóc đủ sắc màu, những khuôn mặt, những bộ ngực, những bắp đùi đỏ au như tôm luộc của đám khách Tây vừa đi phơi nắng trở về từ vùng biển Địa Trung Hải, tôi bỗng chú ý tới một cái “đầu đen” nho nhỏ cứ luôn ngọ nguậy trên hàng ghế phía trước, cái đầu đen ấy cứ trồi lên thụt xuống, lúc ẩn lúc hiện trước tấm dựa lưng của ghế ngồi như một con rối được giật dây ở phía dưới. Bao giờ cũng thế, mỗi lúc rong ruổi một mình trên những nẻo đường xa, trong những chuyến bay dài hay khi lăn lóc đợi chờ ở sân bay giữa hai chuyến bay nối tiếp, cái cảm giác cô đơn nó mới thấm thía làm sao, nó làm người ta thường ao ước được gặp một người bạn đường, và sẽ thật hạnh phúc, nếu như người bạn đường ấy lại cùng dân tộc, cùng tiếng nói. Tôi thầm cầu nguyện cái “đầu đen” kia sẽ là người bạn đường đang ao ước của tôi, và tôi cũng linh cảm như vậy, bởi mái tóc cắt ngắn với những sợi tóc cứng ngắc cứ đâm ra tua tủa, dựng ngược, bởi cái cổ khẳng khiu, gầy guộc và nước da mai mái đen. Hình như cũng linh cảm được là có người đang chú ý đến mình, cái “đầu đen” cứ chốc chốc lại quay xuống, nhìn về phía sau. Thì đúng là châu Á rồi, nhưng là nước nào, với nước da ngăm ngăm, mai mái kia chắc không thể là Trung Quốc, Triều Tiên hay Nhật Bản, nó cũng chưa đủ cái độ sẫm màu của những anh chàng người Phi, Indo hoặc Mã Lai… sang châu Âu lao động trong nghề đánh cá thường gặp ở các sân bay châu Âu, hay là Việt Nam, và tôi thầm hy vọng…

Thì bất chợt, “đầu đen” từ từ đứng dậy, từ từ tiến đến chỗ tôi ngồi, nhoẻn một nụ cười để lộ ra hai hàng răng vàng khè, khấp khểnh như những luống cày vội trên đồng:

- Chào bác!

- Vâng, chào anh, từ đằng sau, tôi cũng đoán anh là người Việt.

- Không những thế, lại cùng “đồng bằng Bắc Bộ” với bác nữa kia.

Tôi hơi bất ngờ, vừa vui mừng, vừa thấy lạ. Thường ở nước ngoài, trong những lần gặp nhau, làm quen như thế, khi người bắt chuyện chưa xác định được người nói chuyện với mình là ai, người nước nào, thì câu cửa miệng thường là: “Where are you from? - Anh từ đâu tới?”. Thế mà ở đây, người hỏi lại khẳng định một cách tự tin như thế, thì chắc hẳn, anh ta phải có một kinh nghiệm, một con mắt rất sành sỏi để nhận biết một người Việt, hoặc là tôi có một sắc diện nào đó rất “đặc trưng”, khiến anh ngay từ đầu đã biết rằng mình không lầm lẫn.

- Sao anh đoán ngay được tôi là người Việt Nam hay thế?

- Dân mình có đi cùng trời cuối đất thì cũng chẳng ở đâu có thể lẫn được, ở đâu mà chẳng nhận ra! Như bác đấy, ăn vận thế này, vẻ mặt thế này, thì chỉ có thể là người Việt, em còn biết bác là “cán bộ Nhà nước” nữa, đúng không? Nói chung, chỉ trừ những người sinh trưởng hoặc đã sống ở bên này nhiều năm, còn là em nhận ra ngay, bác nào sang thăm người nhà, bác nào đi buôn, bác nào là cán bộ đi công tác… Bà con mình sang thăm người nhà, thường hay rụt rè, có vẻ nhút nhát, hay nhìn cái nọ, chỉ cái kia, rõ ra cái vẻ của những người lần đầu tiên đến một xứ sở xa lạ, nhưng rất vô tư, hay cười, hứng lên là giữa đám đông có thể cười hơ hớ, và hay dùng nụ cười thay cho ngôn ngữ biểu hiện, lúc nghe người ta nói, hiểu cũng cười, không hiểu cũng cười, có khi thấy người ta nghiêm mặt lại, đưa một ngón tay lên xua xua ra hiệu không được làm một việc gì đó, cũng cười, khiến nhiều thằng Tây tuy đang cáu cũng phải… bật cười. Còn cánh đi buôn, ấy là em nói về lớp doanh nhân mới, lại có vẻ mặt rất quan trọng, rất quen thuộc và lão luyện với mọi thứ, vào “duty free” thường hay mua thuốc lá 555 và rượu Hennessy, những thứ rất thường gặp trên các bàn tiệc ở nước mình. Còn bác, thì đích thị là người Việt rồi, lại là cán bộ nữa, trông mặt nghiêm lắm, tuy chỉ đi một mình nhưng cách ăn mặc thì vẫn thế, giống như nhiều vị khác đi theo đoàn, theo nhóm, ngồi hạng “ê cô”, ăn vận cứ na ná như nhau, nhưng rất lịch sự và nghiêm chỉnh, luôn com lê, cà vạt, giày da, tay xách cặp “dip lôm mat”, nhiều vị hay đội mũ phớt. Các bà cũng phải vét bộ, giày da, như đi dự tiệc. Còn tụi nó, mấy thằng doanh nhân gộc thì ngồi hạng “bi di net” rồi, tụi hạng hai bác nhìn xem, toàn một lũ bẩn cả, quần đùi, may ô, thằng kia mặc vét đấy, chân cũng giày tây, mà lại đánh cái quần soóc, hở ra hai cái cẳng toàn lông lá, nhếch nhác thế.

Cứ thế anh nói liền một mạch, khiến tôi bỗng cảm thấy thật thú vị và bị cuốn hút vào mạch chuyện của anh. Nhìn cái vẻ tự tin, dạn dĩ, cái cách nhìn Tây rất “ngông nghênh”, và sự hiểu biết của anh về những điều mà chính tôi, người đã nhiều phen mòn gót ở các sân bay quốc tế cũng còn thấy rất mơ hồ, thì chắc con người này cũng đã sống ở đây từ lâu lắm, hoặc là dân hay lang thang, từng trải, mới có được sự dạn dày như thế. Bỗng dấy lên trong lòng tôi một cảm giác bị kích thích, tò mò, muốn được kết bạn với anh.

- Anh sống ở Amsterdam hay Madrid?

- Em sống ở Amsterdam, sang Madrid lần này là “đi khách” đấy bác ạ.

Anh nhấn mạnh vào hai tiếng “đi khách” bằng cách kéo dài giọng nhưng với âm lượng nhỏ hơn, như thể nói thầm. Tôi bật cười vì câu “đi khách” đầy ẩn dụ của anh. Dường như hiểu được sự băn khoăn của tôi, anh tiếp:

- Nghĩa là dẫn khách đi chơi, chả phải làm gì cả, chỉ đưa họ đi, tìm những nơi làm cho họ “sướng”, mình lại được tiền, như thế em gọi là “đi khách”. Vừa có một đại gia ở nhà sang công tác ở Amsterdam, xong lại muốn đi Madrid xem đấu bò, đi chơi mà một mình cũng chán, cứ nằng nặc bắt em đi cùng, bao luôn tiền vé, chơi xong, về thẳng Sài Gòn rồi.

Và anh kể về mình, nguyên là công nhân xuất khẩu lao động ở Tiệp, năm “bức tường Berlin sụp đổ”, từ Tiệp qua Đức, rồi tới Hà Lan vào trại tị nạn. Trong thời gian chờ xem xét được cư trú, cũng đã trốn ra ngoài làm rửa bát, phụ bếp, trồng hoa, là những việc làm chui, không chính thức. Cũng phải một đôi lần tham gia vào đoàn người nằm vạ, biểu tình, lăn lộn ra đường, cũng là giả vờ thôi, đả đảo cộng sản vi phạm nhân quyền, cốt để lấy một suất “tị nạn chính trị”. Anh bảo:

- Nghĩ cũng buồn cười, nhà em có mả ăn vạ gia truyền, đời ông nội thời cải cách ruộng đất đã từng ăn vạ, ấy là bắt “vạ tình”.

Anh kể rằng, lão phú nông hàng xóm mê bà cô út của anh, rồi dụ vào làm công cho lão ấy, rồi lão đòi tòm tem, rồi có chửa, lúc đầu lão chối đây đẩy, tính trốn trách nhiệm, rồi cách mạng vùng lên, rồi cải cách, lão sợ, nhân cơ hội ấy, ông nội anh làm tới, dọa lão, đã can tội bóc lột, lại cưỡng dâm dân nghèo, rồi cũng được lão đền cho vài tạ thóc, để ỉm đi. Đến đời bố anh cũng thế, nhờ vài lần “ăn vạ” mà đổi đời, từ nông thôn đi bộ đội, dạo bẩy nhăm giải ngũ về làng, cũng xấp xỉ bốn mươi, chán nghề nông chân lấm tay bùn, vài năm sau nhảy ra thành phố, đạp xích lô. Vốn ngang tàng, ít biết sợ ai, đạp xích lô nghêng ngang trên phố, xe chở kềnh càng gần nửa tạ, nào trứng, nào cà chua, nào hành củ… cho mấy mối quen ngoài chợ. Đã là xích lô, lại còn xích lô “ghẻ” nữa, nghĩa là gỉ ngoét, từ khung đến vành cứ đen nhẻm, đã thế lốp phải quấn thêm tới mấy lớp cao su ruột xe, vì nó cũ quá, nó mòn và mỏng quá, bánh xe lại chẳng có “gác đờ bu”, gọi là xe cởi truồng, chạy đến đâu tóe bùn lên đến đấy. Mà làm gì có nệm như xích lô Sài Gòn, hay được như xích lô lọng vàng du lịch bây giờ, là xích lô chở hàng, chở gà, chở lợn, nhưng thỉnh thoảng tiếc rẻ, có khách, cũng chở người. Một lần có ông khách Sài Gòn trợn mắt lên hỏi: Xe nhà anh chở người hay lợn? Ông đáp từ tốn: Dạ thưa cụ, xe con chở được cả lợn lẫn người, mời cụ lên. Xe của ông lừng lững đi trên phố như một chiếc xe tăng, chỉ có các xe khác là sợ nó, chứ nó nào biết sợ ai, cứ ngông nghênh giữa đường, chả cần luật lệ, xe máy đẹp, ô tô đời mới phải dè chừng, va vào nó, hay bị nó quẹt vào là rước họa, vừa thiệt tiền, lại mất thời gian. Xích lô sai, thì ông gãi đầu gãi tai, trên răng dưới cát tút, có gì mà bắt đền ông được, còn xích lô mà đúng, à thì chết với ông, ông là dân lao động, ông đổ mồ hôi, ông sôi nước mắt, ông đạp xe quần quật kiếm từng đồng bạc một, mà mày làm xe ông cong vành, vành đã cong vênh thế kia thì còn gì là nan hoa nữa, lại tính thế nào với chỗ trứng vỡ, chỗ cà chua dập nát kia? Anh tài xế chiếc Toyota đời mới mặt tái dại, nhìn khuôn mặt đỏ gay, cái sơ mi bộ đội cũ phanh ra để lộ một bộ ngực nở nang, cơ bắp cuồn cuộn, trên vai vắt chiếc khăn lau mặt đen nhẻm, cái mũ cối kia mà phang một nhát thì còn gì là kính ô tô nữa, thì đi tong cả chục triệu, thôi thì phiên phiến, chong chóng cho xong, thời gian là tiền bạc, thế là ông chủ ngồi bên trong phải rút ví đưa cho tài xế triệu bạc! Cũng “được” vài lần “tai nạn” như thế, ông có một số vốn nhỏ nhoi, thì vừa lúc xích lô bị cấm, may thật, cũng đủ tiền lên “con dim Tầu” cũ, chạy xe ôm tàm tạm. Đúng là cái “số ăn vạ” gia truyền, đến thân anh, đã tưởng sang được xứ người là thoát, là sung sướng, là đổi đời, thế mà nó vẫn còn đeo bám, nó vẫn vận vào. Khi còn in ít, dân tị nạn còn được đón tiếp, được cư xử đàng hoàng, viết thư về kể chuyện, chụp ảnh màu, như ở thiên đường, vợ chồng con cái bồng bế nhau, đứng cạnh ô tô, chồng com lê, vợ váy ngắn sặc sỡ, miệng cười toét toe, sung sướng, hạnh phúc, thế là rầm rập kéo nhau sang, đông quá, Tây nó hoảng hồn, chết thật, thế này thì của đâu, nhà đâu, việc đâu cho đủ, thì phải xiết lại. Không nhận tị nạn kinh tế thì dân ta lại phải mưu, phải tính, phải tìm kẽ hở của nó mà chui vào, sẵn có nhiều mẹo vặt, lại được cái tính chịu đựng giỏi, thế là rủ nhau lập nhóm, đi biểu tình, cho nó có “màu sắc chính trị”. Sau ba tháng lăn đường, nằm tuyết, nhóm “nằm vạ” của anh cũng được chính quyền để mắt tới, cũng có người đến quay phim, chụp ảnh, rồi tòa cũng xử cho được ở lại, cho thẻ định cư, vào quốc tịch, song không phải vì lý do chính trị, người ta biết tỏng ra rồi, mà vì có một đứa trẻ ra đời, trong cái nhóm nằm vạ ấy, đứa bé như một vị cứu tinh.

Nhưng anh vẫn thất nghiệp, hay đúng hơn, là anh thích thất nghiệp và được thất nghiệp trong suốt mười năm nay, kể từ ngày ra khỏi quy chế tị nạn. Vì sao? Vì nếu đi làm thì cũng chỉ thu nhập được hơn số tiền trợ cấp thất nghiệp một chút, chẳng đáng là bao so với khoản tiền anh phải trả tăng lên cho việc thuê nhà, cho bảo hiểm, cho lúc ốm đau. Ấy là chưa nói tới tính chất công việc, có đến tay, cũng chỉ là lao động nặng nhọc, cũng là giờ giấc chặt chẽ, trong khi đó nếu thất nghiệp, số tiền trợ cấp tuy không nhiều nhưng chi phí cũng ít, giá thuê nhà, khám chữa bệnh rẻ như cho.

Cái xứ Hà Lan này đến lạ, cứ nuông thằng chơi, ác với thằng làm. Thằng đi làm thì thuế ngốn hết non nửa, lại bị trả tiền điện nước, tiền thuê nhà ở giá cao, ai đời thằng thất nghiệp sống trong các khu nhà cứ như khu nghỉ mát, có vườn hoa trước nhà, hằng tháng tiền tự động chảy vào tài khoản nhà băng, ngày ngày đạp xe ra cửa hiệu gần nhà mua sữa, mua thịt, mua bia, đủ cả, chẳng thiếu thứ gì. Trong số tiền trợ cấp ấy lại được tính đến cả tiền đi du lịch mùa hè, cứ như thể nếu không du lịch thì người ta sẽ chết. Thấy bảo nếu biết tiết kiệm đằng ăn uống, thì người độc thân như anh còn có thể mỗi tháng tới khu “đèn đỏ” một đôi lần, ấy là nói vậy, chứ anh thì cần gì, anh thiếu gì, lại chả mất đồng nào. Anh khoe, với tấm thân còm như anh, chỉ nội ăn quẩn gà què ở mấy mụ đầm bỏ chồng cũng đủ bở sức rồi, chả phải đâu xa, quanh quanh hàng xóm. Đàn bà Tây bỏ chồng thì dễ, chứ bỏ nhu cầu tình dục thì không được, anh chẳng phải loại đàn ông “sức vóc” gì, nhưng mà lạ, ở đâu chả thế, cái giống lạ vẫn cứ là khơi gợi sự thèm muốn, có thằng thất nghiệp còn được nuôi ăn. Đang nói dở chuyện làm ăn, chả ông thất nghiệp nào chịu ngồi yên, không đi phụ bếp trong nhà hàng, rửa bát, coi kho, thì cũng cố tìm một việc như trồng hoa, quét dọn… lao động chui, trốn thuế, trong khi vẫn ẵm tiền trợ cấp. Nhưng anh khác, được cấp một căn hộ riêng, lại sống độc thân, tính tình xởi lởi, nhà anh trở thành địa chỉ cho khách thập phương qua lại. Người châu Á nói chung có một đặc tính là ưa tình cảm, dân mình cũng vậy, và có một thói quen ẩm thực, một nếp sinh hoạt cố hữu, bền chắc, rất khó thay đổi và ít chịu thích ứng khi ra ngoài, đi đến đâu, ở tận đâu, trên đất Âu hay Mỹ, tìm được một nơi chốn thân tình, gần gũi để đến, để trú ngụ là sướng lắm. Khách từ Mỹ qua, khách từ các nước châu Âu đến, các đoàn công tác ở nhà sang, hữu xạ tự nhiên hương, họ đều tìm đến chỗ anh. Nhiều nguời có tiền ở khách sạn, nhưng không thích, họ thích chen chúc ở nhà anh, nhiều khi kẻ trên giường, người dưới đất, nhưng vui, vì ở nhà anh, họ được hút thuốc lào, ăn thịt chó chấm mắm tôm, uống rượu cuốc lủi. Đặt mối qua hàng không, nhà anh chả thiếu thứ gì là “đặc sản” cả. Khách cần đến các nơi, anh lấy xe riêng chở đi. Khách đi làm, anh ở nhà nấu cơm, đi chợ, một dịch vụ trọn gói, từ ăn, ở, đi lại, với giá hữu nghị, nhất là so với giá “thị trường”, khách vừa thích vì ít tốn kém, vừa thấy vui vì không khí “gia đình”, anh lại có thêm thu nhập. Nhưng cái chính, anh bảo: Làm cái “trò” này nó thú vị lắm, làm mà cứ như chơi, chơi mà như làm thiệt, vừa ra tiền, vừa tha hồ tung tẩy, lại được gặp gỡ nhiều người, được ngắm nghía họ, quan sát họ, cũng “vỡ” ra nhiều.

Và anh kể: Nhiều đoàn ở nhà sang đây tiêu tiền khiếp lắm, dân sống ở bên này lắm lúc kinh hồn, nhất là mấy bác công ty Nhà nước đi mua máy móc, ký kết hợp đồng, toàn đòi dẫn đến chỗ chơi cao cấp, ở phố đèn đỏ chỉ là để ngắm cho vui mắt lúc đi dạo, chứ chơi thật, lại đòi vào chỗ khác kia, vì ở đấy nó lồ lộ quá, xem thì thích, vào cũng muốn, nhưng cứ ngường ngượng thế nào. Các bác nhà mình có tính tuy ham vui nhưng hay xấu hổ, cứ nghĩ bước chân vào chốn ấy, bao nhiêu con mắt nhìn vào, phải đến “Private club”(1) riêng, kín đáo, hàng VIP. Buồn cười, có lần một đoàn cán bộ ở nhà sang nhờ em dẫn đi “live show” xem nhảy cởi truồng, cứ than phiền rằng hỏi mấy ông sứ quán các ông ấy bảo không biết chỗ, thấy bảo trước khi đi, đoàn chia thành hai nhóm, nhóm nói đi thăm người nhà, nhóm lại bảo đi nghe hòa nhạc, sau buổi diễn lúc đèn bật sáng, nhìn sang dãy ghế bên kia đã thấy lố nhố mấy cái đầu hói quen quen, nhìn kỹ hóa ra là một hàng toàn mấy bác nhà ta cả, cứ nhìn nhau tủm tỉm cười.

Đấy, cứ phải ý tứ với nhau như thế! Anh còn kể: Ngay ở những chỗ ăn chơi, dân ta cũng có một “bộ dạng” dễ nhận ra lắm, có lần qua Thái, đến chỗ mát xa, thấy mấy ông ở trong ấy đi ra mà mặt ông nào cũng có gì như ngượng ngập, thiếu tự nhiên, vừa lộ vẻ thích thú, lại vừa có vẻ quan trọng, thì thầm bình luận cứ như sau một buổi họp, nhưng lại vừa như sợ nhỡ bắt gặp ai quen, rõ khổ, đã ra đến tận nước ngoài… Tây nó ở đấy đi ra như vừa uống xong cốc nước, mặt tỉnh bơ, còn ta có gì như bị ám ảnh, mà lại vẫn thích, mà lại vẫn thèm, khổ thế! Anh phân loại khách của mình theo sở thích của họ, loại thích được dẫn đi tìm nơi hàng rẻ, loại thích đến các chốn ăn chơi, chả thấy ông nào đòi dẫn đi xem bảo tàng Van Gogh.

Cứ thế, anh hồn nhiên nói về cuộc sống của mình một cách bình thản, cười cợt, như thể với anh mọi thứ trên đời chỉ là một trò đùa. Mà kể thì cũng như thế thật, với cái vẻ mặt và cách trò chuyện cứ tưng tửng của anh, ra là với anh, cuộc đời nó thanh thản lắm. Anh cứ sống khơi khơi như thế, không một chút lo toan, nghĩ ngợi, chẳng cần và cũng chẳng có gì nhiều, một cái áo vét sờn và đôi giày vải cũ cho mùa hè, một cái áo khoác dày hơn cho mùa đông, dùng hết năm này qua năm khác, cứ thế, anh hết đón đoàn nọ lại tiễn đoàn kia, lúc nào cũng có cái vẻ bận rộn của người làm việc, lại vừa có vẻ thong thả của kẻ rong chơi, cuộc đời cứ tênh tênh. Nhưng mà, tôi cứ có cảm giác rằng, khi kể chuyện, trong cái giọng điệu bình thản ấy, có gì như diễu cợt, như anh tự diễu cợt chính anh, người thân của anh, khách khứa của anh, và trong giọng nói ấy, trong cái tiếng cười hềnh hệch ấy, có gì cũng rất ngậm ngùi, có gì như một sự xót xa, và đượm buồn.

Lúc chia tay ở sân bay, anh bịn rịn lắm, anh cho địa chỉ và hẹn sẽ có ngày anh làm “guide”(2) cho tôi, anh sẽ “đi khách” với tôi, khắp Amsterdam, tới tận hang cùng ngõ hẻm, nếu tôi muốn. Anh bước đi trong ráng chiều chạng vạng, tấm thân nhỏ bé, gầy guộc của anh nhanh chóng chìm nghỉm vào dòng người bất tận, lẫn trong những thân hình cao lớn, đầy màu sắc. Tôi đứng lặng nhìn theo anh, cho đến khi cái đầu đen ấy chỉ còn là một chấm đen mờ dần, mờ dần, rồi mất hẳn.

Tháng 1-2003, cuối Nhâm Ngọ, đầu Quý Mùi

Chú thích:

(1) Private club: một kiểu câu lạc bộ về tình dục

(2) Guide: hướng dẫn viên