← Quay lại trang sách

Trang kim

Nhập nhoạng tối. Căn phòng chỉ có chút ánh sáng hắt qua ô cửa nhỏ trên cao, mé trái ban thờ. Những ngọn đèn đỏ quạch hình búp sen trên đó chỉ đủ phát ra trong phạm vi hẹp chút ánh sáng âm u. Ở một góc nhà, những sắc vàng, trắng, đỏ, xanh của ánh giấy trang kim lấp lánh bên đống hàng mã, tiền vàng có làm căn phòng rực lên đôi chút nhưng ma mị. Người đàn ông ngồi xếp bằng lúi húi đóng gói, biên chép vào từng gói lễ, đổ lên tường hình bóng của một người gù và cái đầu tròn như đầu sư. Tiếng mở cửa làm lão giật mình, hóa ra là con bé giúp việc mang vào cái mâm đồng.

- Bà bảo con mang cho ông cái mâm đặt lễ.

Lão không nhìn, hay đúng hơn là không dám nhìn, con bé đặt khẽ cái mâm bên đống lễ rồi lặng lẽ quay ra. Nghe từng bước rón rén trên sàn gỗ, lão buột miệng thở dài.

Hai mươi năm trước, quán cà phê nằm trong một con ngõ hẹp.

Đúng ra nó ở mặt tiền một con đường lớn, nhưng đi vào phải theo theo lối cửa hông, qua một cái sân nước suốt ngày lép nhép rồi mới lên cái cầu thang gỗ. Căn phòng trên gác hai là quán, chỉ có một cái phản ở góc nhà, một sô pha gỗ đóng kiểu “mô đéc” chế từ cái giường cưới mua theo tiêu chuẩn giấy đăng ký kết hôn. Bàn đóng từ thùng hàng biển vẫn còn nguyên mấy cái hình vẽ cốc thủy tinh chú ý hàng dễ vỡ, xung quanh lổn nhổn các loại ghế con, vừa mây, vừa gỗ.

Khách ngồi xếp bằng trên phản, hoặc túm tụm theo nhóm nhỏ quanh mấy chiếc bàn con. Quán đông là nhờ ở gần trụ sở cơ quan Trung ương hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, là nơi lui tới của các cụ văn nghệ, các tài danh mà phải nhiều năm sau tác phẩm của họ mới thành giá trị. Nhưng gần là một chuyện, cái chính là do chủ quán, người đàn ông có cái lưng gù, cặp mắt lèm nhèm lõm sâu trong hai cái hốc trên khuôn mặt gầy khắc khổ làm cho vẻ mặt luôn già hơn tuổi. Tóc cắt cao chỉ còn lơ thơ vài sợi bạc, đầu phía trên bè ra, hai má dưới tóp lại, giá bây giờ thì bảo giống người ngoài hành tinh. Lão hay mặc quần ta may bằng thứ vải thô nhuộm nâu, cả mùa đông lẫn mùa hè. Mùa đông giày bộ đội, áo bông xanh, mũ lưỡi trai dạ, quàng phu la bịt kín hai tai. Hè đến vẫn dưới quần ta, trên sơ mi nhưng bao giờ cũng cài cúc cổ. Cái lối ăn bận vừa xộc xệch, vừa nghiêm chỉnh của lão khiến ta có cảm giác như nhìn một lão nông về phố, có sự thoải mái nông dân, nhưng cứ phải có chút lễ nghĩa. Khách hay gọi “Dần gù”, thế là chả biết từ bao giờ, tên và cái lưng còng của lão bỗng trở thành tên quán.

Dần gù vốn ít nói, khách đến chừng như lão hiểu hết thói quen của họ. Nhiều khi chả cần hỏi, thấy người là biết uống gì. Cách pha của lão khá cầu kỳ, và kỹ. Dội một lượt nước sôi làm nóng đồ nghề, rồi mới bỏ cà phê vào. Nước sôi rót vào phin tí một, cho nở và nén chặt lại, rồi mới chính thức chế nước thêm. Trên phản là nhóm nói to của cánh viết. Cà phê đá rồi ấm trà ngồi mãi không vãn chuyện. Chả cầu kỳ, uống hết lại xin thêm nước sôi chế vào cái ấm trà loãng thếch. Cùng lắm vứt cho cái điếu là xong. Phải cthẩậnn là mấy bác họa sĩ hay ngồi quanh cái bàn bên cửa sổ, chỗ có mấy cành sấu già đung đưa. Mấy bác này vừa khôn chỗ vừa kỹ uống, phin cà phê cứ túc tắc nhỏ từng giọt chậm, đặc sánh. Lão thích nhìn và hóng chuyện họ hơn. Trong cái chỗ của mình, bên những nào là phích nước sôi, ấm, chén, và những vết cáu bẩn trên sàn, lão lờ đờ nhả khói. Khách vẽ nói ít, trầm tư nhiều, nhưng lại hay trò chuyện cùng lão. Họ thích cái ngôn từ và giọng nói thô mộc đặc sệt chất Thái Bình của Dần gù. Họ thích cả cái cử chỉ tự nhiên không câu nệ của lão, từ cách ho, cách hút huốc lào, nhả khói và gãi ngứa ở lưng bằng cái thanh tre tự chế. Lão vót một thanh tre cho thật mỏng, có một cạnh sắc như lưỡi dao, mềm như lá lúa, luồn hai tay ra sau, mỗi tay một đầu “lá lúa”, lúc theo chiều chéo, lúc chiều ngang đưa đẩy cào cho đến lúc tấm lưng đỏ rát. Buồn cười nhất là cái biểu hiện của sự sung sướng trên khuôn mặt, rất nhịp nhàng theo từng lần đôi tay đưa đẩy, lúc nhăn mặt méo mồm sang phải, lúc lại sang trái, lúc dồn dập đảo điên, gì sướng bằng khi “gãi đúng chỗ ngứa”, lúc ấy lão hai mắt nhắm tít, môi ngậm chặt. Thỉnh thoảng có bác họa sĩ ngoáy cho lão tấm hình chân dung trên vỏ bao thuốc lá, lúc đội mũ quàng khăn bịt tai như Van Gốc, khi sơ mi cài cúc cổ, lão đỡ bằng hai tay, vuốt cẩn thận rồi cho vào cuốn sổ tính tiền quăn queo.

Vào thời bấy giờ, cà phê đã là cái gì sang trọng lắm. Thông thường thì người ta chỉ ngồi vãn chuyện ở những quán chè chén vỉa hè, hay dưới gốc sấu tối tối với ngọn đèn dầu hỏa, kéo mấy hơi thuốc lào sảng khoái. Dân phong lưu một chút mới vào cà phê, ấy là nói đến cái phong lưu về cốt cách, chứ tiền bỏ túi cũng chả rủng rỉnh gì, thành ra cái quyển vở học trò quăn mép của Dần gù đôi khi có ghi nợ một vài tên tuổi là cũng sự thường. Việc kinh doanh của lão cũng nhẹ nhàng, cũng là cái “sự chui”, chả bảng hiệu gì, mà rồi nhiều người biết, khách đến uống mà như đến chơi nhà, lắm bữa sớm ngày đông rét, góc phản còn cái chăn bông hoa từ đêm chưa kịp cất.

Cà phê Dần gù thơm đặc biệt, nhất là mỗi sáng sớm, từ chân cầu thang người ta đã cảm nhận được cái mùi ngất ngây. Vị đắng của nó cũng đặc biệt, đầm đầm mà không gắt, không chua. Cà phê đen nóng tách sành, thứ hàng mậu dịch, cái méo cái tròn, được ngâm trong bát nước sôi, ly đen đá bằng thủy tinh hàng thứ phẩm, nhưng vẫn đủ độ để nhìn rõ lớp trên ngầu bọt, đặc sánh. Làm gì thì cũng phải có tay, dưới đường cũng có cái quán ngay mặt phố, là của anh công an về hưu non trên ngực lúc nào cũng lấp lánh huy hiệu thương binh Điện Biên Phủ, đèn tuýp xanh tươi mát, trên tường dán nhiều hình ảnh cắt từ họa báo Liên Xô, rất vui mắt nhưng chả được đông bằng. Hồi ấy có hai ông gù nổi tiếng Hà Nội được truyền tên, là Dần gù cà phê và ông gù thịt chó ở chợ Hôm. Nói gì thì nói chứ đã mở quán là có chút “thương mại” rồi, nên nhà lão cũng rủng rỉnh đồng ra đồng vào.

Dần gù bán hàng thư thả, ngồi nhập tâm nghe chuyện nghệ thuật của mấy bậc anh tài, lúc đầu là tò mò, rồi thành thói quen và chả biết từ lúc nào cũng thấy hay hay. Thỉnh thoảng lão bày tỏ ý kiến với các họa sĩ khi họ vẽ mình, xin cho cái tay chỗ này thò ra, chỗ kia thụt vào một tí, hay thắc mắc “sao cái cổ nhà cháu nó rùn rụt thế nào”, khiến các họa sĩ cười bò. Tình thương mến thương đến như cái sự duyên, họ còn đi lại với nhau uống rượu. Rượu vào nhời ra theo năm tháng đưa Dần gù tới chỗ chả những biết nhìn, biết xem, lại còn biết bình phẩm như cái nhẽ “gần đèn thì rạng” khiến lão lắm lúc thấy cũng “rưng rưng”.

Năm tháng trôi qua, vật đổi sao dời, đến lúc cái căn phòng nhỏ quá chật với những gì lão tích lũy được, đến lúc cuộc đời Dần gù đã phình ra, thì chả còn là Dần gù cà phê nữa, mà trở thành một ông Dần nổi tiếng, cả về tiền và những giá trị khác không phải là tiền.

Thế là lão chuyển nhà.

Bây giờ là một ngôi nhà năm tầng ở con phố lớn, tầng một cũng vẫn cà phê nhưng có vẻ như chỉ để vinh danh một cái nghề mang đến hậu vận tốt đẹp cho đời lão. Những tầng giữa để ở và là nơi cất giữ những thứ là gia sản quý báu tích lũy được trong những năm bán cà phê, những năm gần và kết bạn với văn nghệ sĩ, những tinh hoa tên tuổi. Và tầng trên cùng là nơi thờ cúng. Vợ Dần gù thuộc dạng “có căn”, quanh năm mải mê các việc lễ lạt, đền phủ. Đâm ra lão cũng thế, suốt ngày bên vợ, chìm trong cái thế giới đệ tử con nhang. Hàng ngày lão chuyên làm cái việc soạn lễ, tính lão cẩn thận, tỉ mẩn, nên vợ hay bảo lau bàn thờ, sắp đặt lễ cúng, cắm hoa, lo việc hương oản.

Lão có cái thú thích đứng ngắm nghía ban thờ sau khi tự mình sắp đặt. Với Dần gù, đấy là cả một nghệ thuật, và được làm với niềm cảm hứng đặc biệt. Cứ như họa sĩ vẽ tranh tìm bố cục, lão nghĩ ngợi, nghiêng đầu nheo mắt khi sắp xếp, hay là do bị nhiễm cái tinh thần thẩm mỹ từ thuở giao du với mấy ông họa sĩ ngày xưa? Lão thích tìm sự cân đối trong phá cách, nên kiểu bày biện trên ban thờ nhà lão không như truyền thống. Lão không thích đối xứng, ít khi lão bày hai lọ hoa hai bên cùng một loại, hoặc một bên là bình hoa thì bên kia là quả. Màu sắc của hoa quả cũng phải hài hòa, không bao giờ quá nặng một màu mà cứ đan cài nhau, xanh của bưởi, vàng của cam, đỏ của táo tươi vui mơn mởn trên ban thờ.

Thế giới tâm linh với Dần gù có vẻ như chỉ là nơi nương nhờ yên ả cho tinh thần, như cơ thể cần một nơi trong lành thoáng đãng. Mỗi sáng lão thức giấc sớm, đi tập thể dục ngoài Bờ Hồ, về nhà tắm rửa rồi lên phòng thờ. Đánh một tiếng chuông ngân vang như lời tuyên cho một ngày mới, cắm mấy nén hương xong thì mới là lúc buổi sáng thật sự bắt đầu. Cứ thế, một đời sống lặng lẽ buồn trôi.

Bỗng một ngày, con bé ấy rơi tõm vào đời lão.

Về bản chất, Dần gù không phải là kẻ nâu sồng. Lại càng không phải là người “ăn chay, niệm Phật”. Chả biết từ bao giờ, hay từ lúc theo vợ đi đền phủ, lão xoay ra ăn trầu. Nhìn cái miệng lão nhai trầu bỏm bẻm, môi đỏ choét thật tức cười. Nom hơ hớ thế nào. Lão là người của người đời. Đi lễ chùa, đền phủ, cung kính nhất là trước ban Tam Bảo, hay ban thờ Thánh. Nhưng thực lòng nhất là khi lão đứng trước ban thờ ông Hoàng Bẩy, ông Hoàng mà lão nghe nói là phụ trách về khoản văn nghệ, hút xách, rượu chè. Đứng trước ngài, lão dám thú thật nỗi đau nhân tình thế thái, những uẩn khuất riêng tư. Sống có tâm, không dám cợt nhả gì nơi cửa Phật, trước thánh thần, nhưng lão cũng chả ngại ngần gì khi thầm khấn và bày tỏ nỗi lòng, những hệ lụy người trần mắt thịt. Lão dám nói thật không hẳn với tinh thần sám hối, mà như cốt để phân trần về cái sự ở đời. Có nhiều đêm lão mơ những giấc mơ kỳ lạ, như bị lạc vào thế giới đầy ảo ảnh, óng ánh của những sắc trang kim, với bao nhiêu sự lung linh huyền ảo của sắc màu, của những khuôn mặt phụ nữ hầu đồng. Những khuôn mặt trắng, mắt sắc lẹm và ánh nhìn lúng liếng bay lượn lờ, vờn vuốt xung quanh lão, như nuốt trọn hồn vía lão. Những mặt người bay lượn làm lão như bị hôn mê, đôi khi lại trào lên một sự thèm khát đến ngẹn thở, khiến lão ú ớ rồi thét lên trong đêm vắng.

Lão đặc biệt thích chầu văn, thứ âm nhạc có sức quyến rũ đầy ma mị. Những giai điệu mượt mà, lời hát nhiều khi nghe gọi một cảm giác xa xôi mà da diết. Ám ảnh nhất với lão là khuôn mặt con bé hát với cái câu “á a a á ả à a” đầy cắn xé ở chùa Hương, chỗ đền Trình. Tết nào lão cũng đi, cũng nghe và thần cả người. Con bé có khuôn mặt không có gì đặc biệt, ngoài cái nét gợi cho lão nhớ những ngày ở quê vào mùa hái rau khúc tháng ba ngoài bãi sông. Một năm sau tết, không thấy nó, người ta bảo trong một lần cãi nhau, chúng nó văng tục lọt vào “mi cờ rô” rồi phát ra tiếng loa oang oang ở nơi lễ hội, thế là bị đuổi. Lão cứ thấy chạnh lòng.

Cho nên vào buổi sáng hôm đó lão làm sao quên được, khi người ta dẫn về nhà một con bé giúp việc, không phải để làm “ô sin” như lẽ thông thường, mà làm “phụ lễ”, nghĩa là phụ giúp những việc lễ bái, bưng bê đèn nhang, trầu quả mỗi lần đi lễ cho bà nhà. Choáng mất một lúc, khi lão nhận ra chính là con bé hát ở chùa Hương.

Choáng rồi tỉnh. Lão thích thú giấu nhẹm cái tung tích mà lão đã biết về con bé như giấu một bí mật riêng tư đầy quý báu. Sự ám ảnh về giọng hát, khuôn mặt nó từ những tết năm nào lại hiện về sống trong tâm trí lão. Trong đầu lão bỗng nẩy ra những ý nghĩ tinh quái của một người từng trải, để che đậy đi sự nôn nóng, kìm nén lại cái liếm mép của con thú trước miếng mồi tươi. Không mặc cảm tội lỗi, lão tự cho mình cái quyền sở hữu một thứ của riêng cất giữ trong lòng. Với vẻ ngoài đầy cao đạo bề trên, hằng ngày lão gọi con bé, sai bảo việc này việc khác, không bao giờ bày tỏ một sự cưng chiều. Vẫn tự nhủ lòng là thế, nhưng càng ngày càng cảm thấy mất dần sự tự nhiên, thấy gượng và rất giả tạo ở mỗi lần lão cố tỏ ra nghiêm khắc với nó.

Mùa hè năm ấy, vợ lão sắm cho nó bộ cánh, quần lụa đen, áo nâu lụa mỏng kiểu bà ba cổ tròn, xẻ tà cao trên lưng quần. Mỗi chiều con bé hay lên phụ lão sắp lễ, phòng thờ tầng trên cùng, bao nhiêu

cái nóng căn phòng hứng trọn. Cái quạt trần quay tít cũng chả đủ xua đi cái hầm hập, lại còn tiếng vè vè khó chịu.

Lão đứng dưới, nó đứng trên cái ghế đẩu để nhận từ tay lão từng thứ đặt lên ban thờ trên cao. Mồ hôi ướt áo dính chặt vào tấm lưng, những đụn tóc bết trên khuôn mặt ửng đỏ vì nóng. Mỗi lần nó kiễng chân lên đặt lễ là một lần kéo tà áo mỏng cao lên khỏi lưng quần, đập vào mắt lão là cái eo lăn lẳn, cái tam giác da thịt trắng nõn làm lão hồi hộp. Lão lo nó ngã trên đôi chân lập cập của chính mình.

Ở tuổi ngấp nghé bẩy chục nhưng nhờ cái gốc người lao động nên Dần gù còn săn chắc, bụng không phệ, ngực không chảy, tay chân gân guốc, ngày hai bữa cơm rượu điều độ như cuộc đời buồn tênh của lão. Ngoài sáu mươi là vợ chồng “ra riêng”, đã từ lâu cũng vì hay lễ bái, trước những lần cúng quan trọng, bà không thích chung đụng. Người đàn bà khi mê man trong cái thế giới tín ngưỡng của mình thì quên luôn những đòi hỏi khác, tất cả chỉ còn là một sự “ôi dào”, thế là lão cứ tần ngần trong cái bí bách đầy lúng túng. Nhiều khi cố tự đánh lừa mình cũng chả được, năng lượng trong lão vẫn đầy, vẫn thôi thúc, vẫn như một mạch ngầm tuôn chảy rần rật chỉ chực trào ra. Lão sống như giả cách, miệng nhai trầu, quần áo nâu sồng lụng thụng, đôi khi nhìn con bé, lão không dám nhìn thẳng, hoặc chỉ nhìn thẳng kèm theo một nguyên cớ, là lúc lão phải giả vờ dặn nó một điều gì.

Con bé gọi lão là ông, xưng con. Cái lúc công việc chỉ có hai người oái oăm thay lại thường xẩy ra ở điện thờ trên tầng thượng, khi nó bị sai lên phụ giúp việc lễ. Nhiều hôm nó ngồi bên lão đơm oản, hay soạn lễ, mà chả ý tứ gì, lúc nóng cứ vô tư tốc vạt áo lên mà phành phạch quạt.

Hôm ấy buổi chiều, nắng quái thật bức bí, khó chịu. Những sắc màu nóng của đồ lễ như thêm hun đúc. Con bé ngồi xếp đồ rồi mệt quá, nằm tơ hơ dựa tường mà ngủ, chân gác chân duỗi khiến một bên ống quần tụt xuống. Chưa bao giờ lão cảm thấy đớn đau như thế, trong thế giới nhập nhòa của những sắc mầu ma mị, của thứ ánh sáng sắc lạnh nửa âm nửa dương, lồ lộ ra, rõ mồn một là mảng thịt da con gái, tươi non mơn mởn. Thứ ánh sáng ấy, những sắc màu kia, ánh trang kim u u mê mê vừa rạo rực, vừa ma quỷ, vừa kích động, vừa kìm hãm. Cố kìm nén trong sự run rẩy, sợ hãi, nhưng tự dưng như vô thức, tất cả như tuột đi đâu, lão run run bò đến.

Cái nóng luôn làm cho người ta dễ chìm sâu vào mê mệt, ở cái tuổi chơm chớm đôi mươi chưa nhiều điều phải nghĩ, thì giấc ngủ đầy thanh thản. Trong mơ màng, con bé linh cảm như có sự đụng chạm, nhưng một cảm giác khác đồng thời cũng thức dậy trong vô thức, là nỗi đê mê. Nó chả biết mình đang ở đâu, với ai, những căng ứa như được tràn ra…

Lão cũng thế, không còn ý thức được nữa, sự nửa mê nửa tỉnh của con bé thoạt đầu làm lão tê dại rồi bùng lên một ngọn lửa ham muốn cùng cực. Hai nửa u mê quyện lại vào nhau tê tái. Cứ thế, lão không còn biết mình đang ở đâu, ánh trang kim nhòa đi, những khuôn mặt hình nhân nhòa đi, những sắc màu thần thánh nhòa đi, chỉ còn sự gào thét của bản năng, vật vã như đi vào trận đấu cuối cùng.

… Vẫn còn nguyên quần áo, nhàu nát và ướt đẫm. Khi cả hai bừng tỉnh là lúc ngoài trời nổi gió, và cơn mưa bất chợt đổ xuống mịt mù màn nước. Cánh cửa sổ bị một cơn gió xô mạnh đánh rầm rồi bật ra, những hạt mưa tung tóe hắt vào.

Có phải là thánh thần nổi giận, hay là sự tưng bừng hỉ hả của đất trời cho lão, như là một sự nổ tung?

Con bé nem nép sợ. Hàng cúc áo bung ra một nửa, cái lưng quần mới lưng lửng trễ, da thịt thân thể đã cọ xát ở đâu, nhưng có hai ngọn lửa khát khao bùng cháy rồi lịm đi trong hơi thở như hấp hối của lão.

Xung quanh, những khuôn mặt hình nhân trừng trừng nhìn lão, trong mơ màng, lão nhìn thấy muôn vàn ánh lấp lánh của sắc trang kim. Và với lão, đấy là trận vã mồ hôi cuối cùng của cuộc đời.