Chương 4
Sau này, trong tất cả các bản khai lý lịch của mình, tôi đều ghi: Tôn giáo: Không!
Nhưng thực ra tôi đã được nhận lĩnh bí tích Rửa tội sau hai tuần tuổi. Tôi còn có tên thánh là Phê Rô. Tôi đã gia nhập đạo khi còn chưa biết gì, và sau này, cũng vì chưa biết gì về đạo, tôi là người không tín ngưỡng.
Đã là người theo đạo, không ai lạ gì việc thụ lĩnh các bí tích. Có bảy bí tích cả thảy: Rửa tội, Thêm sức, Mình Thánh Chúa, Giải tội, Xức dầu Thánh, Truyền chức Thánh và Hôn phối. Không phải tín đồ nào cũng được nhận đủ bảy bí tích nói trên. Những người như cha Phăng sẽ không có bí tích Hôn phối và những người như bà tôi sẽ không được nhận bí tích Truyền chức Thánh. Tất nhiên cũng có những trường hợp đặc biệt có thể lĩnh đủ bảy bí tích, đó là các vị linh mục xuất tu lấy vợ. Tôi cũng có thể coi là một trường hợp đặc biệt, vì tôi chỉ được nhận một trong bảy bí tích mà thôi.
Hôm ấy, khi tôi được hai tuần tuổi, bà bế tôi vào nhà thờ cho cha Phăng làm lễ Rửa tội. Bà mặc cho tôi một chiếc áo lụa màu mỡ gà có viền vàng thẫm. Đó là chiếc áo choàng kiểu cung đình có dây lưng thắt lại ở trước bụng. Tay và chân tôi đều được đi vớ màu trắng ngà, sợi rút màu đỏ có đính các hạt gỗ thơm. Cha Phăng cầm một cành dương liễu nhỏ nhúng vào bình sứ trắng viền vàng in hình Đức Mẹ đựng đầy nước lã tinh khiết rồi rẩy lên đầu tôi. Vừa rẩy nước cha vừa đọc: Ta rửa con, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần...
Sau buổi lễ này cha Phăng đã quàng vào cổ chân bên trái của tôi một chiếc vòng bạc. Chiếc vòng này được làm rất kỳ công. Nó có hình con rắn, đầu và đuôi ngậm chặt vào nhau, ngoài những đường nét hoa văn chạm khắc cầu kỳ, đầu con rắn còn được gắn một viên đá màu xanh lam, nhỏ như hạt vừng. Đây là một ân sủng của cha Phăng đối với tôi. Bà rất lấy đó làm hãnh diện. Bà chẳng tiếc tôi điều gì. Bà sắm cho tôi đầy một thúng quần áo, tã lót, khăn, vớ, tất, mũ, giày, dép. Bà mong chờ tôi lớn lên từng ngày để diện được tất cả những thứ đó. Trong ngăn tủ của cha Phăng cũng chứa nhiều thứ để dành sẵn cho tôi. Có lần cha Phăng bảo tôi: “Con có đôi mắt của một giáo sĩ đấy con trai ạ!”. Ba tháng biết nẫy, sáu tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi, tôi tuân theo cái quy luật ấy của dân gian. Nhưng lúc tôi không tuổi là lúc xung quanh đang diễn ra những biến động lớn. Đứa trẻ sơ sinh của nhà bà Cả Ngật phổng phao dần lên chính vào khoảng thời gian một trăm ngày đặc biệt của lịch sử. Đây là khoảng thời gian cha Phăng và những người như bà chuẩn bị rời khỏi An Lạc để theo Chúa vào phương Nam. Đây cũng là khoảng thời gian để cho những người như bố tôi, những đội viên thị vệ năm xưa chuẩn bị vượt sông Sầu Diện tiến vào giải phóng thị trấn An Lạc. Tôi hưởng mọi niềm yêu thương của bà, của mẹ, của cha Phăng, của bõ Câm, của bà Quản hội Con hoa, của cả cộng đồng giáo dân quanh khu Nhà Thờ từ không tuổi đến một tuổi mà không hề ý thức được điều ấy. Bước sang tuổi thứ hai của cuộc đời, mọi niềm yêu thương ngày một rời bỏ tôi mà đi, dĩ nhiên tôi cũng không ý thức được điều ấy để mà níu kéo hay buồn tiếc. Đám dân khu Nhà Thờ lần lượt xuống tàu, bỏ lại sau lưng thị trấn An Lạc với ngôi thánh đường uy linh một thủa. Họ không muốn sống chung với những đội viên thị vệ đang tập kết ở bên kia bến đò Lãng Tiên, chỉ còn chờ vài ngày nữa thôi là sẽ vượt sông tiến vào thị trấn. Tôi chỉ còn được hưởng niềm yêu thương của bà và cha Phăng một cách gấp gáp, vội vàng. Cha Phăng dạo này bận việc suốt, chẳng mấy khi chịu gặp tôi. Bà thì tối ngày lo chuẩn bị cho sự ra đi. Hết bán hàng lại tìm cách thu gom tiền bạc, mua vàng dự trữ, bán những đồ đạc không mang theo được, nhắc nhở mẹ tôi thúc nợ chỗ này, đòi bạc chỗ kia, cả nhà cứ quay như chong chóng. Nhưng dù bận thế nào đi nữa thì bà vẫn không bỏ thói quen đọc kinh. Bà yêu quý tôi, ngoài việc cho tôi ăn mặc, bà còn nhồi cả những thứ bà tụng hàng ngày vào đôi tai trẻ thơ của tôi nữa. Tôi nằm trong chiếc nôi đan bằng mây được chuốt kỹ ánh lên màu nâu bóng. Chiếc nôi được gắn với một giá đỡ bằng gỗ, có thể di chuyển được. Bà thường đặt cái nôi nằm bên cạnh bà trong những lúc bà đọc kinh, dù ở nhà hay ra nhà thờ. Tôi ít khóc, mắt lúc nào cũng mở to, nhìn hút vào miệng bà. Như thế có vẻ như tạo hứng khởi cho bà nhiều hơn. Bà vừa đọc vừa làm dấu thánh và nhìn tôi âu yếm. Đôi lúc mắt bà lim dim. Lại có khi bà mải nhìn tôi đến quên cả làm dấu thánh. Bà không hề biết chữ nhưng lại thuộc rất nhiều kinh. Sáng, trưa, chiều, tối, ngày lễ, ngày chủ nhật bà đều đọc cả, mỗi lần đọc là một bài khác nhau. Tôi vô cùng ấn tượng về bài Kinh cầu các Thánh dài lê thê với những tên ông Thánh, bà Thánh loằng ngoằng, ngúc ngắc, khó nghe, khó nhớ vô cùng. Vậy mà bà vẫn đọc trôi chảy, đọc vanh vách trước con mắt mở to của tôi.
... Rất Thánh Đức Mẹ Chúa Trời
Rất Thánh Nữ Đồng Trinh trên hết các kẻ đồng trinh
Đức Thánh Mi-ca-e
Đức Thánh Ga-bi-ri-e
Đức Thánh Ra-pha-e
Các Thánh thiên thần cùng các Thánh Tổng lãnh Thiên thần
Chín phẩm các Thánh Thiên thần
Ông Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta
Ông Thánh Giu-se
Các Thánh Tổ tông cùng các Thánh Tiên tri
Ông Thánh Phê-rô
Ông Thánh Phao-lô
Ông Thánh An-rê
Ông Thánh Gia-cô-bê
Ông Thánh Gio-an
Ông Thánh Tô-ma
Ông Thánh Phi-líp-phê
Ông Thánh Ba-tô-lô-mê-ô
Ông Thánh Mát-thê-ô
Ông Thánh Xi-mong
Ông Thánh Ta-đê-ô
Ông Thánh Mát-thi-a
Ông Thánh Ba-na-bê
Ông Thánh Lu-ca
Ông Thánh Mát-cô
Ông Thánh Tê-pha-nô
Ông Thánh Lô-ren-xô
Ông Thánh Vi-xen-tê...
Các Thánh Đồng trinh cùng các Thánh Thủ tiết
Các Thánh Nam cùng các Thánh Nữ
Chúa hằng có lòng lành
Chúa tha tội chúng con
...
Bài kinh cứ thế kéo dài vô cùng vô tận. Tôi đã được thụ lĩnh một bí tích, tức đã nhận được dấu hiệu khả giác, linh hồn đã được thông ban ân sủng vô hình và thánh hóa nội tâm. Bây giờ lại hàng ngày được tráng rửa tâm hồn bằng những bài Kinh sáng, Kinh tối, Kinh chủ nhật, Kinh nguyện, Kinh cầu, Kinh dâng lễ dọn mình của bà. Chả biết Chúa thật có trên đời này không, chỉ biết lòng tôi luôn trống rỗng, niềm tin chưa kịp đến và ở lại thì đã bị đẩy bật ra khỏi đạo rồi. Cái hôm mẹ bế tôi xuống tàu ở cầu cảng số ba là buổi cuối cùng tôi được nghe những câu kinh từ miệng bà. Cũng là buổi cuối cùng tôi được cha Phăng bế ẵm và hôn những cái hôn nồng ấm lên hai bên má.
Khi mẹ bế tôi giơ lên thật cao, miệng không ngừng gọi to: Nguyên Bình! Nguyên Bình! đã làm một người đứng gần đó giật mình. Đó là một ngườiđàn ông đứng cùng mặt boong với mẹ. Ông ta mặc đồ ka ki vàng, đeo thắt lưng to bản, chân đi giày da đen bóng, đầu đội mũ lưỡi trai mềm, bao súng để trễ trước bụng. Ông ta là lính liên hiệp, đeo lon trung sĩ. Người đàn ông ấy tiến đến sát bên mẹ tôi và hỏi:
- Chị biết anh ta à?
Mẹ tôi giật mình nhìn sang người đàn ông lạ, miệng bỗng trở nên lắp bắp:
- Vâng... à không... à vâng. Nhưng sao ạ?
- Tôi là người quen của anh ấy. Nhưng tôi rất lạ là không hiểu sao anh ấy không chịu nhận ra tôi. Tôi đã tự hỏi không lẽ trí nhớ của anh ấy đã suy giảm? Hay là anh ấy sợ điều gì?
Mẹ bỗng òa lên khóc. Hình như nỗi tủi thân của mẹ được người đàn ông kia khơi nguồn cho tuôn chảy, cứ thế trào ra, nức lên thành tiếng khóc không sao nín lại được. Người lính thất trận có vẻ lúng túng trước những giọt nước mắt của mẹ tôi, ông ta bảo:
- Thôi, chị đừng khóc nữa. Chị là thế nào với anh ấy?
Điều mà mẹ tôi giữ kín suốt bấy nhiêu ngày qua giây phút này bỗng được xổ hết ra, thật thà và ai oán. Có thể anh lính thua trận kia có khuôn mặt chân thành quá, cũng có thể vì anh ta cũng đang tâm trạng như mẹ, buồn, giận, nghi hoặc, bất nhẫn nên mẹ dốc hết những điều sâu kín trong lòng ra chăng? Mẹ bảo:
- Em khổ lắm bác ơi. Anh ấy là bố thằng bé này đây. Đận đánh nhau năm kia bác còn nhớ không? Em gặp anh ấy chạy lạc vào núi Cô Hồn. Rồi em mang thai thằng này. Em tưởng anh ấy sẽ về nhận hai mẹ con em. Ai ngờ anh ấy hờ hững như người dưng. Lại bảo em nhìn lầm người. Lầm làm sao được! Đúng tên, đúng hình ấy, vóc ấy, mặt ấy lại bảo không đúng người là sao? Em biết làm thế nào bây giờ hả bác? Chúng em mà đi lần này biết đến bao giờ mới quay trở lại được? Chẳng lẽ để thằng bé không được nhận bố? Thực sự thì anh ấy là người thế nào? Bác là bạn của anh ấy, bác có hiểu anh ấy là người thế nào không?
Người đàn ông mặc đồ lính trận ngồi bệt xuống mặt boong, tay cầm chiếc mũ vải để kẹp giữa hai đùi, chân hơi duỗi, mũi giày ghếch lên. Ông ta bảo:
- Tôi và anh ấy đã từng cùng học, cùng chơi với nhau. Tôi nợ anh ấy cái mạng sống này. Chúng tôi không thể đi chung với nhau một con đường nhưng tôi vẫn coi anh ấy là bạn. Chẳng hiểu sao anh ấy lại không nhận tôi nữa.
Mẹ hỏi:
- Đã bao lâu rồi bác không gặp anh ấy?
Người đàn ông bảo:
- Gần chục năm.
Mẹ bảo:
- Thế đã đành. Đằng này em và anh ấy mới gặp nhau có năm ngoái, năm kia thôi. Gặp tình cờ ở trong núi ấy mà. Đận ấy khiếp lắm. Em cứ tưởng anh ấy đã chết trong hốc núi, dưới đám lá xương sông...
Người đàn ông tủm tỉm cười rồi hỏi:
- Gặp nhau ngắn ngủi thế mà đã kịp có thằng cu này cơ à?
Mẹ giãi bày:
- Em khổ lắm bác ơi. Gần nhau có mấy ngày là em coi như mình đã thuộc về anh ấy. Bây giờ thằng bé lớn bằng ngần này rồi, chẳng lẽ bố con lại không nhận nhau?
Người lính liên hiệp vò vò chiếc mũ ở trong tay, tỏ vẻ ái ngại cho mẹ. Lát sau ông ta bảo:
- Chị nên gặp bằng được anh ấy một lần, nói rõ mọi điều cho anh ấy nghe, rồi tùy theo cư xử của anh ấy mà chọn cho mình việc đi hay ở. Tôi hiểu lúc này mọi việc đều rất phức tạp. Anh ấy là người của quân đội Việt Minh, kỷ luật của họ rất nghiêm và quan điểm chính trị của họ rất khô cứng. Nhưng biết đâu, khi đã rõ sự thật thế này, anh ấy lại liệu được. Việt Minh thì cũng phải có vợ, có con chứ? Tôi nghĩ thế.
Mẹ ôm chặt tôi vào lòng, sụt sịt một lúc rồi bỗng quay sang người đàn ông, nói như trút lòng mình:
- Em nghe lời bác, có khi em phải lên bờ tìm anh ấy. Bà cụ nhà em đang cầu kinh ở đầu boong kia. Nếu em không quay trở lại thì nhờ bác nói khéo với cụ hộ em nhé. Em ơn bác!
Người đàn ông có vẻ bất ngờ trước thái độ dứt khoát của mẹ. Ông ta bảo:
- Tàu sắp rời cảng rồi. Đây là những chuyến cuối cùng, chị phải lo việc của mình cho nhanh mới kịp.
Mẹ như không nghe lời ông ta nói, vụt đứng dậy, vừa nhìn về phía bà vừa len lén bước xuống cầu thang. Người đàn ông cũng bật dậy theo. Ông ta đi ngay đằng sau mẹ. Tới chỗ lên xuống giữa hai tầng tàu, ông ta giữ mẹ lại, thò tay vào túi móc ra một sợi dây chuyền màu vàng, bảo:
- Tôi linh cảm là chị lên bờ lần này sẽ không xuống lại nữa. Chị giữ vật kỷ niệm này của tôi cho đứa bé. Nếu anh ấy nhận chị và con, khi nhìn thấy chiếc dây này anh ấy sẽ nhớ ra tôi. Tôi là Thành, Tuấn Thành. Nào để tôi đỡ chị lên.
Mẹ trèo lên thành tàu rồi bước lên bờ. Người đàn ông chờ sẵn bế tôi trao cho mẹ. Mẹ ôm tôi, cứ thế chạy về phía có tấm dù che tạm ở đầu cầu cảng số Ba. Mẹ hỏi một câu gì đó với người đàn ông đang ngồi trên ghế. Người này quay ra bảo:
- Anh Nguyên Bình đang ở trong khu nhà hai tầng kia, chị vào đó mà tìm.
Theo tay chỉ thì người mà mẹ tôi muốn tìm đang có mặt ở đâu đó trong khu nhà quét ve màu vàng ẩn sau rặng phi lao phía đầu cầu cảng số Một. Mẹ đi như chạy về phía khu nhà ấy. Đằng sau mẹ bỗng hàng loạt âm thanh chói gắt rú lên inh ỏi, trên nóc những con tàu những cột khói phụt ra, quẩn vào nền trời đang tắt nắng. Hình như có tiếng thét gọi mẹ và tôi. Đúng rồi, tiếng gọi lạc giọng của bà! Bà đã dứt ra khỏi bài kinh cầu của mình và đang hốt hoảng tìm kiếm mẹ con tôi trên các mặt boong. Mẹ vẫn đi như chạy. Có một niềm hy vọng đang lớn dần lên trong mẹ. Nhưng những người lính gác đã không cho mẹ bước chân vào ngôi nhà hai tầng quét ve màu vàng. Họ bảo:
- Đây là khu quân sự, nhà chị tìm ai mà vào đây? Dân di cư tập trung ở phía đằng kia cơ mà?
Mẹ nói trong hơi thở hổn hển:
- Xin các anh cho tôi gặp anh Nguyên Bình. Anh ấy cũng là nhà binh như các anh. Mấy anh ở cầu cảng bảo anh ấy đang ở đây - À, họ vừa lên xe về rồi - Những người lính gác bảo với mẹ vậy - Chị là vợ anh ấy à?
- Vâng, tôi rất cần gặp anh ấy - Mẹ đáp vội vã.
- Thế thì chị cứ ở đây chờ, chỉ tí nữa thôi lại có chuyến xe chạy về tỉnh đấy. Tưởng chị là dân di cư?
- Không, không, tôi đi tiễn người nhà thôi - Mẹ bỗng trở nên hoạt bát, nói năng trôi chảy hơn và không còn thở hổn hển nữa.
Đúng là lại có xe chạy về tỉnh thật. Chiều tối hôm đó mẹ con tôi có mặt ở trước trụ sở Ủy ban quân quản. Vắng tanh vắng ngắt. Đứng chờ mãi vẫn chẳng thấy có ai ra mở cửa, sốt ruột quá, mẹ hỏi một người đi ngang qua phố:
- Bác ơi, những người vẫn đứng gác ở đây họ đi đâu hết rồi hả bác?
Người này nhìn mẹ con tôi từ đầu đến chân rồi bảo:
- Nhà chị này chẳng biết gì cả. Họ chuyển hết về Tòa Sứ cũ rồi, chỗ dinh Tỉnh trưởng ấy.
Mẹ thở dài ngao ngán, thẫn thờ bước đi. Đến cuối phố, mẹ quặt về hướng Nhà Thờ. “Thôi, mẹ con mình về nhà cũ nghỉ đã, sáng mai sẽ tìm bố con sau”, mẹ bảo với tôi vậy.
Người mà mẹ gặp ở cửa nhà cũ là bà Quản hội Con hoa. Bà Quản vội nắm lấy tay mẹ tôi lôi ra một góc tối, thì thào:
- Sao cô chưa đi còn về đây làm gì?
Mẹ bảo:
- Con không đi nữa. Con không muốn xa đất An Lạc này bà ạ.
Bà Quản nói như rít lên:
- Thế thì không còn nhà cho cô về đâu. Toàn bộ khu này họ chiếm hết rồi. Chẳng ai dám về nhà cũ của mình mà ở. Họ bảo dân khu Nhà Thờ có nhiều nợ máu với cách mạng, sẽ giết tất. Bọn tôi phải chuyển xuống Xóm Đáy ở. Dân Xóm Đáy nghèo. Chế độ mới không giết dân nghèo, chỉ giết người giàu, người theo Pháp và người đi nhà thờ nghe cha Phăng giảng đạo. Tôi mò về nhà cũ xem còn ít đồ đạc nào thì lấy nốt mang xuống Xóm Đáy. Mẹ con cô cũng xuống đó đi thôi. Bây giờ hở mồm ra phải nói là sống dưới chế độ cũ bị bóc lột khổ lắm, nghèo lắm, thế mới sống được, nghe chưa?
Đó là bài học đầu tiên về cách sống dưới chế độ mới mẹ tôi được thụ lĩnh từ bà Quản. Rời nhà đi có một hôm, khi quay về mọi sự đã đảo lộn đến chóng mặt, mẹ chỉ còn biết ôm chặt tôi vào lòng mà khóc thầm. Tần ngần một lúc trước cửa nhà cũ, hai mẹ con tôi đành đi theo bà Quản xuống Xóm Đáy tìm chỗ ở. Cũng có vài ba nhà bỏ vào Nam đóng cửa để không. Bà Quản bảo:
- Cứ chiếm đại lấy một cái mà ở. Đã đi rồi chẳng ai còn dám quay về mà đòi đâu. Tao cũng thế. Cái nhà tao chiếm may còn đầy cả một bể nước mưa. Nếu cần nước mưa cứ sang tao nhá!
Cho đến mãi sau này tôi mới hiểu lý do vì sao bà Quản hội Con hoa lại không di cư vào Nam. Thời điểm ấy bà Quản đang phải lòng ông Mật rỗ. Ông Mật rỗ là người đàn ông kỳ lạ nhất thị trấn An Lạc. Mặt ông rỗ chằng rỗ chịt, tiếng ông rền vang như tiếng máy nổ, người ông to cao, thô rám như một cây bàng cổ thụ. Ông từng đi lính cho Pháp, thuộc đại đội địa phương quân, đóng ở gần Trại pháo thủ cũ. Tính ông nóng nảy, lại thích tự do và ghét Pháp nên hay lôi kéo binh lính bỏ trại. Sau này đại đội địa phương quân chia làm phe, trong một buổi rượu say hai phe đã xích mích và dùng súng bắn lẫn nhau. Ông Mật bị liệt vào hạng cầm đầu một trong hai phe nên bị đưa đi làm lao dịch ngoài mặt trận. Thời gian làm lao dịch ông có công cứu thoát gần một tiểu đội Việt Minh rồi cùng trốn lên rừng với họ. Ở rừng chẳng được bao lâu ông lại trốn về An Lạc. Từ ấy ông trốn chui trốn lủi, ngày bốc vác, đêm làm cướp, bị bắt lại trốn, đói rách lại đi cướp, cứ thế sống cho đến ngày An Lạc được giải phóng. Ông là người có sung năng tình dục mạnh mẽ chưa từng thấy. Ông có tới bảy người vợ cả thảy. Đấy là kể cả những bà sau này, còn khi bà Quản gặp ông thì ông mới có ba bà thôi. Bà Quản vừa xấu vừa thô, tính tình lại đồng bóng, thế mà dính vào với ông Mật rồi, không sao dứt ra được.
Hồi An Lạc đang một trăm ngày ông Mật tranh thủ mua bán, vơ vét, đổi chác, cả ăn chặn, ăn cướp nữa, nên sống khá phong lưu. Một lần ông bị Hiến binh Pháp đuổi bắt, súng bắn “pằng, pằng” ở phía sau, ông Mật chạy vòng vèo qua mấy phố rồi theo lối bờ đầm chui tọt vào nhà thờ. Bà Quản lúc ấy đang lúi húi quét dọn trước sân nhà nguyện. Bà vội nhét ông Mật vào gian để máy phát điện. Hiến binh vào tìm quanh một lúc không thấy liền rút đi. Tối ấy ông Mật vật bà Quản rình rịch ngay bên cỗ máy phát điện. Chưa bao giờ bà Quản được hưởng niềm lạc thú tuyệt vời đến thế. Bà Quản đưa ông Mật về nhà mình, suốt ngày quấn lấy nhau không rời. Mươi hôm sau ông Mật lại biến đi, thỉnh thoảng mới mò về với bà Quản một vài đêm. Tình đang nồng như thế, bà Quản không thể rời An Lạc mà ra đi được. Dưới chế độ mới ông Mật làm nghề chở xe bò. Ông có một gian nhà nhỏ, một vườn đất rộng và một cái đầm mênh mông. An Lạc chỉ có vài con phố, còn lại là những đầm nước, ao hồ, đồng ruộng bao bọc xung quanh. Hồi mới giải phóng nhà bỏ không nhiều, đất đai hoang hóa, bao nhiêu những trại lính, khu quân sự trước đây để cỏ lún, rêu phủ, cột kèo mối mọt, tường đổ từng mảng, chả ai ngó ngàng tới. Đám dân dưới đáy xã hội cũ như ông Mật nghiễm nhiên trở thành công dân của chế độ mới, tha hồ khai hoang đất đai, ao hồ, đầm phá. Ông Mật dựng thêm hai gian nhà cói ở hai đầu bờ đầm cho hai bà vợ ở. Bà ba có nhà riêng ở Đồng Tải rồi, bà Quản thì ở Xóm Đáy, ông Mật cứ thế thay phiên nhau làm nghĩa vụ với bốn bà, sau này còn thêm vài ba bà nữa.
Mẹ tôi lại mở hàng cháo để kiếm sống. Chế độ mới không cho giết mổ lợn như trước, mẹ phải bỏ món tiết canh và cháo lòng, chỉ nấu cháo đỗ hoặc cháo hoa bỏ đường. Mẹ cũng không ngồi một chỗ như bà mà thường quẩy gánh cháo đi bán rong khắp thị trấn. Những tháng ngày sau này mẹ âm thầm đi tìm bố, không biết đã gặp chưa, chỉ thấy mẹ rất buồn và thường khóc rấm rứt vào ban đêm, mỗi khi tôi ngủ say.
Tôi lớn dần lên, thành một đứa trẻ Xóm Đáy đặc sệt không lẫn vào đâu được, nghĩa là tóc thì cháy khét và người thì lúc nào cũng hôi mùi bùn đất. Bao bọc xung quanh xóm là bãi bờ cửa sông, ở đó có vô vàn thú vui cho bọn trẻ. Chúng tôi thường rủ nhau đi lội bùn, đi bắt còng rồi be bờ tát nước bắt cá, bắt tôm rồi đặt đó, đặt lờ bắt cua, bắt rạm, chán thì chơi trò tết những sợi cói lại làm chỗ chui ra chui vào hoặc ngủ luôn trong những đám cói đó sau khi đã nổi lửa nướng tất cả những gì bắt được, cho vào mồm. Rồi tập bơi, đánh trận giả, tập đan lưới, đan rổ rá, thỉnh thoảng mò xuống thuyền theo người lớn dong buồm ra biển. Năm tôi lên Năm tuổi tôi được bà Quản cho đi chơi xa. Gọi là xa, thực chất là đến nhà ông Mật rỗ ăn cỗ nhân dịp ông cưới bà thứ Năm. Đó là một ngày đáng nhớ trong đời vì chưa bao giờ tôi được đến một chỗ có nhiều trẻ con như thế. Riêng con ông Mật đã có tới bảy người. Đất đai, vườn tược, ao đầm nhà ông Mật quả là một thế giới mới lạ mà tôi khám phá suốt cả ngày không hết. Tôi được đám trẻ nhà ông Mật cho lên chiếc thuyền tôn chèo chơi trên mặt đầm. Quanh bờ đầm có nhiều thứ cây có quả ăn được. Cây sung, cây khế, cây doi, cây chay, cây duối, cây sắn, cây quất hồng bì, cây dâu da đất... Tôi đã ăn đầy một bụng sung chín. Những quả sung chín chỉ cần lấy tay bửa nhẹ là nó toác ra làm hai nửa. Bên trong những quả sung ấy có rất nhiều những con muỗi nhỏ, hay còn gọi là bọ gió. Tôi thổi cho những con bọ gió ấy bay đi hết rồi mới bỏ vào mồm nhai ngon lành. Bữa trưa hôm ấy tôi lại được đánh chén cỗ no nê. Tôi được xếp ngồi cùng chiếu với hơn chục đứa trẻ con khác. Chúng tôi tranh nhau bốc lòng, thịt, xương mà nhai, mà gặm, mà chí chóe cãi nhau, mà mách người lớn, mà khóc, mà cười. Bữa cỗ còn có cả khoai ninh và xôi trắng nấu dẻo nữa. Ông Mật đã giết một con lợn sáu mươi cân, đủ để làm một bữa cỗ phong lưu cho tất cả mọi người đến dự đám. Bà Quản nhọ đen, nhọ đủi, chạy ra chạy vào chỗ cửa bếp và cầu ao, miệng nói tay làm, mặt cứ giãn nở ra từng thớ, lẽ chừng cũng đang vui như chính ông Mật vậy. Ông Mật hôm ấy mặc một chiếc áo bộ đội còn mới, chỉ ngồi ở nhà trên tiếp khách, mặt chẳng ra vui chẳng ra buồn, thỉnh thoảng lại cười phá lên một tràng làm lạnh đít trẻ con. Trông ông cứ như là người đang lo làm đám cho con gái đi lấy chồng chứ chả ra người sắm vai chú rể. Tối muộn hôm ấy tôi mới về tới nhà. Mẹ hỏi: “Con có lấy phần cho mẹ không?”. Tôi bảo: “Có”. Và tôi móc trong túi quần ra một miếng gan lợn to bằng nửa bàn tay. Đây là món quà đặc biệt hậu hĩnh mà thằng Chột đã dúi vào tay tôi trong lúc cả nhà chưa ai được ngồi vào mâm. Mẹ hét lên một tiếng “Ối trời!” rồi vứt miếng gan lợn thâm xì, cứng queo ra sau nhà. Nhưng sau đó mẹ cũng có khen tôi ngoan, hiếu thảo, biết thương mẹ song mẹ không thể ăn nổi thứ tôi mang về. Sau cái ngày đáng nhớ đó khoảng mươi hôm bà Quản hốt hoảng chạy sang nhà tôi. Bà bảo:
- Cô Mến ơi, bà Tư nhà tôi chẳng hiểu sao bụng cứ chướng lên, cô với tôi lên viện trông bà ấy hộ ông Mật đêm nay, tôi đi một mình cũng được, nhưng ở một mình cạnh nhà xác tôi sợ lắm.
Thế là mẹ tôi cùng bà Quản te tái lên viện. Bệnh viện nằm ở gần Ngã Năm, qua Tòa công sứ cũ độ hơn cây số. Tối hôm ấy tôi ôm thằng Chột ngủ ở ngoài hành lang, mẹ tôi và bà Quản tựa lưng vào chân giường bệnh gà gật chờ trời sáng. Quãng nửa đêm tôi nghe thấy tiếng khóc nhưng chả thèm để ý, tiếp tục ôm thằng Chột ngủ. Sáng ngày ra, mở mắt chẳng thấy mẹ và bà Quản đâu. Tôi hớt hải chạy dọc dãy hành lang tìm kiếm. Một cô hộ lý bảo:
- Tất cả đang ở dưới nhà xác.
Tôi nghe mà lạnh mình. Thế là bà Tư đã chết. Gần trưa hôm ấy ông Mật cho xe bò lên nhà xác chở vợ ra bãi tha ma. Cỗ ván mộc được đặt giữa lòng xe, bên trên có để bát cơm quả trứng và một bó hương to đang cháy nghi ngút. Thằng Chột vừa khóc vừa đòi cạy áo quan ra để đòi lại mẹ. Nó khóc cho đến khi mẹ nó được đặt xuống đáy huyệt thì bỗng im bặt. Sau này nó bảo với tôi rằng lúc ấy nó sợ. Hỏi sợ gì, nó bảo không biết, chỉ là cảm giác thôi, khó diễn tả lắm, có lẽ là sợ sự biến mất đột ngột của người thân yêu nhất dưới cái đáy huyệt sâu hun hút kia chăng?
Ba ngày sau thằng Chột thành hàng xóm của tôi. Bà Quản quyết định đem nó về nuôi. Thằng Chột hơn tôi hai tuổi nhưng còi cọc nên chỉ cao bằng đầu tôi. Một bên mắt của nó không hiểu sao bị những sợi thịt loằng ngoằng phong kín lại. Lúc đầu tôi rất sợ khi phải nhìn vào bên mắt ấy của nó. Nhưng rồi cũng quen đi. Nó là một đứa bạn tốt. Cái gì nó cũng hay, cũng giỏi hơn tôi. Nó nhanh nhẹn, sáng ý và cười nói luôn mồm chứ không lặng lẽ, ẩn khuất, u sầu như tôi. Bà Quản là một bà tiên đối với mọi đứa trẻ mặc dù nhìn bà người ta có thể liên tưởng đến một mụ phù thủy. Bà có dáng đi huỳnh huỵch như vác gạo trên vai (nhưng khi hướng dẫn đám con hoa múa thì lại rất điệu đàng, uyển chuyển), có làn da dày như áo mưa, mặt thô, mắt trắng, bàn tay, bàn chân ráp như vỏ dứa (thế mà nấu ăn lại rất ngon, làm cỗ rất hoạt), có giọng nói khàn khàn, rền rền trong cổ, lại thô, lại tục, lại cứ như xói vào tai người ta (thế mà nghe bà nói chuyện ai cũng há hốc mồm ra). Nhưng ở với bà càng lâu càng thấy bà là người phụ nữ nhân hậu nhất trên thế gian này. Vào những hoàn cảnh phức tạp nếu bà tôi, mẹ tôi là những phụ nữ chỉ biết xử sự một cách thụ động và bế tắc thì bà Quản là người luôn tìm ra lối thoát hợp lý cho cách hành xử của mình. Cuộc sống đối với bà, vì thế, nhẹ nhàng hơn, bớt nặng nề hơn, dễ vượt qua hơn mặc dù bà là người bất hạnh. Bà Quản không có con. Bà bảo: “Chúa không cho đứa trẻ nào ra đời nhờ cửa mình thì đành nuôi những đứa trẻ ra đời từ cửa người khác vậy”. Bà rất yêu ông Mật, hoàn toàn tự nguyện chấp nhận cái kiểu sống đa thê của ông, lại còn vui vẻ, lại còn lo lắng cho cả cái “gia tộc Mật rỗ”, lại còn nhận về mình mọi thiệt thòi, khổ cực. Bà nhận nuôi thằng Chột như một sự đương nhiên. Bà còn bảo tôi: “Sướng nhá, thế là từ nay có cậu có cháu, dựa vào nhau mà sống, chẳng hơn à?” Như thế nghĩa là tôi phải gọi thằng Chột bằng cậu vì mẹ tôi vẫn xưng “con” với bà Quản. Thằng Chột về Xóm Đáy được chưa lâu thì mẹ tôi một hôm đi bán cháo về, bỗng lao vào giường khóc như mưa như gió, vật mình vật mẩy như mất vàng mất bạc. Tôi sợ quá, cứ ngồi bệt ở cửa không dám ho he, thút thít gì. Qua trưa, xuống chiều, vật vã mãi rồi mẹ tôi cũng thiếp đi. Tôi đói đến lả cả người mà khômg dám bước lại gần mẹ. Tiếng hời ai oán, thảm thiết của mẹ làm tất cả các sợi thần kinh trong tôi mềm nhão hết cả ra, tê liệt tứ chi, toàn thân rơi vào tình trạng vô cảm. Khi bóng tối bắt đầu buông xuống thì mẹ choàng tỉnh dậy. Như vậy là mẹ đã nằm cả ngày, bỏ mất buổi cháo chiều như mọi hôm. Mẹ bỗng nhìn thấy tôi ngồi bệt ở cửa buồng. Mẹ xốc tôi lên, nước mắt mẹ rơi xuống mặt tôi. Mẹ nói khào khào, giọng khản đặc:
- Thế là hết rồi con ạ. Bố con đi lấy vợ rồi. Bố con không đáng mặt đàn ông đâu. Bố con hèn lắm.
Tôi bảo:
- Mẹ tìm được bố con rồi à?
Mẹ gật đầu:
- Tìm được lâu rồi. Nhưng mẹ phải giữ cho bố con, mẹ không dám nhận. Bố con là người của chế độ mới. Người của chế độ mới không thể có mối quen biết với người của cha Phăng, của giáo dân khu Nhà Thờ như mẹ. Mẹ cứ tưởng rồi bố con sẽ tìm cách thu xếp. Ai ngờ bố con lại bỏ mặc mẹ con mình để đi lấy vợ mới. Biết thế này mẹ đi với bà vào Nam cho xong.
Tôi thương mẹ quá mặc dù chẳng hiểu nỗi mất mát trong mẹ nó to lớn đến đâu, đau đớn đến mức độ nào. Với tôi, cái người gọi là “bố” kia chẳng có gì đáng phải quan tâm cả. Tôi chưa bao giờ cần đến ông ta. Tôi cũng chẳng biết là có ông ta thì tôi được gì, hơn gì mà không có ông ta thì tôi sẽ thiệt gì, mất gì? Những điều mẹ nói với tôi lúc ấy phải tới hai mươi năm sau tôi mới hiểu được. Nhưng mẹ chỉ nói có thế thôi. Mẹ nhìn ánh mắt đờ dại, u tối của tôi, nhận ra rằng nó còn quá non dại để có thể hiểu những điều mẹ nói. Mẹ đặt tôi ngồi xuống một bên giường, thắp lên ngọn đèn dầu rồi ra sân rửa mặt mũi, chải lại đầu tóc. Sau đó mẹ bảo tôi:
- Đi, mẹ cho con đi ăn phở!
Tôi thấy mẹ lúc này khác hẳn với hồi chiều. Mẹ đã lấy lại được thần thái cho mình rồi. Sau này tôi tự lý giải rằng khi ấy mẹ đã làm ma xong hình ảnh của bố, đã rũ sạch cái mối tình duyên trắc trở và lắm ưu phiền của đời mẹ. Để rồi sau đó mẹ con tôi thong dong đi ăn phở. Hai mẹ con phải đi tới hơn cây số mới đến phố Tứ Phủ. Mẹ dắt tôi vào hiệu Lúa Vàng cũ, bây giờ có tên mới là Cửa hàng ăn uống mậu dịch Tứ Phủ. Mẹ mua hai vé ở quầy ngoài rồi đi vào gian trong đưa hai vé đó cho một người phụ nữ mặc chiếc áo khoác màu trắng dài quá đầu gối, trên ngực có in một dòng chữ màu xanh cong theo hình bán nguyệt. Người phụ nữ ấy xiên hai chiếc vé vào một que sắt nhọn có bàn đáy bằng gỗ. Sau đó cô ta vào bếp mang phở ra cho hai mẹ con tôi. Đó là lần đầu tiên tôi được ăn phở mậu dịch. Sau này tôi còn được qua lại chỗ cửa hàng ăn uống này nhiều lần nữa, thậm chí còn trở nên thân thiết với nó. Mẹ tôi không thể hình dung ra nổi điều đó. Mắt mẹ không ngừng quan sát người phụ nữ bê phở ra cho chúng tôi. Rồi mẹ nhìn ngó, để ý tất cả những người đang làm ở cửa hàng để kiếm tìm một dáng hình nào đó nhưng cái dáng hình đó không có ở đây. Cái dáng hình đó làm sao có ở đây được vì cô ta mới làm đám cưới sáng nay. Giờ này cô ta đang ở bên người chồng của mình. Mẹ đến cái nơi cô ta làm việc để cố hình dung ra con người cô ta thế nào chứ chắc mẹ cũng biết là cô ta không thể có ở đây vào giờ phút này? Tôi đã ăn xong lâu rồi mà mẹ vẫn còn ngồi đờ đẫn trước bát phở nguội ngắt. Bao nhiêu thịt mẹ đã gắp cả sang bát tôi, bát phở của mẹ bây giờ chỉ còn vài cọng hành nổi trên mặt đám bánh đã nở hết cỡ. Cuối cùng mẹ cũng chẳng ăn hết bát phở của mình. Mẹ chỉ húp tí nước rồi đứng dậy dắt tôi ra về.
Sau này mẹ không nói gì với tôi về bố nữa. Tôi cũng coi như không cần phải nghĩ đến chuyện ấy. Nhưng rồi tôi cũng đã được gặp bố. Tôi gặp bố trong một hoàn cảnh chẳng nên có chút nào. Tôi gặp bố trong tâm trạng của thằng Chột một năm về trước khi nó đòi cạy áo quan để đòi lại mẹ.
Phải, tôi gặp bố khi đang ngồi trên chiếc xe bò của ông Mật rỗ, trước mặt là chiếc quan tài của mẹ. Bố tôi đi đằng sau đám tang, trên một chiếc xe đạp hai dóng, khung sắt, có đính biển số màu trắng. Tôi nhìn ông, ông nhìn tôi, rõ ràng như người dưng thế mà ánh mắt cứ bắt chặt lấy nhau, đẩy đưa, trao đổi những tín hiệu linh cảm thật lạ lùng.
Tôi không gào khóc xé ruột xé gan như thằng Chột mà chỉ ngồi lặng yên cho nước mắt trào ra. Tôi là một đứa trẻ kháu trai nhưng có đôi mắt buồn. Đã có rất nhiều người lớn bảo với tôi thế. Một đứa trẻ kháu trai có đôi mắt buồn quấn trên đầu vành khăn tang trắng ngồi thẫn thờ trước cỗ quan tài trên xe bò kéo sẽ thế nào nhỉ? Hình ảnh ấy hẳn gây xúc động cho bố tôi, cho bà Quản, cho thằng Chột và những người hàng xóm của tôi nữa. Tôi thấy họ chép miệng rồi quay đi đưa tay áo lên chấm mắt. Riêng bố tôi, ông không khóc nhưng mắt ông đỏ hoe.
Thế là tôi trở thành đứa trẻ mồ côi khi chưa đầy sáu tuổi. Bà Quản lại mang tôi về nuôi. Cũng bắt đầu từ ấy tôi phải chính thức gọi thằng Chột bằng cậu. Người thân duy nhất của tôi bây giờ, ngoài bà Quản ra, chẳng còn ai khác ngoài... cậu Chột!