Phần 2 - Những tháng ngày chưa xa Chương 5
Cho đến mãi sau này, khi đã lớn, được nghe mọi người nói lại thì Minh Việt mới biết nguyên nhân cái chết của mẹ là do mắc bệnh lỵ.
Thứ bệnh ấy là tai họa của trời đất giáng lên đầu lũ dân nghèo đói và tăm tối. Ở thời tương lai, người ta chỉ cần nhét vào miệng người bệnh vài viên thuốc bé con là đám trực khuẩn sẽ bị quét hết ra khỏi cơ thể, nhưng dân Xóm Đáy thời bấy giờ chỉ biết chữa đau bụng bằng cách uống nước gạo rang. Cô Mến cứ nằm trên giường uống hết nồi nước gạo rang này đến nồi nước gạo rang khác. Uống vào bao nhiêu thì tháo ra đằng hậu môn bấy nhiêu. Đến nỗi cô không còn quần để mặc, phải dùng tất cả các loại khăn khố lót xuống dưới giường, chốc chốc lại thay ra mang đi giặt. Bà Quản là người chăm sóc cô Mến suốt mấy ngày đi kiết ròng rã đó. Bà giặt rồi phơi đám giẻ của cô Mến như người ta phơi tã lót cho trẻ con. Đi ngoài liên tục mấy ngày như thế, cơ thể cô Mến mất nước, tọp như một xác tôm, sức lực cạn kiệt nhanh chóng. Thấy cô Mến yếu quá, bà Quản mới vội bảo ông Mật đánh xe bò chở lên bệnh viện. Ở bệnh viện được một ngày thì người ta đưa cô Mến xuống nhà xác. Sức đề kháng của cô Mến đã thua những con vi khuẩn mà y học hiện đại rất coi thường. Minh Việt còn quá nhỏ để hiểu những gì đang diễn ra trong mẹ. Nó chỉ nhớ là mẹ nằm ly bì trên giường, thỉnh thoảng lại ngóc đầu tu ực một bát nước gạo rang. Rồi mẹ nhăn nhó, quằn quại, nước mắt trào ra hai bên khóe, mồ hôi lấm tấm bờ trán, tóc tai mẹ xơ xác, khuôn mặt mẹ nhàu nhĩ, phờ phạc. Đến khi ông Mật rỗ đưa mẹ lên bệnh viện Minh Việt còn vui mừng vì lại được lên xe bò đi chơi xa. Sau này thỉnh thoảng Minh Việt lại có những lúc bất chợt thấy trong lòng rỗng rễnh đến lạ lùng. Cảm giác bơ vơ, trống trải, lạc loài thường trở đi trở lại trong nó, kể cả khi đã lớn. Những ngày mới mất mẹ, Minh Việt thường hay ngồi bệt trước cửa nhà, đầu óc chìm đắm vào một cõi mông lung, mơ hồ nào đó, như hóa đá. Bà Quản đi làm về nhìn thấy thế, thương lắm nhưng chẳng biết làm thế nào để khỏa lấp đi khoảng trống sâu hoắm trong lòng nó. Đám trẻ trong xóm gọi nó là Việt thiu. Cái biệt danh ấy gắn liền với Minh Việt suốt cả cuộc đời sau này. Bà Quản nhiều lần bảo thằng Chột đưa Việt thiu đi chơi, lôi kéo nó vào những trò nghịch ngợm trẻ con để nó không còn nhớ mẹ nữa. Bà sợ nó trầm uất rồi thành điên dại, rồi có những hành động khác thường, lỡ có làm sao thì bà lại ân hận, lại thấy mình có lỗi dù giữa bà và nó chẳng có quan hệ máu mủ ruột rà gì.
Bà Quản nuôi Việt thiu đến năm lên tám tuổi thì một hôm bà bỏ dở buổi làm giữa chừng về tìm nó. Bà Quản làm nghề đội than, đội cát ở đằng bến đò Lãng Tiên. Hôm ấy chân tay, mặt mũi bà còn lấm lem bụi than. Bà bảo:
- Việt, con xách chiếc túi này rồi theo bà.
Việt thiu rất ngạc nhiên, nó hỏi:
- Đi đâu hả bà?
Bà Quản bảo:
- Bà không nuôi được con nữa rồi, bà trả con về cho bố con nuôi, con cứ đi theo bà, nhà ấy to rộng, con có phần ở đấy, con không được sợ, con phải giành giật phần sống của con ở trong ngôi nhà ấy, nghe chưa?
Việt thiu hoảng sợ:
- Con không đi đâu bà ơi, con muốn ở với bà, con xin bà...
Bà Quản hạ giọng ngọt nhạt:
- Nhưng con ơi, con có thân có phận của con, phận con không phải như thằng Chột, phận con không phải ăn khoai ăn sắn, không phải sống khốn sống khổ thế này. Con phải về phố Tứ Phủ. Phận con ở đấy. Con phải được ăn được học. Con phải cố mà kiếm lấy chỗ sống ở đó. Bà đã nói toạc với thằng bố con rồi. Hôm nay nó chấp nhận đón con. Đi, thôi đi theo bà. Rồi con lại về với bà, về chơi với cậu Chột. Nhưng con không thể ở đây được, con phải nghe bà, bà chỉ muốn tốt cho con thôi.
Việt thiu vừa mếu máo vừa bước đi theo bà Quản. Hết con đê vòng thì ra đến ngoài đường quốc lộ. Nó nhìn thấy một người đàn ông đứng bên chiếc xe đạp, dáng vẻ như đang chờ hai bà cháu. Nó nhận ngay ra cái biển số màu trắng gắn ở khung xe. Bố nó đấy. Người đàn ông nhìn nó suốt buổi đưa ma mẹ hai năm về trước. Bố nó bảo:
- Con lên xe đi, bố lai con về.
Bà Quản bế xốc nó đặt lên gác ba ga. Bố nó gò chân đạp luôn, chẳng nói một câu gì với bà Quản cả. Cũng chẳng nói năng gì với nó. Qua mấy dãy phố thì bố nó dừng xe lại. Nhà nó đây ư? Tường xây, mái ngói, một cửa chính, hai cửa sổ, vỉa hè rộng, có một cây bàng xòe tán phủ lên nửa mái nhà. Bố dắt xe vào. Nó lặng lẽ bước theo. Cái túi vải đựng đồ nó vẫn ôm khư khư trước ngực. Bố nó bảo:
- Con để đồ xuống chiếc bàn kia, rồi ngồi xuống ghế.
Nó làm theo như một cái máy. Bố đi vào nhà trong, lát sau mang ra cho nó một túi bánh bích qui vụn có nhiều mẩu cháy xám đen. Nó ăn ngon lành. Chưa bao giờ nó được cầm cả một túi bánh như thế. Và nó không phải chia cho ai cả. Nó vừa ăn vừa nhìn bố một cách lấm lét. Bố nó thì chốc chốc lại nhìn lên chiếc đồng hồ quả quýt để trên nóc tủ. Bố nó có vẻ sốt ruột. Nét mặt ông căng thẳng. Nó cứ ngồi ăn. Những mẩu bánh cháy hơi đăng đắng một chút nhưng nó vẫn tận hưởng thứ hương vị ấy một cách dè dặt và nhấn nhá. Bố nó lại nhìn đồng hồ. Kim ngắn đã chỉ chéo xuống góc dưới, bên phải. Một bóng người sà xuống trước cửa nhà nó. Người này hai tay dắt xe đạp, đầu đội nón, trước xe có cặp lồng, sau xe có túi vải và rau muống. Bố nó nói nhanh:
- Mẹ con đấy, con hãy ngoan ngoãn và lễ phép nhé!
Dứt lời, ông ra cửa đón vợ vào. Vợ ông nhìn xéo qua nó rồi dắt thẳng xe vào nhà trong. Bố nó cũng đi vào theo. Nó nín nặng chờ đợi. Hai người nói với nhau điều gì đó ở bên trong, rất lâu, mãi đến khi nó nghe thấy giọng của vợ bố nó cất lên, như ở ngay bên tai:
- Được rồi, để tôi ra xem nó thế nào. Nhục này thì cũng phải nuốt vào thôi chứ biết nhả ra làm sao, thiên hạ rồi người ta sẽ cười cho.
Nó nghe thấy giọng thì thầm của bố nó. Nhưng cái giọng thì thầm ấy lại bị cắt ngang:
- Anh để mặc tôi. Anh xê ra đi.
Rồi nó nghe thấy tiếng guốc. Nó bỗng nổi da gà. Nó sợ.
Nó cảm thấy như có ai thò tay vào bóp chặt lấy lồng ngực mình. Vợ bố nó đã ra tới trước mặt. Cảm nhận đầu tiên của nó là bà ta đẹp. Nhưng hơi khô lạnh. Bà ta nhìn thẳng vào nó rồi bảo:
- Nào, đứng dậy, ra đây!
Bố nó đâu? Nó không thấy bố nó đâu cả. Ông ở nhà trong làm gì? Tại sao ông đưa nó về đây rồi bỏ mặc nó rơi vào tình thế khốn khổ này? Nó len lén đứng dậy, bước tới trước mặt vợ bố. Vợ bố quét tia mắt như có lửa lên khắp người nó. Rồi bà bảo:
- Khoanh tay vào. Mồm đâu? Có biết chào không?
Nó sợ đến tê cứng cả người. Nó biết chào thế nào nhỉ? Nó bỗng nghĩ đến thằng Chột. Thằng Chột vẫn gọi các bà Tư, bà Năm nhà ông Mật là dì. Nó cũng sẽ chào như thế. Nó liền lấy hết can đảm cất lời nhưng mặt thì cúi gằm xuống:
- Con chào dì!
“Bốp”. Một cái tát như trời giáng vả vào mặt nó. Nó ngã soài ra đất. Mặt nó suýt vập vào bàn chân trái của người đang đứng trước nó. Mắt nó hoa lên nhưng nó vẫn nhận ra chiếc guốc có quai màu đen ở ngay trước trán. Nó lồm cồm bò dậy. Vợ bố nó vẫn đứng yên chờ đợi. Nó lại khoanh tay trước ngực dù rất muốn khóc oà lên.
- Tao là dì mày bao giờ? Tao về làm hai cho bố mày từ bao giờ? Bố mày hỏi cưới tao đàng hoàng, thề sống thề chết với tao là chưa có vợ có con, lại nhờ cả tổ chức đến làm công tác tư tưởng tao mới chịu lấy bố mày. Ông Mộc còn kia. Tiểu đội trưởng cũ của bố mày đấy. Bây giờ là bí thư của thị trấn đấy. Vậy mà mày dám gọi tao bằng dì. Thế ra mẹ mày là cả còn tao là hai hử? Vậy về ở với mẹ mày nhá. Ở đây tao chỉ nuôi con tao thôi chứ tao không nuôi con người khác. Mày coi tao là mẹ thì tao nuôi, còn coi tao là dì thì đi, đi ngay khỏi nhà này. Bố mày muốn gửi mày cho ai nuôi thì gửi, tao không nuôi cáo để có ngày nó quay về núi, nhá? Nghe chưa? Cất mồm lên?
Sau một mớ những âm thanh khủng khiếp như thế là một bàn tay vuốt xuống cằm nó, hất lên. Bàn tay của vợ bố. Bà muốn nó nhìn thẳng vào mặt bà chứ không được cúi gằm mãi xuống như thế. Nó lại nghĩ đến thằng Chột. Bà Quản không phải là mẹ thằng Chột, và thằng Chột đã gọi bà là mợ. Người đàn bà trước mặt nó đây không muốn nó gọi bằng dì, nhưng bà không phải là mẹ nó, nó cũng sẽ gọi bà như thằng Chột gọi bà Quản vậy. Ý nghĩ ấy làm cái miệng méo xệch của nó phát ra lời chào không thành tiếng:
- Con chào mợ!
“Hả?”. Vợ bố nó tròn miệng, lông mày dựng đứng lên, bà không ngờ nó lại chọn một cái từ lạ hoắc như thế để thay cho cái từ “dì” đáng ghét lúc nãy. Đúng lúc bà đang không biết phải xử trí thế nào thì bố nó từ trong nhà bước ra. Ông không dám bước lại gần hai người. Ông đứng ở ngưỡng cửa và nói bằng một giọng từ tốn:
- Thôi mình ạ. Đã lâu rồi nó không quen gọi tiếng “Mẹ”. Nó sẽ làm quen từ từ. Mình đừng làm nó sợ quá thế, nó còn bé mà, mình hãy thương lấy nó.
Vợ bố nó bỗng hắt ánh nhìn như có lửa về phía bố:
- Ông đi vào trong nhà để tôi hỏi chuyện nó. Ông có đi không? Ông không đi tôi để mặc hai bố con ông ở đây tôi đi khỏi cái nhà này...
Vợ bố nó nói chưa hết lời thì bố nó đã quay khỏi ngưỡng cửa, bước vào phía trong. Thế là người duy nhất có thể bênh vực cho nó đã không còn đứng ở đó nữa. Tinh thần nó hoàn toàn suy sụp. Nó không còn một chỗ bấu víu nào, dù trong tâm tưởng. Thế này thì sấm chớp sẽ lại tiếp tục đổ xuống đầu nó thôi!
- Nào, mở túi lôi hết các thứ ra!
Vợ bố nó ngồi xuống ghế rồi chỉ vào bọc quần áo của nó, nói như ra lệnh. Nó vội làm theo, các ngón tay vừa tháo nút dây buộc vừa run cầm cập. Chẳng có gì ra hồn cả. Hai cái áo đều đã có miếng vá. Một cái quần dài màu xanh lá chuối rách chỗ đầu gối. Hai cái quần đùi vải nâu. Và cuối cùng, một chiếc túi vải nhỏ có thắt dải rút. Vợ bố nó bảo:
- Mở nốt ra đi!
Nó hơi do dự một lúc rồi lần tay tháo miệng túi. Chính nó cũng không rõ là trong đó có những thứ gì. Một chiếc vòng bạc có gắn lục lạc. Một chiếc dây chuyền đeo một tấm vàng mỏng hình chữ nhật. Vợ bố nó cầm mọi thứ lên ngắm nghía. “Lúa Vàng, sao lại có hình lúa vàng này?”. Nó lắc đầu:
- Con không biết. Đã lâu lắm rồi con không đeo những thứ này. Bà Quản cất cho con chứ con tưởng mất rồi.
- Thế mẹ con trước làm gì? - Vợ bố nó bỗng buông một câu nhẹ nhàng đến mức nó muốn òa lên khóc vì mủi lòng. Nét mặt bà đã mềm lại rồi, không còn khô cứng như lúc trước nữa. Ánh mắt của bà cũng đã ấm áp hơn. Bà không nhìn nó như nhìn một con chuột chết nữa. Tự dưng nó lại mếu máo: “Mẹ con bán cháo”.
Vợ bố nó bảo:
- Con đừng khóc. Mợ đánh con vì mợ giận bố con thôi. Bây giờ mợ dẫn con đi tắm rửa. Mai mợ sẽ mua cho con quần áo mới. Rồi mợ nấu cơm. Chờ bà và các em con về cả nhà sẽ ăn cơm. Nào, đi xuống bể với mợ.
Nó đi theo người đàn bà đã chấp nhận cho nó gọi bằng “Mợ” vào nhà trong, qua một khoảng sân, xuống chỗ bể nước. Lạ thật. Cũng người đàn bà này vừa nãy còn muốn nghiền nát nó ra, bây giờ lại ân cần kỳ cọ, tắm rửa cho nó. Cũng bàn tay này, vừa cho nó một cái tát vẹo mặt bây giờ lại luồn lách trên cơ thể nó như vờn như múa, mềm mại và yêu thương. “Khiếp, người với ngợm gì mà hơi toàn mùi bùn đất. Thế ở dưới Xóm Đáy ai tắm rửa cho con?”. “Con tắm sông. Thỉnh thoảng bà Quản mới tắm cho con”. “Bố có bao giờ xuống thăm con không?”. “Không”. “Sao thế?”. “Con không biết. Hôm nay con mới biết bố”
Càng hỏi chuyện nó, vợ bố càng dịu dàng hơn. Nó không hiểu thứ dịu dàng đó đến với nó lâu hay mau? Nó hồ nghi và cẩn trọng. Lúc nào nó cũng sợ sẽ có một cái tát bay vèo vào mặt. Khi trời nhá nhem tối thì bà nội và hai đứa em nó về. Nhà nó còn một lối vào nữa, đó là cái ngõ ở bên hông. Bà và hai đứa em nó đẩy cái xe cải tiến vào lối ngõ. Từ lối ngõ chiếc xe cải tiến được đưa vào khoảng sân sau. Trên xe là rau khoai lang và le. Bà và hai em đi hái rau và vớt le về cho lợn. Công việc này chỉ mấy ngày sau trở nên quen thuộc đối với nó. Nhà nuôi hai con lợn, lại cả một đàn gà. Le là thứ rau trời cho, rất sẵn ở các vùng đầm hồ. Le có thể nấu chín thành cám lợn hoặc cho gà, lợn ăn sống. Các thứ rau dành cho người ăn đều là thứ nhà nước phân phối, không sẵn, nên nhà nào nuôi lợn cũng phải vớt le. Le ở gần hết thì phải đi vớt ở xa. Đầm nông hết thì mò tìm ở các đầm sâu. Năm tuổi như cái Ánh hay ba tuổi như thằng Đình đều tham gia đi vớt le cùng bà. Bà nội đã ngoài sáu mươi nhưng còn khỏe. Tối bà ngủ cùng cái Ánh và thằng Đình. Nhưng từ hôm nay bà ra ngủ võng. Giường để dành cho nó cùng với hai em. Nó không hề biết rằng nó đã trở thành thành viên của một gia đình danh giá vào bậc nhất nhì thị trấn. Bố nó chính là phó chủ tịch Ủy ban hành chính đầu tiên của thị trấn An Lạc kể từ ngày hòa bình lập lại. Nó cũng không hề biết rằng sự có mặt của nó ở trong ngôi nhà này buộc bố nó phải từ bỏ chức vụ phó chủ tịch vì đã mắc tội không trung thực với tổ chức. Nhưng nó biết một điều, cả nhà đều yêu thương nó và người mà nó gọi bằng mợ rất yêu bố nó. Nó về với bố được vài tuần thì nó nghe lỏm được chuyện của hai người. Chuyện như thế này:
“Bố bảo:
- Hôm nay họp thường vụ, họ yêu cầu tôi phải giải trình ba vấn đề. Một là, trong trận tập kích năm xưa, tôi bị thương rút ra sau, trong thời gian đó tôi nằm ở cơ sở nào? Hai là, mẹ thằng Minh Việt có phải là người của cha Phăng không? Ba là, tại sao tôi lại giấu tổ chức, không báo cáo ngay sau khi tiếp quản thị trấn?
Vợ bố bảo:
- Thế mình nói với họ thế nào?
Bố bảo:
- Có thế nào thì nói thế ấy. Nhưng họ bảo phải xác minh lại. Tạm thời tôi phải nghỉ công tác phó chủ tịch, sắp tới có thể xuống đội thủy lợi. Tỉnh đang chuẩn bị xây cầu Lãng Tiên. Tôi xuống phụ trách dưới đó. Anh Mộc bí thư rất tin, rất muốn bảo vệ tôi nhưng anh ấy bảo phải xuống dưới đó thôi. Khi nào tình hình dịu đi thì mới tính tiếp được.
Vợ bố hỏi:
- Cha Phăng là ai mà có vẻ ghê gớm thế?
Bố bảo:
- Theo các anh ở bên quân báo thì Cha Phăng là một linh mục người Tây Ban Nha thuộc dòng Đa Minh, từng rất ghét Pháp nhưng lại bắt đầu làm việc cho quân đội Pháp từ những năm năm mươi, có nhiều nợ máu với nhân dân.
Vợ bố hỏi:
- Sao ngày mới tiếp quản anh không nhận mẹ thằng Việt?
Bố bảo:
- Không thể tin nổi chuyện đó xảy ra làm sao dám nhận? Anh Mộc lại đang giới thiệu mình cho tôi. Những ngày ấy tôi chỉ nghĩ đến mình thôi. Tôi cứ nghĩ chắc đó là con của người khác, ai có thể ngờ được chỉ một đêm bên chân núi...
Vợ bố bảo:
- Thế ra anh cũng khốn nạn lắm đấy nhá!
Bố im lặng một lúc rồi bảo:
- Hoàn cảnh nó thế.
Vợ bố bảo:
- Hoàn cảnh gì? Không có người ta thì anh chết rồi.
Bố bảo:
- Đấy là chuyện khác”.
Sau buổi chuyện ấy được một tuần thì bố không đi làm theo hướng Tòa Sứ cũ nữa mà đạp về hướng bến đò Lãng Tiên. Minh Việt được cắp sách tới trường, nhưng ngày nào cũng hai ba lần đảo qua chỗ mợ làm xem có gì thì mang về cho bà nội. Cửa hàng ăn uống mậu dịch không nằm ở phố Tứ Phủ nữa mà chuyển về Ngã Năm. Cả thị trấn An Lạc mới có một cửa hàng ăn uống quốc doanh như thế. Hai tầng. Nhà ngang, dãy dọc. Có xưởng kem. Có xưởng bánh kẹo. Có khu lò mổ. To lắm, đàng hoàng lắm, lịch sự lắm, văn minh lắm. Bất kỳ đứa trẻ nào đã từng đi học đến đấy cũng lẩm nhẩm đọc dòng chữ Vui lòng khách đến vừa lòng khách đi kẻ to, choán cả bức tường tầng một. Đó là tổng hành dinh của ngành thương nghiệp thị trấn, là đơn vị lá cờ đầu trong nhiều năm liền. Bây giờ Minh Việt mới hiểu cái cặp lồng mợ vẫn mang theo ích lợi thế nào. Trong đó có đủ các thứ sơn hào hải vị. Tôm chiên, mực xào, cá rán, thịt kho tàu, trứng muối, lạp xường. Lại cả kem, chè đỗ đen, bánh bích qui, kẹo lạc. Rồi bánh ga tô, thịt hộp, nước hoa quả... Ở cửa hàng ăn uống mậu dịch của mợ có thứ gì là mợ có phần thứ đó. Khi thì mợ đáo xe qua nhà, trút vội những thứ trong cặp lồng ra, khi thì chờ Minh Việt qua đưa cặp lồng cho Minh Việt xách về sau khi đã dặn dò kỹ lưỡng phải làm những gì những gì để bữa ăn của cả nhà luôn có chất tươi. Đó là những năm tháng tuyệt vời nhất dưới chế độ mới. Có một nhà thơ đã gọi những năm tháng đó là đỉnh cao muôn trượng. Tất nhiên, đặc lợi chỉ dành cho những người nhà nước, người có biên chế. Sau này vì phải dồn sức cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở Miền Nam, cuộc sống không còn được sung túc như thế nữa. Nhưng dù thế nào thì môi trường sống mới của Minh Việt cũng ngàn vạn lần hơn thời kỳ ở với bà Quản. Những hình ảnh nghèo nàn, xơ xác, quê kệch, tù túng, hoang dã nơi Xóm Đáy tự bao giờ cứ vắng dần đi trong ký ức của Minh Việt. Thi thoảng Minh Việt vẫn gặp bà Quản ở đâu đó, trên đường đi học hoặc những lúc la cà theo chúng bạn đi chơi, lần nào cũng thấy bà vội vội vàng vàng, đầu tóc xộc xệch, người ngợm nhếch nhác. Có một lần bà hỏi:
- Con mẹ cháu nó còn hay đánh cháu không?
Minh Việt tự nhiên cảm thấy khó chịu. Cậu bảo:
- Mợ cháu không ác như bà đâu, có bà hay đánh cậu Chột thì có.
Chẳng hiểu sao lúc ấy Minh Việt lại trả lời như thế. Bà Quản có đánh thằng Chột thật nhưng đấy là những lúc bà không bảo được nó. Mà nó lại là một đứa trẻ nghịch ngợm. Nghe Minh Việt trả lời như vậy bà Quản cười:
- Cha tiên sư bố anh, cũng biết bảo vệ mẹ kế cơ đấy, gớm thật!
Bà cười nhưng mắt bà như có hơi nước mờ đục bao phủ. Rồi bà bỏ đi, tất tả, vội vã, bước chân như có kim châm. Minh Việt muốn chạy theo nói một câu gì đó, đại loại là cháu không có ý bảo bà ác độc đâu, cháu nói một cách không suy nghĩ đấy thôi. Nhưng cậu lại cứ đứng ỳ ra đấy, mấy ngày sau còn ân hận mãi về lời nói của mình.
Đám trẻ ở phố Tứ Phủ cũng bắt đầu gọi Minh Việt bằng cái biệt danh được đem từ Xóm Đáy lên: Việt thiu. Nếu tính từ đầu đến cuối phố thì số trẻ con cũng phải lên tới hai chục đứa. Lũ trẻ này rất thích chơi trò đánh trận giả. Có dạo cả bọn chọn nhà Lúa Vàng cũ làm nơi chia quân ra đánh nhau. Sau khi Cửa hàng ăn uống chuyển về Ngã Năm, nhà Lúa Vàng cũ được dùng làm nhà hộ sinh. Ba đứa em sau này của Minh Việt đều ra đời ở đây. Vì nó là nhà hộ sinh nên có nhiều bà bụng chửa đi đi lại lại nơi hành lang. Thế là bọn trẻ đâm ra tò mò. Chúng thì thầm với nhau rằng những người đàn bà chửa kia sẽ đi vào một gian phòng ở phía đầu hồi. Rồi ở đó người ta sẽ rạch bụng họ và các em bé được lấy ra từ đấy. Bọn trẻ được kích thích trí tò mò, không còn thiết chơi trò đánh trận giả nữa. Chúng kéo nhau đến chỗ cửa sổ của căn phòng bí ẩn, kiễng chân nhòm vào xem điều kỳ lạ xảy ra như thế nào. Minh Việt cũng nằm trong số ấy. Và cái mà cậu nhòm được chính là đứa em thứ ba chui ra từ bụng mợ. Tự nhiên Minh Việt thấy sợ. Hóa ra cái Ánh, thằng Đình cũng từ đó mà chui ra cả sao? Mợ cũng ăn các thứ như mọi người, tại sao bụng mợ lại to lên và có một “em bé” nằm trong đó còn bụng mọi người thì lại không? Minh Việt chỉ dám đem thắc mắc này hỏi một người duy nhất mà thôi. Ấy là thằng Sinh hạt mít. Thằng Sinh nhà ở bên kia đường, đối diện với nhà Minh Việt. Nó là đứa khôn ngoan nhất trong số những đứa trẻ ở phố Tứ Phủ. Nó có biệt danh là hạt mít vì nó còi cọc nhất bọn. Nó bảo:
- Bụng mợ mày to là vì mợ mày ngủ với bố mày.
Minh Việt hỏi:
- Sao bụng mẹ mày không to?
Thằng Sinh bảo:
- Đàn bà phải ngủ với đàn ông thì bụng mới to được, bố tao đi đánh Mỹ làm gì có ở nhà mà đòi bụng mẹ tao to.
Minh Việt cãi:
- Sao tao ngủ với cái Ánh mà bụng nó không to?
Thằng Sinh hỏi:
- Thế mày đã chơi trò vợ chồng với nó chưa?
Minh Việt bảo:
- Tao với nó là anh em, làm vợ chồng làm sao được.
Thằng Sinh cười gằn:
- Thế thì bao giờ mày lấy vợ mày sẽ biết.
Minh Việt hỏi:
- Ai bảo mày thế?
Thằng Sinh đáp:
- Ông Mật rỗ bảo.
Minh Việt tạm thời dừng những thắc mắc của mình ở đây, tạm hiểu rằng cứ có hai người là vợ chồng ngủ với nhau thì bụng vợ sẽ to và trong đó sẽ chứa em bé. Sau này Minh Việt chơi trò vợ chồng với cái Lý, ngủ với nó mấy buổi trưa mà bụng nó chẳng to gì cả. Nhưng đấy là chuyện sau này, và khi ấy thằng Sinh không còn nữa để mà giải đáp những thắc mắc cho Minh Việt.
Việc để bọn trẻ vào nhà hộ sinh là điều không nên, chúng nghịch ngợm, quấy phá, ảnh hưởng không tốt đến các sản phụ nên người ta không cho chúng vào chơi ở đó nữa. Lũ trẻ phố Tứ Phủ chuyển chỗ chơi đến một nơi xa hơn, đó là cầu Lãng Tiên. Sau mấy năm xây dựng, cây cầu treo đã hiện hình, vươn mình vắt qua dòng Sầu Diện nối liền thị trấn An Lạc với huyện lỵ Lãng Tiên. Bố Minh Việt cũng đã rời đi làm việc ở một huyện khác, sát biển, xa nhà hơn hai chục cây số. Minh Việt lơ mơ hiểu rằng vì có “bác Mộc bí thư” bảo vệ nên bố mới không bị kỷ luật nhưng phải đi “lấn biển” để lập công chuộc tội. Hàng ngày, cứ tối nhọ mặt người bố mới đi làm về. Hôm nào vào “chiến dịch” thì bố phải ngủ lại ở công trường với anh em, không được về. Khi cùng lũ bạn chạy nhảy, chơi đùa trên cây cầu Lãng Tiên, Minh Việt vô cùng tự hào về bố. Chính bố đã làm nên cây cầu này. Cả một con đường rải nhựa được treo lơ lửng trên mặt sông bởi mấy sợi dây cáp to như bắp chân, thật là vĩ đại và kỳ diệu! Qua cây cầu sẽ đặt chân tới đất Lãng Tiên. Cái tên ấy gợi nhắc trong lòng Minh Việt toàn những điều hào hùng. Những câu chuyện bố kể, có mặt cả bác Mộc bí thư, bao giờ cũng nhắc đến “chiến khu Lãng Tiên”. Từ chiến khu ấy những con người mình đồng da sắt, những anh hùng dân tộc, những đơn vị tự vệ thị trấn đã vượt sông vào giải phóng An Lạc. Chiến khu ấy sừng sững hiên ngang bẻ gẫy mọi cuộc tấn công của quân Pháp. Chiến khu ấy là nơi trú ngụ an toàn cho những đội viên diệt ác, đêm đêm bơi qua sông tìm vào thị trấn cắt cổ bọn phản dân hại nước. Chiến khu ấy đã tổ chức một trận tập kích kỳ khôi, làm rung chuyển cả mấy tỉnh thành hữu ngạn sông Hồng, lửa cháy sáng rực An Lạc suốt ba đêm liền... Bây giờ chiến khu ấy đang ở trước mắt Minh Việt và bọn trẻ phố Tứ Phủ. Tinh thần tự hào của con cái những thị vệ viên năm xưa thúc giục chúng tìm về chiến khu xem hình thù nó thế nào? Thằng Sinh hạt mít dẫn đầu cả bọn hùng dũng tiến qua cầu. Cây cầu rung rung dưới chân bọn trẻ, nhất là khi có một chiếc xe ô-tô chạy qua. Cả bọn xuống tới chân dốc cầu bên kia thì niềm hưng phấn không còn nữa. Xa hút tầm mắt của chúng chỉ thấy đồng ruộng và những lũy tre xanh trải dài dưới trưa hè nắng lửa mà thôi. Không có thành quách, hầm hào, không có những khẩu đại bác thò cổ ra từ đám lá ngụy trang, không có những đoàn người ngựa vũ trang tập luyện, không có những điệp viên bịt kín mặt đấu võ tay không. Không có gì hết! Chỉ lơ thơ vài ba nếp nhà mái tranh ẩn mình sau lũy tre. Có thể chiến khu ở một nơi rất xa, ở cuối con đường trải nhựa tiếp nối với chân dốc cầu này chăng? Như thế thì đôi chân bọn trẻ không thể đi bộ tới đó được. Chúng ngao ngán dõi mắt nhìn về xa xăm mà không thể hình dung nổi điều gì. Sinh hạt mít ra hiệu cho đám trẻ dừng lại. “Xuống ruộng bắt cá đi?”. Có một đứa nào đó đã hô lên như thế. Bỗng chốc chiến khu không còn là mối quan tâm đối với bọn trẻ nữa. Cả bọn chạy ào xuống chân đê. Nhưng đúng lúc ấy có một tiếng hét:
- Đánh bỏ mẹ bọn thị trấn đi, chúng mày ơi!
Minh Việt thấy từ dưới chân những thửa ruộng gần đấy lố nhố chui ra mấy thằng bé nhà quê đen đủi, to khỏe, chúng nhảy lên thành ruộng và hằm hè lao tới. Sinh hạt mít có một chiếc gậy ở trong tay. Nó hét lên:
- Chúng mày nhặt đá ném đi, bọn bên sông đấy!
Cả bọn vội nhặt đá ném về phía trước nhưng đám trẻ nhà quê kia chẳng sợ gì cả, cứ chạy ào tới. Minh Việt thấy bên hông đứa nào cũng đeo một cái giỏ, còn tay chúng nó mỗi thằng cầm một thanh sắt. Thằng Sinh bỗng hô lên:
- Bọn nó có thuổng sắt, cẩn thận đấy!
Ngay lập tức có đứa hét toáng lên:
- Chạy thôi!
Đám trẻ thị trấn vội rời khỏi chân đê, cắm cổ chạy lên dốc cầu. Nhưng đám trẻ bên sông chạy nhanh hơn. Thoáng cái chúng đã ở sát ngay sau lưng rồi. Minh Việt chạy đến giữa cầu, lén quay nhìn lại, thấy bọn đuổi theo có vẻ vẫn hăm hở lắm, như quyết bắt cho bằng được một đứa trong bọn của Minh Việt. Cái Lý là đứa chạy sau cùng, chắc nó dự cảm thấy nguy hiểm nên vừa chạy vừa khóc, miệng thét gọi “Anh Việt”, “Anh Sinh”. Nhưng anh Việt, anh Sinh còn đang cuồng cẳng chạy cho nhanh vì các anh cũng sợ chả kém gì nó. Giữa lúc ấy có tiếng hét vọng lên từ dưới bãi sông:
- Bọn bên sông kia đứng lại, chúng mày thích chết hả?
Ngay sau tiếng thét ấy là một dáng người đen đủi, tay cầm chiếc xẻng con, bám vào dây sắt nơi mố cầu thoăn thoắt leo lên. Dây sắt gắn vào mố cầu theo hình bậc thang nên chỉ nháy mắt cái người đen đen ấy đã leo lên đến thành cầu. Rồi cái người ấy chạy ngược lại phía sau Minh Việt, vung xẻng đứng chắn ngay ở giữa cầu. Đám trẻ bên sông như đã quen mặt cái người cầm xẻng, lập tức dừng lại rồi quay trở lui. Bọn trẻ thị trấn hoàn hồn, co cụm lại phía bên này cầu. Minh Việt nhìn kỹ lại cái người cầm xẻng. Rất quen. Đúng rồi! Không ghìm được, Minh Việt gào lên sung sướng:
- Cậu Chột!
Phải, cái người cầm xẻng ấy chính là cậu Chột nhà bà Quản. Cậu Chột không cao lên được bao nhiêu nhưng cơ thể nở nang hơn, chân tay đã ra bắp, đen bóng. Cậu Chột đang đội than ở dưới bến sông. Toàn thân cậu phủ một lớp bụi than, lem luốc và tức cười. Nhận ra Minh Việt, cậu Chột bảo:
- Ra mãi đây chơi cơ à? Sang bên sông làm gì, lại cầm gậy gộc thế kia, chúng nó tưởng sang gây sự nên đánh cho là phải. Thôi về đi!
Bọn trẻ phố Tứ Phủ ra về nhưng ấm ức lắm. Thằng Sinh hạt mít là đứa tức tối nhất. Bố nó là bộ đội đang đánh nhau ở chiến trường Miền Nam, nó luôn tự hào về điều đó và luôn được dạy rằng bộ đội đánh nhau không bao giờ biết thua và con của bộ đội lại càng không cho phép ai bắt nạt mình. Chẳng lẽ nó lại chịu để cho bọn bên sông đuổi re kèn thế này à? Bố nó mà biết chuyện thì nó không còn xứng đáng là con của bộ đội nữa. Nó phải tìm cách trả thù. Nó bàn với Minh Việt, với mấy thằng to đầu nhất phố, cả với cái Lý nữa. Từ hôm ấy bọn trẻ phố Tứ Phủ được tập hợp lại, được trang bị gậy gộc, hễ có dịp là kéo sang bên kia cầu tìm bọn bên sông để “rửa hận”. Nhưng mấy lần “kéo quân” sang đều không gặp “kẻ thù”. Chiều chiều, đám trẻ thị trấn cho người ra đứng gác ở đầu cầu, thấy đứa trẻ nào từ bên sông mò sang là chặn đánh. Nếu thấy bọn bên sông đông hơn thì cho người về gọi thêm “lực lượng”. Bọn bên sông biết là đám trẻ thị trấn đã chính thức “tuyên bố chiến tranh”, căm lắm, cũng chỉ chờ có dịp là kéo sang đánh úp. Hai bên cứ ở thế giằng co nhau như thế, cũng chạm chán vài lần, có sứt đầu mẻ trán nhưng không nghiêm trọng lắm. Cả hai đều đã lắm được thực lực của nhau. Thủ lĩnh của bọn bên sông là Thức cụt. Thằng ấy có biệt danh thế là vì trong một lần đi bắt cua chẳng may lia thuổng phải ngón chân cái nên bàn chân bên phải của nó chỉ còn bốn ngón. Còn thủ lĩnh của đám trẻ thị trấn là Sinh hạt mít. Sinh tuyên bố xanh rờn rằng: “Khi nào bố tao về tao sẽ xách súng sang bắn nát óc thằng Thức cụt”. Bố nó có súng lục giắt ở trước bụng. Nhưng biết đến bao giờ bố nó mới về? Nó chỉ biết bố qua lời kể của mẹ. Hồi bố nó đi, nó còn bé tí. Thỉnh thoảng nó vẫn chỉ vào một chú bộ đội nào đó ngang qua đường và bảo: “Chú ấy ở chỗ bố tao đấy!”. Minh Việt vẫn tin thế. Và đám trẻ phố Tứ Phủ cũng tin thế. Nhưng bây giờ bố nó chưa về nên hai bên tạm chọn nhịp cầu ở giữa sông làm “biên giới”. Bên nào cũng muốn vượt biên giới nhiều hơn để chứng tỏ mình mạnh. Hôm cái Lý đứng gác cầu, bọn bên sông lại mò sang. Cái Lý vội chạy về gọi Minh Việt. Minh Việt chạy đi tập hợp bọn trẻ phố Tứ Phủ. Đến nhà thằng Sinh thì nó đang nằm trên giường. Nó đang ốm. Nó bị sốt cao đã ba ngày hôm nay rồi. Nhưng khi thấy Minh Việt vào báo bọn bên sông mò sang, nó liền bật dậy, rút cây gậy ở dưới gầm giường, cùng cả bọn kéo nhau lên cầu Lãng Tiên. Hai bên chạm nhau và gậy gộc cứ thế phang loạn xạ. Lúc đầu tương đối cân sức. Nhưng rồi đám trẻ thị trấn vỡ trận, bị lùa chạy như vịt. Sinh mải đánh quá nên quay ra không còn đường chạy nữa, bị vây chặt, cuối cùng đành chịu để bọn bên sông bắt. Bọn bên sông lôi Sinh về mố cầu bên phía Lãng Tiên. Chúng trói Sinh vào một cây cột bê tông được dùng trong những đợt chặn thuỷ còn sót lại, nước ngập đến nửa người. Mấy lần Minh Việt kéo bọn trẻ thị trấn sang đánh giải cứu cho Sinh mà không được. Cả buổi chiều hôm đó Sinh bị trói dưới chân cầu, bên cây cột bê tông, giữa đám cói ngập nước. Bọn bên sông hả hê sung sướng, còn đám trẻ thị trấn thì không biết làm cách nào để cứu thủ lĩnh của mình? Mãi sau Minh Việt mới nhớ ra cậu Chột. Phải rồi, chỉ có cậu Chột mới là vị cứu tinh vào lúc này. Minh Việt chạy xuống bãi than nhưng than đã hết, không còn ai ở đó cả. Minh Việt lại chạy về Xóm Đáy. Cậu Chột đang ngủ, thấy Minh Việt đến cầu cứu, chẳng kịp mặc áo, cứ thế cởi trần chạy lên cầu. Thấy cậu Chột, bọn bên sông lủi hết. Cậu Chột lao xuống đám cói ngập nước cởi trói cho thằng Sinh. Khi lên tới mặt cầu, thằng Sinh bước đi hiên ngang giữa đám trẻ thị trấn, như một người anh hùng. Sinh bảo:
- Bọn nó trói tao đến đêm tao vẫn chịu được!
Sinh muốn chứng tỏ nó cũng dũng cảm như bố nó ở ngoài chiến trường. Đúng là trong con mắt của đám trẻ thị trấn, nó rất dũng cảm. Chỉ có con của các chú bộ đội đang chiến đấu ở Miền Nam mới dũng cảm như thế. Nhưng nó không nói cười được lâu. Về tới đầu phố Tứ Phủ bỗng mặt nó tái mét đi. Rồi nó đổ vật xuống hè đường. Có mấy người lớn đi ngang qua vội xốc nó lên, bế nó về nhà. Đêm hôm ấy nó sốt cao. Mẹ nó phải đưa nó lên bệnh viện. Sáng hôm sau nhà nó im lặng như tờ. Đám trẻ phố Tứ Phủ vẫn đi học như thường, không hề quan tâm đến chuyện ấy. Trưa, Minh Việt đi học về thấy nhiều người ra vào nhà thằng Sinh, cả mợ cũng có mặt ở đấy. Minh Việt vứt cặp sách chạy sang, gặp ngay tấm ảnh thằng Sinh đập vào mắt. Tiếng mẹ thằng Sinh vừa hời khóc vừa kể lể:
- Em đưa cháu ra đồng rồi. Cháu đi mà môi cứ mím chặt, không kêu rên một lời. Mặt cháu vẫn hồng hào như ngủ. Em gọi mà cháu chẳng nghe gì cả, cháu cứ thiêm thiếp rồi bỏ em mà đi...
Minh Việt không dám tiến sát tới chỗ chiếc tủ có đặt ảnh của thằng Sinh. Ảnh nó đấy nhưng nó đã bị mấy tầng đất phủ lên người rồi. Gai ốc nổi khắp người Minh Việt. Mợ khóc sụt sùi. Tất cả những người lớn có mặt ở đấy đều khóc. Không ai biết chuyện thằng Sinh bỏ nhà đi chơi đánh trận ở cầu Lãng Tiên cả. Cũng không ai biết thằng Sinh đã bị ngâm dưới nước sông Sầu Diện suốt nửa buổi chiều ngày hôm qua. Mẹ nó lúc tỉnh lúc ngất. Cứ khi nào tỉnh lại vừa khóc vừa kể lể về những giây phút cuối cùng trước khi thằng Sinh “bỏ đi”. Sau này đám trẻ thị trấn không chơi trò đánh trận ở cầu Lãng Tiên nữa. Chúng kéo nhau tới khu đầm cạn ở sau trại Pháo Thủ cũ chơi trò “hòa bình”. Minh Việt làm chú rể còn cái Lý là cô dâu. Hai đứa là vợ chồng của nhau, ngủ với nhau dưới gốc gạo già mọc cuối đầm nhưng bụng cái Lý chẳng to lên như bụng mợ. Minh Việt rất muốn hỏi thằng Sinh về chuyện đó nhưng nó đã không còn nữa. Minh Việt không dám hỏi ai, cứ ôm thắc mắc ấy trong lòng cho đến khi tự mình trả lời được.