← Quay lại trang sách

Chương 9 Hang đá ở Bethlehem

Để có thể hiểu hết những gì diễn ra với người Nazarene ở quán trọ, độc giả cần nhớ rằng các quán trọ phương Đông là rất khác so với phương Tây. Ở đây chúng được gọi là khan theo tiếng Ba Tư, và loại thô sơ nhất chỉ đơn giản là một khu đất có hàng rào mà không có nhà cửa, thường là không có cổng hay đường dẫn vào. Địa điểm được chọn dựa theo chiều bóng râm, hướng nguồn nước, hoặc dễ phòng thủ. Jacob đã từng ở một quán trọ như thế khi ông tìm kiếm một người vợ ở Padan-Aram. Những quán trọ kiểu như thế ngày nay có thể nhìn thấy ở những nơi trú chân trên sa mạc. Ngược lại, một số quán trọ khác, đặc biệt là trên con đường nối giữa các thành phố lớn như Jerusalem và Alexandria, lại là những căn nhà vương giả, trở thành hiện thân cho sự sùng đạo của những vị vua đã dựng nên chúng. Tuy thế, một quán trọ bình thường thì chẳng lấy gì làm to đẹp hơn một căn nhà hay nông trại mà các vị tộc trưởng phương Đông vẫn ngồi trong đó lãnh đạo bộ lạc của mình. Thực tế công dụng chính của chúng không phải là để những lữ khách dùng làm nơi trú chân; chúng vừa là chợ, xưởng thợ và pháo đài; nơi tụ tập và sinh sống của các lái buôn và thợ thủ công, đồng thời cũng là chỗ nương thân của những người đi đường khi trời tối. Giữa những bức tường của nó, việc buôn bán của thị trấn diễn ra suốt cả năm.

Nhưng hình thức quản lý những quán trọ kiểu đó hẳn mới là thứ khiến những người phương Tây ngạc nhiên nhất. Ở đó không có chủ quán trọ; không có lễ tân, đầu bếp, hay thậm chí cả nhà bếp; một người gác cổng là dấu hiệu duy nhất về quyền sở hữu hay điều hành nơi đó. Những người lạ mặt đến đây có thể thoải mái ở lại mà chẳng cần thông báo với ai. Một hậu quả của hình thức này là bất kì ai đến đó cũng đều phải mang thức ăn và đồ nấu nướng, hoặc mua từ những nhà buôn trong quán trọ. Cả giường chiếu, chăn gối, và thức ăn cho lừa ngựa cũng vậy. Nước, chỗ nghỉ ngơi, một mái nhà che trên đầu, cùng sự bảo vệ khỏi các mối nguy hiểm bên ngoài là tất cả những gì khách trọ nhận được mà chẳng phải tốn đồng nào. Sự yên bình của những đền thờ có khi còn bị phá vỡ bởi những trận cãi vã đánh lộn nhưng ở quán trọ thì không bao giờ. Ngôi nhà và tất cả những thứ gắn liền với nó được coi là thiêng liêng: thậm chí đến một cái giếng cũng chẳng thể thiêng liêng hơn được.

Quán trọ ở Bethlehem nơi Joseph và người vợ của mình dừng chân rất điển hình, không quá thô sơ mà cũng chẳng lấy gì làm sang trọng. Ngôi nhà hoàn toàn mang phong cách phương Đông, tức là nó giống như một cái hộp bốn cạnh bằng đá xù xì, có một tầng, mái bằng, chỉ có một cửa sổ và một lối vào chính – cái cửa nằm xoay về phía Đông hay mặt trước của ngôi nhà. Con đường chạy sát của đến nỗi bụi bám dày kín một nửa khung cửa. Một hàng rào bằng đá mài nhẵn, chạy từ góc Đông Bắc của ngôi nhà xuống theo sườn dốc rồi ngoặt sang phía Tây tới một quả núi đá vôi. Tất cả tạo thành thứ quan trọng nhất của một quán trọ tử tế – nơi để nhốt gia súc cho an toàn.

Ở một ngôi làng như Bethlehem, giống như bộ lạc chỉ có một tộc trưởng duy nhất cai quản, nơi đây cũng không thể có nhiều hơn một quán trọ. Mặc dù được sinh ra ở nơi này, người Nazarene đã sống nhiều năm ở nơi khác nên chẳng có vai vế gì để nhận được sự hiếu khách nơi đây. Hơn nữa, việc biên sổ mà ông phải đến đây để thực hiện có khi phải mất nhiều tuần hay nhiều tháng mới xong, đám quan chức La Mã ở các tỉnh vốn nổi tiếng là lề mề và rõ ràng để vợ chồng ông ở lại đó vô thời hạn chỉ vì quen biết là không thể được. Vậy nên trước khi ông kịp tới căn nhà lớn, khi chân hãy còn phải leo lên sườn đồi, tay phải kéo dây để con lừa lên dốc cho nhanh. Nỗi sợ hãi không tìm được chỗ trú chân trong quán trọ đã đè nặng lên ông vì ông nhận thấy trên con đường cũng lố nhố những người khác đang vội vã dắt gia súc, ngựa và lạc đà ra vào thung lũng để uống nước hoặc đi tới những cái hang gần đó. Và khi tới gần, nỗi lo của ông chẳng vơi đi chút nào khi nhận ra cả một đám đông trước cửa của căn nhà, còn khoảng sân bên cạnh dù rộng rãi là thế cũng đã chật kín chỗ.

“Chúng ta không thể đến chỗ cánh cửa đó được,” Joseph nói bằng giọng chậm rãi đặc trưng của mình. “Hãy cùng dừng lại đây và tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra.”

Người vợ không đáp, im lặng gạt tấm khăn trùm sang một bên. Vẻ mệt mỏi trên gương mặt nàng nhường chỗ ngay cho sự tò mò. Nàng đang quan sát một thứ chắc chắn là rất kì lạ với nàng, mặc dù đây lại là tình trạng rất phổ biến ở các quán trọ nơi các đoàn xe đông đảo vẫn thường qua lại. Nơi đây có những người đàn ông đi bộ, chạy hết chỗ này đến chỗ khác, nói chuyện với nhau bằng thứ tiếng the thé của các dân tộc Syria; người cưỡi ngựa hò hét với người cưỡi lạc đà; những người cố lùa những con bò và cừu đang hoảng sợ kêu rống lên; những người buôn bánh mì và rượu; và trong đám người ấy còn cả một đám trẻ con hình như đang đuổi theo một đàn chó. Tất cả mọi người và mọi vật dường như đều chuyển động cùng một lúc. Thế nhưng dường như như lữ khách xinh đẹp đã quá mệt mỏi nên không quan sát khung cảnh ấy được lâu; một lúc sau nàng thở dài, ngồi xuống yên, và như để tìm kiếm sự yên bình và nghỉ ngơi hoặc chờ đợi ai đó, nàng nhìn về phía Nam, ngắm những vách đá cao của núi Thiên đàng khi ấy đang ánh lên màu đỏ nhạt trong những tia nắng hoàng hôn.

Khi nàng đang nhìn như vậy, một người đàn ông rẽ đoàn người bước ra, dừng lại cạnh con lừa, nhăn mặt giận dữ nhìn quanh. Người Nazarene nói với ông.

“Vì tôi đoán mình cũng là đồng hương với ông – một người con của Judah – xin cho tôi hỏi tại sao ở đây lại náo nhiệt như vậy?”

Người lạ mặt giận dữ ngoảnh lại nhưng khi thấy vẻ mặt nghiêm nghị của Joseph, nghe giọng nói trầm chậm rãi của ông, người ấy giơ một tay lên nửa như để chào rồi đáp.

“Chúc ông được an lành, rabbi ạ! Tôi đúng là một người con của Judah và sẵn lòng trả lời ông. Tôi sống ở Beth-Dagon, nơi ông biết từng là đất của bộ lạc Dan đấy.”

“Trên đường từ Modin tới Joppa,” Joseph nói.

“À, vậy là ông đã từng đến Beth-Dagon,” người đàn ông nọ nói, gương mặt giãn ra đôi chút. “Những người con của Judah như chúng ta đúng là những người thích chu du! Tôi đã sống xa rặng núi – có tên là Ephrath theo như ông cha chúng ta là Jacob đã gọi – trong rất nhiều năm. Rồi bỗng dưng người ta thông báo tất cả những người Hebrew phải về nơi mình sinh ra để được thống kê vào sổ – đấy là lí do tôi phải về đây, rabbi ạ.”

Gương mặt của Joseph vẫn bình thản như mặt nạ, và ông nhận xét, “Tôi cũng đến đây vì việc đó – tôi và vợ tôi.”

Người lạ mặt nhìn Mary và im lặng. Nàng nhìn lên đỉnh núi Gedor trơ trọi. Ánh nắng chạm lên gương mặt đang ngẩng lên của nàng, đong đầy trong màu tím sâu thẳm của đôi mắt nàng và đôi môi hé mở run run phát ra một tiếng thở khác hẳn người phàm trần. Trong một chốc, tất cả vẻ trần tục trong vẻ đẹp của nàng dường như biến mất: nhìn nàng hệt như một thiên thần mà chúng ta vẫn tưởng tượng ngồi bên cổng Thiên đàng trong ánh sáng thần tiên. Người đàn ông đến từ Beth-Dagon đang được tận mắt nhìn thấy người mà sau đó nhiều thế kỉ đã được Sanzio(*) thần thánh vẽ lại trong một khoảnh khắc thiên tài, khiến tên tuổi người họa sĩ ấy trở nên bất tử.

“Ồ tôi đang nói về chuyện gì ấy nhỉ? À! Tôi nhớ rồi. Tôi đang định nói rằng khi nghe lệnh buộc mình phải trở về đây, tôi đã rất giận dữ. Rồi tôi bỗng nhớ lại những ngọn đồi xưa kia, thị trấn và thung lũng Cedron sâu hun hút; nhớ về những dây nho và vườn cây, những ruộng lúa đã có từ thời Boaz và Ruth, nhớ về những ngọn núi Gedor, Gibeah và Mar Elias quen thuộc – chúng từng là tận cùng thế giới đối với tôi khi còn nhỏ; tôi liền tha thứ cho những tên bạo chúa ấy và quay trở lại – tôi và Rachel, vợ tôi, cùng với Deborah và Michal – những bông hồng Sharon của chúng tôi.”

Người đàn ông ngừng lời một lần nữa và đột ngột nhìn sang Mary, người vẫn đang quan sát và lắng nghe ông. Rồi ông nói, “rabbi, vợ ông có muốn tới trú cũng vợ tôi không? Ông có thể nhìn thấy cô ấy đằng kia cùng với lũ trẻ dưới cây ô liu cong cạnh góc đường.” Rồi ông quay lại phía Joseph và nói chắc nịch. “Tôi đảm bảo với ông là quán trọ kín chỗ rồi. Đến cửa hỏi cũng vô ích thôi.”

Joseph lưỡng lự giống như đầu óc của mình vậy. Ông ngập ngừng mãi rồi mới nói, “Ông thật tử tế khi nói thế. Dù trong nhà còn chỗ hay không, chắc chắn chúng tôi sẽ tới gặp vợ con ông. Còn giờ hãy để tôi tự mình hỏi người gác cổng. Tôi sẽ quay lại ngay thôi.”

Và đặt dây cương vào tay người lạ mặt, ông bước vào giữa đám đông.

Người gác cửa ngồi trên một phiến gỗ tùng lớn bên ngoài. Phía sau ông là cây giáo dựng vào tường và một con chó ngồi xổm bên phiến gỗ.

“Cầu mong Jehovah ban phước lành cho ông,” Joseph nói khi cuối cùng cũng đến được trước mặt người gác cửa.

“Ở đời cho đi cái gì sẽ nhận lại cái ấy và mong rằng ông cùng gia đình mình sẽ nhận lại phước lành nhiều gấp bội,” người gác cửa nghiêm nghị đáp lời nhưng không hề nhúc nhích.

“Tôi là một người quê gốc ở Bethlehem,” Joseph nói bằng giọng bình tĩnh nhất có thể. “Trong quán trọ có còn chỗ cho...”

“Không có chỗ đâu.”

“Hẳn ông đã từng nghe đến tên tôi – Joseph từ Nazareth. Đây là ngôi nhà của tổ tiên tôi. Tôi là hậu duệ của David.”

Bao nhiêu hy vọng của người Nazarene dồn cả vào lý do này. Nếu không có tác dụng thì van nài thêm cũng vô ích bất kể có đút lót bao nhiêu tiền đi nữa. Sinh ra là người con của đất Judah là một nhẽ – một điều quan trọng về mặt dòng dõi, nhưng là hậu duệ của David thì lại khác hẳn, trong ngôn ngữ của người Hebrew thì chẳng còn vinh hạnh nào lớn hơn. Hơn một nghìn năm đã trôi qua kể từ khi chàng trai chăn cừu ấy trở thành người kế tục Saul và gây dựng nên cả một vương triều. Những cuộc chiến, những thảm họa, những vị vua và thời gian đã khiến hậu duệ của ông giờ lẫn lộn trong những người Do Thái bình thường, họ phải kiếm miếng bánh bằng những công việc hèn mọn chưa từng thấy. Thế nhưng họ vẫn mang trong mình lịch sử hào hùng mà ở đó phả hệ của họ vừa là chương đầu vừa là chương cuối, họ không thể là một kẻ vô danh khi đặt chân đến bất kì đâu trên đất Israel, và sự tôn trọng mà những người khác dành cho họ lên tới mức gần như sùng kính.

Nếu đó là những gì họ được hưởng ở Jerusalem hay bất kì nơi nào khác, hẳn là người thuộc dòng dõi thiêng liêng ấy có thể dựa vào danh tiếng của nó để tìm được chỗ trú chân tại một quán trọ ở Bethlehem. Khi Joseph nói “Đây là ngôi nhà của tổ tiên tôi,” tức là ông đã nói sự thật theo cách giản dị và đúng đắn nhất; vì đó chính là ngôi nhà mà Ruth đã cai quản với tư cách người vợ của Boaz, ngôi nhà mà Jesse và sau này là mười người con trai của ông, trong đó David là con út, đã ra đời, ngôi nhà mà Samuel đã tìm được một vị vua, ngôi nhà mà David đã trao cho con trai của Barzillai, người Gilead thân thiện, ngôi nhà mà Jeremiah bằng lời cầu nguyện của mình đã cứu được những người còn sót lại của dân tộc mình đang trốn chạy quân Babylon.

Lời khẩn cầu đó không phải là không có tác dụng. Người gác cửa trượt xuống khỏi phiến gỗ, đặt một bàn tay lên bộ râu và cung kính nói, “rabbi, tôi không biết cửa quán trọ này lần đầu mở ra để đón tiếp những vị khách là khi nào, nhưng hẳn cũng phải hơn một nghìn năm rồi và suốt từ đó đến giờ chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối một vị khách nào nếu vẫn còn chỗ. Nếu với một người lạ mà chúng tôi còn đối xử như vậy, phải có lý do chính đáng cho một người gác cửa từ chối hậu duệ của David. Vì thế, xin một lần nữa kính chào ông, và nếu ông muốn, hãy đi cùng tôi và tôi sẽ chỉ cho ông thấy rằng trong ngôi nhà này không còn chỗ trống nào cả. Trong phòng, trong các sảnh vòm, trong sân – thậm chí cả trên mái nhà cũng không còn. Xin được hỏi ông đến đây từ bao giờ?”

“Tôi vừa mới tới.”

Người gác của mỉm cười.

“Bất cứ ai sống cùng với ta đều là đồng bào của ta, và ta sẽ yêu quý người ấy như yêu quý bản thân. Đó chẳng phải là luật lệ của dân tộc ta hay sao, hỡi rabbi?”

Joseph im lặng.

“Nếu đó là giới luật, liệu tôi có thể nói với một người đã đến đây từ lâu rằng, Hãy đi đi và nhường chỗ cho một người khác?”

Joseph vẫn tỏ ra bình tĩnh.

“Và nếu tôi có nói như vậy đi nữa, ai sẽ là người được nhường chỗ? Hẳn ông đã nhìn thấy rất nhiều người đang chờ ngoài kia, có người đã đứng đó từ trưa đến giờ.”

“Những người đó là ai vậy?” Joseph hỏi rồi ngoái nhìn đám đông. “Và tại sao họ lại đến đây vào lúc này?”

“Chắc chắn là cùng lý do khiến ông tới đây, rabbi ạ – sắc lệnh của Hoàng đế,” người gác cửa nhìn người Nazarene bằng ánh mắt dò xét rồi tiếp tục, “đã đưa phần lớn những người đang trú chân trong quán trọ về đây. Và ngày hôm qua đoàn lái buôn đi từ Damascus tới Arabia và vùng hạ Ai Cập cũng đến. Những người đàn ông và đàn lạc đà mà ông nhìn thấy kia chính là của đoàn đó.”

Joseph vẫn chưa đầu hàng.

“Ngoài sân rộng lắm,” ông nói.

“Phải, nhưng ngoài đó chất đầy hàng rồi – những đống lụa, bao tải gia vị và đủ thứ hàng hóa.”

Rồi trong thoáng chốc, gương mặt của Joseph không còn bình thản như trước nữa, đôi mắt chậm chạp cụp xuống. Ông cố lấy giọng ấm áp mà nói tiếp, “Tôi không cần chỗ cho mình, nhưng tôi còn một người vợ đi cùng, và đêm nay thì lạnh lắm – trên những đỉnh núi này lạnh hơn ở Nazareth nhiều. Cô ấy không thể ở ngoài trời được. Trong thị trấn không còn chỗ nào hay sao?”

“Những người kia,” người gác cửa ra hiệu về phía đám đông, “đều đã đi tìm chỗ trong thị trấn và họ nói rằng không còn chỗ trú chân nào cả.”

Một lần nữa Joseph nhìn xuống đất mà nói, nửa với bản thân mình, “Cô ấy còn trẻ lắm! Nếu tôi để vợ mình ngủ ngoài những ngọn đồi kia, cô ấy sẽ chết rét mất.”

Rồi ông nói với người gác cửa một lần nữa.

“Có lẽ ông cũng biết cha mẹ của cô ấy là Joachim và Anna, những người từng sống ở Bethlehem này và giống như tôi, họ cũng thuộc dòng dõi David.”

“Phải, tôi biết những người đó. Đó là những người tốt bụng mà tôi quen khi còn nhỏ.”

Lần này đến lượt người gác cửa cúi đầu suy nghĩ. Rồi ông vụt ngẩng lên.

“Nếu tôi không thể dành chỗ cho ông,” người ấy nói, “tôi cũng không thể đuổi ông đi, rabbi ạ và vì thế tôi sẽ cố gắng hết sức. Nhóm của ông có bao nhiêu người?”

Joseph ngẫm nghĩ rồi trả lời, “Vợ tôi và một người bạn cùng với gia đình của ông ấy từ Beth-Dagon, một thị trấn nhỏ gần Joppa, cả thảy là sáu người.”

“Được rồi. Ông sẽ không phải ngủ ngoài vách núi đâu. Hãy nhanh đi gọi những người đó; vì khi mặt trời hạ xuống sau rặng núi, ông cũng biết rằng màn đêm sẽ buông xuống rất nhanh. Mặt trời giờ đã sắp lặn.”

“Tôi xin cảm tạ ông từ vị thế một lữ khách không nhà và hy vọng rằng sau đây tôi sẽ được cảm tạ ông từ vị thế một người khách trọ.”

Nói xong, người Nazarene vui mừng trở lại chỗ Mary và người đàn ông quê ở Beth-Dagon. Một lúc sau người ấy đã gọi cả gia đình tới, trong đó những người phụ nữ ngồi trên lưng lừa. Vợ ông là một người đã luống tuổi nhưng người ta cũng có thể mường tượng ra sắc vóc hồi trẻ của bà qua những đứa con gái. Khi họ tiến gần đến cửa, người chủ quán trọ biết ngay đây là những người vốn chẳng có nhiều của nả gì.

“Đây chính là vợ tôi mà tôi đã nói đến,” người Nazarene nói; “còn đây là những người bạn của chúng tôi.”

Mary vén tấm khăn lên.

“Đôi mắt xanh và mái tóc vàng,” người gác cửa lẩm bẩm một mình khi nhìn thấy nàng. “Quả thực giống hệt như vị vua trẻ tuổi(*) khi hát trước mặt Saul.”

Rồi ông cầm lấy dây cương trong tay Joseph và nói với Mary, “Xin chúc phúc cho cô, hỡi con gái của David!” Rồi với những người khác, ông nói, “Xin chúc phúc cho tất cả!” Và quay lại phía Joseph, “rabbi, hãy đi theo tôi.”

Cả đoàn được dẫn qua một lối đi rộng lát đá rồi bước vào sân của quán trọ. Với một người lạ thì hẳn cảnh tượng nơi đây rất kì khôi nhưng họ cũng nhận thấy những sảnh vòm tối đen bao quanh và khoảnh sân đều chật kín người. Theo một lối đi nằm giữa các kiện hàng, và sau đó qua một hành lang giống như ở cửa trước, họ bước ra một khu vực rào kín gắn liền với ngôi nhà, nơi đám lạc đà, lừa và ngựa đứng sát vào nhau mà ngủ xen giữa chúng là những người đến từ đủ mọi vùng đất và cả họ cũng đang ngủ hay chỉ im lặng quan sát. Họ đi xuống theo mặt dốc của cái sân ken đặc người, thật chậm vì những con lừa lề mề chở những người phụ nữ chẳng chịu cất bước. Cuối cùng, họ rẽ vào một đường mòn hướng về phía ngọn núi đá vôi nằm về phía Tây quán trọ.

“Vậy là đi tới hang,” Joseph chỉ nói có thế.

Người dẫn đường nán lại cho tới khi Mary đến bên cạnh mình.

“Cái hang mà chúng ta đang đi tới,” ông nói với nàng, “chắc hẳn xưa kia đã từng là nơi trú chân của tổ tiên của cô – vua David. Từ cánh đồng phía dưới chúng ta và từ chiếc giếng dưới thung lũng, ông ấy từng lùa đàn cừu của mình đến đây cho an toàn và sau này khi đã trở thành vua, ông ấy vẫn trở lại nơi xưa cũ này để nghỉ ngơi lấy sức, mang theo vô số loài động vật. Những máng cỏ trong đó vẫn còn nguyên vẹn từ thời ấy. Được ngủ trên ổ rơm trên mặt đất nơi Ngài từng trú ngụ còn tốt hơn là nằm trong sân hay bên vệ đường. À, đây là căn nhà trước cái hang!”

Những lời này không nên coi là để biện minh cho nơi trú chân này. Ông chẳng cần xin lỗi gì cả. Nơi này lúc đó là tốt nhất rồi. Các khách trọ cũng đều là những người giản dị và dễ dãi. Hơn nữa, với người Do Thái thời đó, trú chân trong hang là một điều tương đối phổ biến vì công việc hàng ngày và cũng bởi những gì được truyền dạy ở nhà thờ vào những dịp lễ Sabbath. Đã có vô số những chuyện li kì trong lịch sử Do Thái diễn ra trong những cái hang như thế! Những người này cũng là dân Do Thái quê ở Bethlehem và với họ việc ngủ trong hang lại càng quen thuộc vì vùng này nhan nhản những hang lớn hang nhỏ, một số từng là nơi trú ngụ của con người từ thời Emim và Horites. Họ cũng không hề thấy khó chịu với việc cái hang nơi họ đang được dẫn tới này xưa kia từng là chuồng ngựa. Họ là hậu duệ của một dân tộc chuyên về chăn nuôi, trong đó con người thường xuyên chia sẻ nơi ở với các loài gia súc. Theo phong tục bắt nguồn từ thời Abraham, một căn lều Bedawin sẽ được dùng là nơi trú ngu cho cả ngựa và các con cháu của Ngài. Vì thế, họ vui vẻ tuân theo sự hướng dẫn của ông chủ quán và chỉ liếc nhìn căn nhà với chút tò mò tự nhiên. Tất cả mọi thứ gắn liền với lịch sử David với họ đều rất thú vị.

Ngôi nhà thấp và hẹp, chỉ nhô ra chút ít từ vách đá gắn liền với mặt sau nhà, hoàn toàn không có cửa sổ. Một cánh cửa ra vào treo trên những cái bản lề khổng lồ được lắp giữa mặt trước nhà trống trơn, bám đầy đất sét màu vàng. Trong khi cái chốt bằng gỗ của cái khóa đang được kéo ra, những người phụ nữ được đỡ xuống khỏi yên. Ông chủ quán mở cửa rồi gọi:

“Mời vào!”

Những người khách trọ bước vào và nhìn xung quanh. Họ ngay lập tức nhận ra rằng căn nhà chỉ đóng vai trò như một chiếc mặt nạ che trước cửa một cái hang tự nhiên, có lẽ dài chừng bốn mươi feet, cao khoảng chín hay mười feet, rộng chừng mười hai hay mười lăm feet. Ánh sáng lọt vào qua cửa trước, chiếu lên mặt đất gồ ghề và hàng đống ngũ cốc, cỏ khô, đồ sứ và đồ gia dụng nằm la liệt giữa hang. Dọc vách hang là những máng cỏ đặt thấp để cừu cũng ăn được, làm bằng đá bọc trong xi măng. Không hề có bất cứ loại vách ngăn nào. Bụi và vỏ trấu nhuộm vàng cả mặt đất, lấp đầy mọi hốc và kẽ nứt, làm những mạng nhện cũng dày lên – chúng buông xuống từ trần hang giống như những mảnh vải bẩn, ngoài những cái đó ra thì nơi này hoàn toàn sạch sẽ và nhìn qua cũng thoải mái chẳng kém gì những cái sảnh vòm cong ở trong quán trọ. Thực tế, những hang động này chính là hình mẫu đầu tiên của những sảnh vòm đó.

“Mời vào!” người dẫn đường nói. “Những đồ đạc trên mặt đất là dành cho những lữ khách giống như các vị đây. Hãy cứ thoải mái lấy những gì mình cần.”

Rồi ông nói với Mary.

“Cô nghỉ ngơi ở đây không?”

“Nơi này là một chốn thiêng liêng,” nàng đáp.

“Vậy thì xin cáo từ. Chúc tất cả được bình an!”

Khi ông ta đã rời đi, mọi người bận bịu dọn dẹp để qua đêm trong hang.