Chương 13 Cuộc hội kiến với Herod
Tối hôm đó, trước khi mặt trời lặn, vài người phụ nữ đang giặt quần áo trên những bậc thang trên cùng dẫn xuống hồ Siloam. Họ quỳ trước một cái chậu đất nung lớn. Một cô bé ở chân cầu thang mang nước lên cho họ và cất tiếng hát trong lúc múc đầy bình. Bài hát vui vẻ chắc chắn là khiến cho công việc của họ trở nên bớt nặng nhọc hơn. Thỉnh thoảng họ ngồi xổm trên hai gót chân và nhìn về phía sườn núi Ophel, nhìn đỉnh ngọn núi mà giờ được gọi là núi Offence đang hiện lên nhàn nhạt trong ánh mặt trời tắt dần.
.
Trong khi họ vẫn làm việc luôn tay, thoăn thoắt vò và vắt quần áo trong chậu, hai người phụ nữ khác đi đến, mỗi người mang một cái bình không trên vai.
“Chào các cô,” một người mới tới nói.
Những người kia dừng tay, ngồi thẳng dậy, vẩy tay cho khô, rồi đáp lại lời chào ấy.
“Trời gần tối rồi – đến lúc nghỉ tay thôi.”
“Công việc thì có bao giờ mà hết được,” người kia đáp lại.
“Nhưng đã tới lúc nghỉ ngơi, và...”
“Và nghe ngóng những chuyện sốt dẻo,” một người khác xen vào.
“Cô nghe được chuyện gì thế?”
“Cô không biết gì hay sao?”
“Không.”
“Người ta đồn rằng Đấng Christ đã giáng lâm,” người buôn chuyện đáp, say sưa kể lại câu chuyện.
Thật kì lạ khi thấy gương mặt ai nấy đều lộ vẻ quan tâm rõ rệt, những cái bình được hạ xuống và trong thoáng chốc đã được dùng làm ghế ngồi cho chủ nhân của chúng.
“Đấng Christ!” Những người ngồi nghe thốt lên.
“Họ nói như thế đấy.”
“Ai cơ?”
“Tất cả mọi người; ai cũng nói vậy cả.”
“Có ai tin không?”
“Chiều nay có ba người đàn ông đi ngang qua thung lũng Cedron theo con đường từ Shechem,” người đang kể đáp, mô tả lại rất chi tiết để dập tắt mọi nghi ngờ. “Mỗi người cưỡi một con lạc đà trắng xóa, to hơn bất kì con lạc đà nào người ta từng trông thấy ở đất Jerusalem này.”
Mắt và miệng của đám khán giả mở to.
“Để chứng tỏ sự giàu có của ba người ấy,” người kể chuyện tiếp tục, “họ ngồi dưới những cái mái che bằng lụa; chốt trên yên của họ làm bằng vàng, và viền dây cương cũng vậy, những cái chuông được làm bằng bạc, phát ra tiếng nhạc du dương. Không ai biết họ là ai, nhìn họ cứ như thể là đến từ những nơi xa xôi của thế giới. Chỉ một người cất tiếng nói và với tất cả mọi người trên đường, kể cả phụ nữ và trẻ con, ông ấy đều hỏi một câu. “Người được sinh ra là vua của người Do Thái đang ở đâu?” Không ai trả lời được – không ai hiểu ý họ muốn nói gì nữa; vậy là họ đi tiếp, chỉ nói thêm rằng: “Chúng tôi đã nhìn thấy vì sao của Người ở phương Đông, và đến đây để tỏ lòng tôn kính người.” Họ hỏi cả tay lính canh La Mã ở cổng và hắn cũng chẳng hiểu mô tê gì, đành bảo họ tới gặp Herod mà hỏi.”
“Giờ họ ở đâu?”
“Ở quán trọ. Hàng trăm người đã đổ tới đó để quan sát họ, và thêm hàng trăm người nữa cũng đang đến đó đấy.”
“Họ là ai?”
“Không ai biết. Người ta đồn rằng đó là những người Ba Tư – những nhà thông thái có thể trò chuyện với những vì sao – hoặc là những nhà tiên tri giống như Elijah và Jeremiah.”
“Họ nói vua của người Do Thái nghĩa là sao nhỉ?”
“Nghĩa là Đấng Christ vừa mới giáng lâm.”
Một người phụ nữ bật cười và trở lại làm việc, miệng nói, “Chà, khi nào nhìn thấy ông ta thì tôi sẽ tin.”
Một người thứ ba nói nhỏ, “Sự giáng lâm của Người đã được tiên đoán từ lâu. Giá mà được nhìn thấy Người chữa khỏi một người bị hủi là tôi tin ngay.”
Những người phụ nữ ngồi tán chuyện cho tới khi bóng tối cùng với sự giúp sức của khí lạnh lùa họ về nhà.
Cũng buổi tối hôm đó, khi ca canh gác đầu tiên bắt đầu, chừng năm mươi người tụ họp ở cung điện trên núi Zion – những người không bao giờ gặp mặt nhau nếu không phải theo lệnh của Herod, và điều ấy chỉ diễn ra khi đức vua muốn tìm hiểu thêm về những điều bí ẩn sâu xa của luật pháp hay lịch sử Do Thái. Nói ngắn gọn, đó là một cuộc gặp mặt của các học giả, của các tu viện trưởng, và của những nhà thông thái lừng danh nhất trong thành phố – những người định hình tư tưởng, rao giảng những đức tin khác nhau, những người danh giá nhất của giới tăng lữ; những nhà hùng biện Pharisee, những nhà triết học luôn bình thản và ăn nói điềm đạm của phái Essene.
Hội trường lớn nơi buổi họp mặt này diễn ra mang phong cách kiến trúc La Mã nằm trong sân của cung điện. Mặt sàn được lát bằng những viên đá cẩm thạch, những bức tường không có cửa sổ được ốp bởi những tấm màu vàng, một chiếc pan hình chữ U nằm chính giữa phòng, bên trên bày những chiếc gối nhiều màu sắc, và phần mở của nó hướng về phía cửa; trước phần cong của chiếc ghế, hay là trước phần cong của chữ U, có đặt một cái bàn ba chân được khảm vàng và bạc thật lớn. Một ngọn đèn chùm có bảy nhánh, mỗi nhánh lại treo một cái đèn sáng từ trên trần buông xuống. Cái pan và ngọn đèn đều mang phong cách Do Thái thuần túy.
Tất cả mọi người ngồi lên chiếc pan theo kiểu của người phương Đông, trong những bộ y phục gần như giống hệt nhau, chỉ khác về màu sắc. Phần lớn là những bậc cao niên với bộ râu dài che kín gương mặt; trên đó ngoài cái mũi lớn còn là đôi mắt to đen, với lông mày rất rậm, phong thái của họ rất nghiêm trang, đĩnh đạc, thậm chí có phần gia trưởng nữa. Tóm lại, đây chính là một buổi họp hội đồng kiểu Do Thái.
Người ngồi trước chiếc bàn ba chân, nơi có thể được gọi là đầu chiếc pan – những người còn lại ngồi về phía phải và trái phía trước ông – chính là chủ tọa của buổi họp, và được tất cả mọi người chú ý tới. Hồi trẻ ông từng là một người cao lớn, nhưng giờ cái lưng đã còng hẳn xuống, chiếc áo dài trắng buông từ vai xuống thành những nếp khiến người ta chỉ mường tượng ra bộ xương bên dưới mà thôi. Đôi tay ông một nửa bị che sau tay áo lụa kẻ trắng đỏ, đang đặt trên hai đầu gối. Khi ông nói, đôi khi ngón tay thứ nhất của bàn tay phải lại duỗi ra, dường như ông không thể tạo ra điệu bộ nào khác. Nhưng mái đầu ông thì lại vô cùng tuyệt mỹ. Một vài sợi tóc còn trắng hơn là sợi bạc mọc lưa thưa ở dưới gáy; còn trên mái đầu tròn, làn da sáng bóng trong ánh sáng, hai thái dương sâu hoắm, từ đó cái trán nhô ra như một gờ đá nhăn nheo, đôi mắt già nua mờ đục cái mũi nhọn và tất cả phần dưới khuôn mặt bị che khuất bởi bộ râu dài đáng kính như của Aaron. Đó chính là Hillel xứ Babylon! Dòng dõi của những nhà tiên tri từ lâu đã tuyệt tự ở Israel giờ lại được tiếp nối bởi một dòng họ học giả mà ông là người đứng đầu – một nhà tiên tri không phụ thuộc vào ảnh hưởng của đấng bề trên! Ở tuổi một trăm linh sáu, ông vẫn là chủ tọa của hội đồng.
Trên mặt bàn trước mặt ông là một cuộn giấy hay cuộn da ghi những chữ Hebrew, phía sau ông là một người hầu ăn vận đẹp đẽ.
Họ đã thảo luận với nhau từ lâu, và lúc này đã đi đến kết luận, mỗi người đều thể hiện vẻ an tâm. Hillel đáng kính gọi người hầu ấy từ chỗ ngồi của mình:
“Hist!”
Cậu bé cung kính tiến tới.
“Hãy đến báo cho đức vua rằng chúng ta đã sẵn sàng giải đáp câu hỏi của Người.”
Cậu bé vội vã chạy đi.
Một lúc sau, hai sĩ quan đi vào và đứng hai bên cánh cửa, theo sau họ là một người rất đặc biệt – một người đàn ông đã nhiều tuổi bận áo dài tím viền đỏ, lưng đeo đai bằng vàng được đan khéo đến nỗi nó mềm như bằng da, những sợi dây buộc giày của ông lấp lánh đá quý, cái mũ tarbooshee màu đỏ làm bằng thứ dạ mềm nhất đính viền vàng trùm kín mái đầu và rủ xuống vai, để lộ cổ. Thay vì đeo ấn, một con dao lủng lẳng ở thắt lưng ông. Ông đi những bước chậm rãi, dựa mình vào cây gậy. Cho tới khi đến trước chỗ mở của cái pan, ông không dừng lại hay ngẩng lên khỏi mặt đất. Khi lần đầu nhận ra sự có mặt của những người khác, ông như bị kích thích ngẩng lên nhìn quanh, như thể giật mình tìm kiếm một kẻ thù nào – ánh mắt đen tối, đa nghi, và đe dọa. Đó chính là Herod Đại đế – cơ thể bị bệnh tật hành hạ, lương tâm bị những tội ác ám ảnh, bộ óc đầy xảo trá, một linh hồn xứng đáng làm bạn với các Hoàng đế La Mã. Giờ ông đã sáu mươi bảy tuổi nhưng vẫn giữ chặt lấy ngai vàng bằng sự hẹp hòi ghê gớm, quyền lực tàn bạo và sự độc ác khôn cùng.
Những người trong hội đồng cùng nhau cúi chào – những người già cả thì cúi mình chào theo lối salaam, những người lịch thiệp hơn thì đứng dậy và sau đó quỳ xuống, tay đặt trên bộ râu hay trên ngực.
Sau khi đã nhìn tất cả mọi người, Herod tiến tới chỗ cái bàn đối diện với Hillel đáng kính, người đáp lại ánh mắt lạnh lùng của nhà vua bằng một cái cúi đầu, bàn tay hơi nhấc lên.
“Trả lời đi!” Nhà vua nói bằng lời lẽ ngắn gọn đầy quyền uy, hướng về phía Hillel, dùng cả hai tay nện cây gậy chống xuống sàn. “Trả lời đi!”
Đôi mắt của vị học giả hơi sáng lên, và ông ngẩng đầu nhìn thẳng vào mắt người đang xét hỏi, sau đó trả lời trong khi những người kia chăm chú nhìn ông.
“Xin chúc Bệ hạ được hưởng phúc lành từ Thượng đế, Abraham, Isaac, và Jacob!”
Dáng điệu của ông là của một người đang cầu khẩn; ông nói tiếp theo cách khác hẳn:
“Bệ hạ đã hỏi chúng tôi Đấng Christ được sinh ra ở đâu.”
Nhà vua cúi đầu, mặc dù đôi mắt độc ác vẫn nhìn thẳng vào gương mặt của nhà hiền triết.
“Đó chính là câu hỏi của ta.”
“Vậy thì thưa Bệ hạ, tôi xin thay mặt bản thân và các đồng đạo ở đây trả lời rằng đó là Bethlehem ở Judea.”
Hillel liếc nhìn cuộn giấy trên bàn, dùng ngón tay run run để chỉ rồi nói tiếp, “ở Bethlehem xứ Judea, theo lời tiên tri đã được ghi lại rằng, ‘Bethlehem xứ Judea chẳng hề thua kém bất kỳ vùng đất nào khác của vương quốc Judah vì từ đó một người sẽ được sinh ra để làm chủ cả dân tộc Israel.”
Gương mặt Herod lộ rõ vẻ lo lắng và đôi mắt ông nhìn vào cuộn giấy trong lúc ngẫm nghĩ. Những người còn lại im lặng gần như không dám thở. Cuối cùng, nhà vua xoay người rời khỏi phòng.
“Hỡi các đồng đạo,” Hillel nói, “chúng ta có thể về được rồi.”
Cả hội đồng đứng dậy và ra đi theo từng nhóm.
“Simeon,” Hillel lại nói.
Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi nhưng hãy còn tráng kiện bước tới.
“Hãy cầm lấy cuộn giấy thiêng này, con trai và cuộn nó thật cẩn thận.”
Lệnh của ông được thực hiện ngay.
“Giờ thì hãy cho ta vịn vào cánh tay để về nhà.”
Người đàn ông khỏe mạnh cúi xuống; trong khi người cha tay run run vịn vào, từ từ đi ra cửa.
Vậy là vị chủ tọa lừng danh rời đi cùng Simeon, người con trai sau này sẽ kế tục sự thông thái, kiến thức, và vị trí trong hội đồng của ngài.
Tối hôm đó, ba nhà thông thái nằm thao thức trong quán trọ. Những viên đá dùng gối đầu giúp họ có thể nhìn ra khỏi mái vòm lên bầu trời cao; và khi nhìn những vì sao lấp lánh, họ nghĩ tới sự hiện thân tiếp theo. Nó sẽ xuất hiện thế nào? Nó sẽ là gì? Cuối cùng họ đã đến Jerusalem và đã hỏi những người ở cổng thành để tìm gặp Người. Họ đã biết đến sự ra đời của Người và giờ chỉ còn phải tìm đến chỗ đó mà thôi, họ đã tin tưởng hoàn toàn vào linh hồn dẫn lối. Cả ba lắng nghe tiếng gọi của Chúa, hay chờ đợi một dấu hiệu từ Thiên đàng, bồn chồn đến không ngủ nổi.
Đúng lúc đó, một người bước vào dưới mái vòm khiến cả căn phòng tối lại.
“Dậy đi!” người ấy nói; “Tôi có một tin gấp cần báo với các ngài.”
Tất cả ngồi dậy.
“Từ ai?” Người Ai Cập hỏi.
“Vua Herod.”
Ai nấy đều căng mình lên.
“Ông chẳng phải là người chủ quán trọ này sao?” Balthasar hỏi tiếp.
“Đúng là tôi đây.”
“Đức vua muốn gì ở chúng tôi?”
“Người truyền tin của đức vua đang chờ bên ngoài, hãy để người ấy trả lời.”
“Vậy xin nói với ông ấy thứ lỗi cho sự có mặt đường đột của chúng tôi.”
“Ngài nói đúng, người anh em của tôi!” Người Hy Lạp nói khi ông chủ quán trọ đã đi ra. “Câu hỏi mà chúng ta đã đưa ra với những người trên đường và với người lính ở cổng đã khiến mọi người chú ý. Tôi không thể kiên nhẫn nữa, hãy cùng dậy thôi.”
Họ ngồi dậy, đi xăng đan, mặc y phục và bước ra ngoài.
“Tôi xin kính chào các ngài, cầu phước cho các ngài, và xin các ngài thứ lỗi; nhưng chủ nhân của tôi là đức vua đã cử tôi tới đây mời các ngài đến cung điện, nơi Bệ hạ sẽ đích thân gặp các ngài.”
Người đưa tin chỉ nói có thế.
Ba người nhìn nhau dưới ngọn đèn treo ở lối đi, nhờ đó biết rằng linh hồn dẫn lối một lần nữa phù trợ cho họ. Người Ai Cập tiến tới chỗ người chủ quán trọ và nói nhỏ để những người khác không nghe thấy, “Ông đã biết đồ đạc của chúng tôi để ở đâu và những con lạc đà của chúng tôi đang nghỉ ngơi ở chỗ nào. Vậy thì khi chúng tôi đi vắng, xin hãy chuẩn bị sẵn sàng để chúng tôi có thể lên đường ngay phòng khi cần thiết.”
“Xin ngài hãy yên lòng giao việc đó cho tôi,” người chủ quán trọ đáp.
“Mong muốn của nhà vua cũng là mong muốn của chúng tôi,” Balthasar nói với người đưa tin. “Chúng tôi sẽ đi theo anh.”
Những con phố của Thành phố Thiêng liêng hồi đó vẫn chật hẹp như bây giờ, nhưng không gồ ghề bằng vì vị kiến trúc sư vĩ đại đã xây nên thành phố này không chỉ hài lòng với sự đẹp đẽ mà còn buộc người dân phải giữ sạch sẽ và tiện nghi. Đi theo người dẫn đường, ba nhà thông thái không nói một lời. Dưới ánh sao mờ mờ càng bị che phủ bởi những bức tường ở cả hai bên, đôi khi gần như khuất hẳn dưới những cây cầu nối các mái nhà, họ bắt đầu leo lên một quả đồi. Cuối cùng họ tới trước một cái cổng nằm trên đường. Trong ánh lửa phát ra từ hai cái lò lớn, họ nhìn thấy cả tòa nhà và những người lính canh đứng nghiêm trang bên vũ khí của mình. Họ đi vào đó mà không bị ai ngăn cản. Sau đó, qua những hành lang và những gian sảnh lớn có mái vòm, qua những khoảnh sân và những hàng cột không phải lúc nào cũng được thắp sáng, họ leo lên những cầu thang dài, đi ngang qua vô số những căn phòng và được dẫn vào một tòa tháp cao. Bất chợt người dẫn đường dừng lại, chỉ vào một cái cửa mở và nói với họ.
“Mời các ngài vào đây. Bệ hạ đang chờ sẵn.”
Không khí trong phòng sực mùi gỗ đàn hương và tất cả những vật dụng bên trong đều vô cùng vương giả. Trên sàn, ở chính giữa phòng là một tấm thảm bằng cỏ đan, bên trên đặt một cái ngại. Những người mới đến chỉ có đủ thời gian để nhìn thoáng qua nơi này – những cái ghế dài, ghế để chân được chạm trổ cầu kì, những chiếc quạt, bình gốm và nhạc cụ, những cây nến vàng lấp lánh trong ánh sáng của chính mình, những bức tường vẽ những cảnh khoái lạc theo kiểu Hy Lạp mà một người Pharisee chỉ cần thoáng thấy là đã phải hoảng sợ che mắt. Nhưng vua Herod, ngồi trên ngai để đón họ, ăn vận vẫn giống như khi gặp các học giả, mới là người chiếm trọn tâm trí của cả ba.
Họ tiến tới bên rìa tấm thảm và quỳ úp mặt xuống. Nhà vua rung chuông. Một người hầu bước vào mang theo ba chiếc ghế đặt trước ngai.
“Mời các ngài ngồi,” nhà vua lịch thiệp nói.
“Từ cổng thành phía Bắc,” nhà vua nói tiếp khi cả ba đã yên vị, “ta được thông báo lúc chiều nay rằng có ba người lạ mặt vừa tới, cưỡi trên những con lạc đà rất lạ mắt và có vẻ như đến từ nơi xa. Có phải đó chính là các ngài không?”
Người Ai Cập nhìn sang người Hy Lạp và người Hindu, rồi trả lời sau khi trịnh trọng cúi chào. “Nếu không mang bộ dạng như vậy, có lẽ Herod vĩ đại, người mà tiếng tăm đã vang lừng khắp thế gian, sẽ chẳng triệu chúng tôi tới đây. Chúng tôi tin chắc mình chính là ba người được họ nói đến.”
Herod phẩy tay sau khi nghe những lời đó.
“Các ngài là ai? Các ngài đến từ đâu?” Nhà vua hỏi, sau đó nói thêm, “Mỗi người hãy tự trả lời.”
Họ lần lượt kể lại cho nhà vua nghe, nhắc đến những thành phố và vùng đất nơi mình sinh ra và những con đường mà họ đã rong ruổi để đến được Jerusalem. Có phần thất vọng, Herod càng hỏi vặn.
“Các ngài đã hỏi gì người lính gác cổng của ta?”
“Chúng tôi đã hỏi rằng Người được sinh ra làm vua của người Do Thái đang ở đâu?”
“Giờ thì ta đã hiểu tại sao mọi người lại tò mò đến như vậy. Các ngài cũng khiến ta tò mò không kém. Không lẽ ngoài ta còn một ai khác là vua của dân Do Thái hay sao?”
Người Ai Cập không hề nao núng.
“Có một hài nhi mới ra đời.”
Gương mặt rám nắng của nhà vua nhăn nhó, cứ như thể vừa nhớ ra một điều đáng sợ nào.
“Ta không coi nó là vua, ta không coi nó là vua!” Ông thốt lên.
Có lẽ những cảnh tượng kinh khủng của những đứa con bị giết vừa ùa về trước mắt nhà vua. Sau khi đã lấy lại được bình tĩnh, ông hỏi tiếp, “vị vua mới giờ ở đâu?”
“Thưa Bệ hạ, đó chính là điều mà chúng tôi đang muốn hỏi.”
“Các ngài đã mang đến cho ta một điều kì diệu – một câu đố rắc rối hơn bất kì câu đố nào của vua Solomon,” nhà vua nói tiếp. “Như các ngài có thể thấy, giờ ta đã ở vào cái tuổi mà sự tò mò cũng khó chế ngự hệt như hồi trẻ thơ và đùa giỡn với sự tò mò ấy quả là việc làm độc ác nhất. Hãy nói cho ta biết, và ta sẽ trọng vọng các ngài không kém gì những ông hoàng. Hãy nói cho ta biết tất cả về hài nhi mới ra đời này, và ta sẽ cùng tìm kiếm nó với các ngài, để rồi khi tìm thấy, ta sẽ làm bất cứ điều gì mà các ngài mong muốn, ta sẽ mang nó trở về Jerusalem và dạy cho nó thuật trị quốc; ta sẽ tận dụng ân sủng của Caesar để nó được vinh hiển và trọng vọng. Ta thề rằng trong ta không hề mảy may ghen tị. Nhưng trước tiên hãy nói cho ta biết, bằng cách nào các ngài lại cùng biết tin hài nhi ra đời từ những nơi xa xôi bị đại dương và sa mạc chia cắt.”
“Tôi xin trả lời thật lòng, thưa Bệ hạ.”
“Ngài cứ nói,” Herod đáp.
Balthasar ngồi thẳng lên và nghiêm trang nói.
“Nhờ một vị Chúa toàn năng.”
Herod lộ rõ vẻ kinh ngạc.
“Chúa đã ra lệnh cho chúng tôi tới, hứa rằng chúng tôi sẽ tìm thấy Đấng Chuộc lỗi cho thế gian; và rằng chúng tôi sẽ được gặp và thờ phụng Người. Vì vậy cả ba chúng tôi đều nhìn thấy dấu hiệu là một ngôi sao dẫn đường. Linh hồn của Người đã luôn đồng hành cùng với chúng tôi. Thưa Bệ hạ, linh hồn ấy cũng đang ở bên chúng tôi ngay lúc này!”
Một luồng cảm xúc mạnh mẽ chiếm lấy cả ba người. Người Hy Lạp cố gắng nén mình để khỏi thốt lên một tiếng. Ánh mắt của Herod đảo từ người này sang người khác; cảm thấy càng nghi ngờ và bực bội hơn trước kia.
“Hình như các ngài đang chế giễu ta,” nhà vua nói. “Nếu không phải thế, hãy nói cho ta biết thêm. Sau khi vị vua này ra đời thì điều gì sẽ xảy ra?”
“Sự cứu rỗi của loài người.”
“Khỏi cái gì?”
“Sự xấu xa của chính họ.”
“Bằng cách nào?”
“Bằng những thành tố thiêng liêng – đức tin, tình yêu và nghĩa cử.”
“Vậy thì,” Herod ngập ngừng và khi nhìn vào ánh mắt nhà vua, không ai có thể hiểu được ông đang nghĩ gì, “các ngài chính là những người đưa tin của Đấng Christ. Có phải vậy không?”
Balthasar cúi đầu thật thấp.
“Chúng tôi là tôi tớ của Người, thưa Bệ hạ.”
Nhà vua rung một cái chuông và một người hầu xuất hiện.
“Hãy mang các món quà đến đây,” nhà vua nói.
Người hầu bước ra, nhưng một lúc sau quay lại và quỳ trước các vị khách, dâng cho mỗi người một chiếc áo choàng dài màu đỏ và xanh dát vàng. Cả ba làm lễ theo kiểu phương Đông để tỏ lòng biết ơn nhà vua.
“Còn một điều này nữa,” Herod nói sau khi nghi lẽ đã xong. "Các ngài đã nói với người lính canh ở cửa hôm nay và giờ cũng đã nói với ta rằng các ngài nhìn thấy một vì sao ở phía Đông?”
“Phải,” Balthasar nói, “đó là ngôi sao của Người, ngôi sao của hài nhi mới ra đời.”
“Nó xuất hiện từ bao giờ?”
“Từ khi chúng tôi được truyền dạy phải đi tới đây.”
Herod đứng dậy và ra dấu cuộc gặp mặt đến đây là chấm dứt. Bước xuống khỏi cái ngai và tiến về phía họ, nhà vua nói với vẻ lịch thiệp vô song.
“Nếu đúng như ta nghĩ, hỡi những nhà thông thái, rằng các ngài chính là người đưa tin của Đấng Christ vừa ra đời, thì tối nay ta đã họp bàn với những người tinh thông sử sách Do Thái nhất và họ đều nhất trí rằng Người được sinh ra ở Bethlehem xứ Judea. Các ngài hãy lên đường ngay, và cố gắng tìm kiếm hài nhi ấy, để rồi khi tìm được, hãy báo tin cho ta để ta có thể tới tỏ lòng sùng kính trước Người. Chúc các ngài được bình an!”
Và sau đó, nhà vua quấn sát chiếc áo dài quanh người và rời khỏi phòng.
Người dẫn đường lại xuất hiện, và đưa họ ra phố, trở về quán trọ. Đến lúc ấy người Hy Lạp mới buột miệng nói, “Hỡi các đồng đạo hãy cùng lên đường đến Bethlehem, theo lời nhà vua đã chỉ bảo ngay thôi.”
“Phải đấy,” người Hindu nói. “Linh hồn ấy như đang cháy bỏng trong tôi.”
“Được thôi,” Balthasar nói với vẻ nhiệt tình không kém. “Ba con lạc đà đã được chuẩn bị sẵn sàng.”
Họ thưởng cho người giữ lạc đà, leo lên yên, hỏi đường tới cổng Joppa, rồi lên đường. Khi họ tiến đến, những cái chốt to tướng được tháo ra, họ bước ra ngoài, đi theo con đường của Joseph và Mary. Khi họ rời Hinnom, bước ra đồng bằng Rephaim, một ánh sáng xuất hiện, ban đầu trải rộng và mờ nhạt. Tim họ đập rộn ràng. Ánh sáng ấy ngày càng trở nên rực rỡ, đến nỗi khiến họ phải nhắm mắt lại để rồi khi mở mắt ra thì nhìn kìa! Lại là vì sao ấy, hoàn mỹ giống như mọi vì sao trên Thiên đàng, nhưng giờ lại từ từ lơ lửng trước mặt họ. Cả ba khoanh tay và thốt lên những tiếng vui sướng tột cùng.
“Chúa đang ở bên chúng ta! Chúa đang ở bên chúng ta!” Họ nhắc đi nhắc lại câu đó cho tới khi ngôi sao bay cao lên từ thung lũng phía bên kia Mar Elias và dừng lại trên một ngôi nhà bên sườn đồi gần thị trấn.