← Quay lại trang sách

Chương II Ben-Hur và Messala

Sau những giải thích trên đây, xin mời độc giả chiêm ngưỡng một khu vườn trong một dinh thự trên núi Zion. Đó là vào một buổi trưa giữa tháng Bảy, khi cái nóng của mùa hè đang lên đến đỉnh điểm.

Khu vườn có nhà bao quanh bốn phía. Một vài ngôi nhà có hai tầng, hành lang tầng trên che nắng cho cửa ra vào và cửa sổ tầng dưới, trong khi các ban công với hàng lan can vững chắc trang trí và bảo vệ tầng trên. Một vài ngôi nhà được chống đỡ bằng những hàng cột thấp để gió lùa vào và cũng nhờ thế chúng ta nhìn thấy được nội thất lộng lẫy của chúng. Cách bài trí trong khu vườn cũng đẹp mắt không kém. Ở đó có những lối đi, những khoảnh cỏ và cây bụi, vài cây lớn – một thứ cây cọ hiếm gặp – chen vai thích cánh cùng với cây carob, mơ, và óc chó. Giữa khu vườn được đắp cao thoai thoải là một cái hồ nhỏ, hay đúng hơn là một cái bồn sâu bằng đá cẩm thạch với những cửa nhỏ xung quanh để khi mở ra nước sẽ chảy vào đường cống bao quanh lối đi – một cách hay để đối phó với tình trạng khô hạn thường xuyên diễn ra ở đây.

Không xa bồn nước là một cái hồ nhỏ trong vắt mọc đầy cỏ lau và cây trúc đào – thứ cây thường mọc ở Jordan và quanh Biển Chết. Giữa bụi cỏ và và cái hồ, không để tâm gì đến ánh mặt trời chói chang và cái nóng ngột ngạt, hai thiếu niên, một người tầm mười chín tuổi, người kia khoảng mười bảy, đang ngồi say sưa trò chuyện.

Cả hai đều rất điển trai, và khi nhìn qua người ta có thể tưởng họ là hai anh em. Họ có mái tóc và đôi mắt đen; gương mặt rám nắng và khi ngồi cạnh nhau như vậy, sự chênh lệch về vóc người cũng tương xứng với tuổi tác.

Người lớn tuổi hơn để đầu trần. Y phục của anh gồm một chiếc áo rộng dài tới đầu gối ngoài ra còn có một đôi xăng đan và một tấm áo choàng màu xanh mà anh đã trải xuống để ngồi lên. Đôi cánh tay và cẳng chân của anh để trần và chúng cũng rám nắng hệt như gương mặt; tuy thế dáng điệu sang trọng, nét mặt thanh tú và lối ăn nói chuẩn mực đã thể hiện rõ đẳng cấp của anh. Chiếc áo được làm bằng thứ len mềm nhất, nhuộm xám, viền cổ, tay áo và gấu áo màu đỏ, và ở hông anh đeo một thắt lưng bằng lụa có núm tua. Tất cả cho thấy đây là một người La Mã chính gốc. Và nếu thỉnh thoảng khi nói anh lại nhìn người kia với vẻ ngạo nghễ và gọi anh ta như người dưới, điều đó cũng chẳng có gì là sai cả, vì anh thuộc dòng dõi mà cũng được người ta trọng vọng ngay cả ở Rome – điều này có nghĩa là anh có thể tùy ý làm gì cũng được. Trong những cuộc chiến tranh khủng khiếp giữa Caesar đầu tiên và những kẻ thù ghê gớm của ngài, một người thuộc họ Messala đã từng là bạn của Brutus. Sau trận Philippi, ông và phe chiến thắng đã dàn hòa với nhau mà không phải hi sinh danh dự của mình. Thế nhưng sau này, Messala đã hỗ trợ cho Octavius khi tranh đoạt Đế chế. Octavius Augustus vẫn nhớ đến công ơn đó khi trở thành Hoàng đế và khiến cho gia tộc của ông trở nên vinh hiển. Khi Judea bị biến thành một quận của Đế chế, Hoàng đế đã cử người con trai chiến hữu trung thành của mình tới Jerusalem để làm nhiệm vụ thu thập và quản lý vấn đề thuế má ở vùng đó. Từ ấy người con vẫn ở lại đây, sống trong cung điện cùng với tu sĩ tối cao. Chàng thanh niên mà chúng tôi vừa mới mô tả trên đây là con trai của người này, và anh có thói quen luôn khoe khoang mối quan hệ giữa ông mình và những người La Mã có vai vế thời đó.

Người bạn của Messala có phần nhỏ bé hơn, và y phục của anh làm bằng loại vải trắng may theo kiểu vốn phổ biến ở Jerusalem thời đó. Trên đầu anh đội một tấm khăn buộc bằng sợi dây vàng, được xếp đặt sao cho nó tỏa xuống cổ và lưng. Thế nhưng một người quan sát tinh ý sẽ dễ dàng đoán ngay ra anh là một người Do Thái thông qua nét mặt chứ chẳng cần nhìn vào y phục của anh. Vầng trán của người La Mã thì cao và hẹp, cái mũi sắc và khoằm, trong khi đôi môi lại mỏng và thẳng, đôi mắt lạnh lùng nằm dưới hàng lông mày rậm. Ngược lại, trán của người Do Thái thấp và rộng, cái mũi dài với hai cánh mũi nở, môi trên hơi dày hơn môi dưới, ngắn và hơi cong xuống giống như cánh cung của thần Cupid. Những điểm này khi kết hợp với cái cằm tròn, đôi mắt to và hai gò má trái xoan hơi đỏ lên vì rượu vang đem lại cho gương mặt anh vẻ mềm mại, mạnh mẽ và xinh đẹp đặc trưng của dân tộc mình. Nét quyến rũ của người La Mã thì cương quyết và khắc khổ, trong khi của người Do Thái thì mềm mỏng và uyển chuyển.

“Anh nói là viên tỉnh trưởng sẽ đến vào ngày mai?”

Người trẻ hơn hỏi bằng tiếng Hy Lạp, thứ tiếng mà thời đó vốn phổ biến trong giới học thức ở Judea, được lan truyền từ cung điện cho tới các trại lính và trường đại học. Sau đó không ai biết bằng cách nào nó đã len lỏi vào cả đền thờ, vì thế tỏa ra những quận cách xa những cánh cổng và hành lang nơi đây – những nơi mà sự thiêng liêng khiến một người Gentile(*) không thể chịu nổi.

“Phải, ngày mai,” Messala trả lời.

“Ai nói với anh thế?”

“Tôi đã được nghe chính Ishmael, tổng đốc mới trong cung điện – anh vẫn gọi ngài ấy là tu sĩ tối cao ấy – nói với cha tôi tối qua. Tôi phải công nhận với anh rằng nếu một người Ai Cập – một dân tộc đã quên mất sự trung thực là gì – hay thậm chí một người Idumea – giống người xưa nay chẳng biết trung thực là gì – nói ra tin này thì thậm chí nó vẫn còn đáng tin hơn là từ miệng ông ta nhưng để cho chắc chắn, tôi đã nhìn thấy một bách binh trưởng(*) ở pháo đài sáng nay, và ông ấy nói cho tôi biết rằng người ta đang chuẩn bị đón tiếp viên tỉnh trưởng. Những người làm áo giáp đang đánh bóng mũ trụ và khiên, mạ lại những con đại bàng và quả địa cầu, những căn phòng từ lâu không ai ở đang được dọn sạch và thông gió cứ như để dành cho một binh đoàn mới đến – có lẽ là những người bảo vệ cho vị quan lớn.”

Cái cách mà anh nói ra câu trả lời này đúng là không tài nào diễn tả được, vì những nét tinh tế của nó vượt xa sức mạnh của ngòi bút. Ở đây độc giả sẽ phải tưởng tượng chút ít và ngoài ra ta cần nhớ rằng sự sùng đạo trong tư tưởng La Mã đang biến đi rất nhanh, hay đúng hơn là nó không còn hợp mốt nữa. Tôn giáo cũ đã không còn là một đức tin, cùng lắm thì nó chỉ là một thói quen trong suy nghĩ và nói năng, được duy trì chủ yếu bởi những tu sĩ trong đền thờ và những thi sĩ không dám vứt bỏ những vị thần quen thuộc trong những bài thơ của mình: họ cũng tương tự như các ca sĩ thời nay vậy. Một hệ thống triết học mới đang dần thay thế cho tôn giáo, sự châm biếm đang soán ngôi sự sùng kính, đến nỗi đối với người Latin, nó phải được thêm thắt vào từng câu nói dù là thông thường nhất, giống như thịt phải có muối và rượu phải có mùi hương. Messala trẻ tuổi vốn được học hành ở Rome nhưng chỉ mới trở lại đây nên đã nhiễm thói quen đó. Cử động gần như không thể thấy được ở góc dưới mi mắt, cánh mũi hơi cong lên và kiểu nói dài giọng dường như là những phương tiện tối ưu để thể hiện sự thờ ơ, thế nhưng nó cũng nhằm tạo ra một quãng nghỉ vốn vẫn được coi là tối quan trọng cho người nghe hiểu ra sự tự mãn và đón nhận thứ virus của câu châm biếm sâu cay ấy. Một quãng nghỉ như thế cũng xuất hiện trong câu trả lời vừa rồi, sau khi anh nhắc đến người Ai Cập và người Idumea. Hai gò má của người Do Thái đỏ ửng lên, và hình như anh chẳng hề nghe thấy phần còn lại của câu trả lời đó, vì anh vẫn cứ im lặng, lơ đãng nhìn xuống mặt nước hồ trong vắt.

“Lần trước chúng ta đã từ biệt nhau trong khu vườn này. Cầu mong Thượng đế phù hộ cho anh! – Đó là những lời cuối cùng mà anh đã nói. ‘Chúa cũng sẽ phù hộ cho anh! tôi đáp. Anh còn nhớ chứ? Từ đó đến giờ đã bao nhiêu năm rồi?”

“Năm năm,” người Do Thái đáp, vẫn nhìn xuống hồ.

“Chà, anh có lí do để mà biết ơn... tôi nên nói là ai đây nhỉ? Các vị thần? Chẳng sao. Anh giờ đã điển trai lắm; những người Hy Lạp sẽ nói anh thật xinh đẹp – thời gian đã biệt đãi anh làm sao! Nếu Jupiter(*) có thể hài lòng với một Ganymede(*), anh cũng xứng đáng để làm người dâng rượu cho Hoàng đế lắm chứ! Judah ơi, hãy cho tôi biết, tại sao anh lại quan tâm đến việc viên tỉnh trưởng đến đây như vậy?”

Judah hướng đôi mắt lớn nhìn sang người đang hỏi mình; ánh mắt của anh nghiêm nghị và trầm ngâm, và anh cứ nhìn thẳng vào gương mặt của người La Mã khi trả lời, “Phải, đã năm năm rồi. Tôi vẫn còn nhớ buổi chia tay đó, anh đến Rome, tôi đã bật khóc khi nhìn anh ra đi, vì tôi vô cùng yêu quý anh. Những năm tháng ấy đã trôi qua, giờ anh trở lại với tôi trong sự vinh hiển và kiêu hãnh – tôi không hề có ý chế giễu anh, thế nhưng... thế nhưng... tôi ước gì anh vẫn là Messala ngày ấy.”

Cánh mũi của người La Mã thích châm biếm phập phồng và anh nói còn dài giọng hơn trước, “Ôi không, không, anh không phải Ganymede, mà là một người đọc lời thánh, Judah của tôi ạ. Một vài bài học từ vị thầy hùng biện của tôi ở Forum – tôi vừa sực nhớ ra sẽ phải gửi một lá thư giới thiệu anh với ông ấy khi anh đã đủ trưởng thành để đón nhận những bài học đó – cùng một chút luyện tập các phương thức kì bí, thế là Delphi(*) sẽ sẵn lòng đón nhận anh không khác gì Apollo. Với giọng nói nghiêm nghị của anh, Pythia(*) sẽ đội vương miện ra đón anh. Nghiêm túc mà nói, hỡi anh bạn của tôi, tôi có điểm gì không giống với Messala đã từng từ biệt anh ở đây? Tôi từng được nghe các bài giảng của nhà logic học vĩ đại nhất thế giới. Chủ đề mà ông ấy nói đến là sự tranh luận. Tôi vẫn còn nhớ một câu nói là: ‘Hãy hiểu lời đối phương trước khi đáp lại.’ Vậy thì hãy giúp tôi hiểu được anh đi.”

Người Do Thái đỏ mặt trước ánh mắt chế nhạo của người đối diện; thế nhưng anh vẫn cứng cỏi đáp, “Theo như tôi thấy anh quả đã tận dụng được những cơ hội của mình, anh đã thu về biết bao kiến thức và những đức tính từ những người thầy của mình. Anh ăn nói trôi chảy như bậc thầy, thế nhưng những câu nói của anh luôn mang vẻ châm biếm. Messala của tôi trước khi rời đi không hề có chút cay độc nào trong tâm hồn và dù có đánh đổi cả thế giới anh ấy cũng không đời nào làm tổn thương người bạn của mình.”

Người La Mã mỉm cười như thể được khen ngợi, và ngẩng cao cái đầu quý tộc hơn nữa.

“Ôi, Judah nghiêm nghị của tôi, chúng ta có đang ở Dodona(*) hay Pytho đâu. Hãy bỏ qua những câu hoa mỹ và nói thẳng ra. Tôi đã làm gì khiến anh phật ý?”

Người kia hít sâu một hơi rồi nói, tay kéo cái đai quanh hông, “Trong năm năm, tôi cũng đã học hỏi được thêm ít nhiều. Hillel có thể không tài giỏi bằng nhà logic học mà anh đã đến dự giảng, trong khi Simeon và Shammai chắc chắn là kém cỏi hơn những vị thầy của anh ở Forum. Trí tuệ của họ không lan đến những lĩnh vực bị cấm đoán, những người ngồi dưới chân họ nghe giảng khi đứng lên chỉ mở mang được hiểu biết về Chúa Trời, luật pháp và đất nước Israel. Kết quả là họ dành hết tình cảm và sự sùng kính cho những gì gắn bó với mình. Nhờ đến trường đại học và nghiền ngẫm những gì mình nghe, tôi đã biết rằng Judea không còn được như trước kia nữa. Tôi biết khoảng cách vời vợi giữa vị thế một quốc gia độc lập và một tỉnh lỵ như Judea ngày nay. Nếu không cảm thấy căm phẫn trước sự nhục nhã của đất nước mình, khi ấy tôi còn xấu xa hơn cả một người Samaria nữa. Ishmael không phải là một tu sĩ tối cao hợp thức, và ông ấy không thể đảm nhận được vị trí ấy khi Hannas cao quý hãy còn sống. Ngoài ra Hannas còn thuộc dòng dõi Levi, một dòng họ mà trong suốt hàng nghìn năm đã phục vụ cho Đức Chúa trong tôn giáo của chúng tôi. Ông ấy...”

Messala ngắt lời anh bằng một tràng cười nhạo báng.

“Ồ, giờ thì tôi hiểu anh rồi. Ý anh nói Ishmael là một kẻ tiếm ngôi, thế nhưng tin một người Idumea hơn là Ishmael thì đúng là đau như bị ong châm vậy. Thề có người con phóng đãng của Semele(*), người Do Thái thật là một dân tộc kỳ lạ! Con người và tất cả mọi sự trên đời, kể cả Thiên đàng và thế gian, đều liên tục thay đổi, nhưng một người Do Thái thì không bao giờ. Với anh ta thì không tồn tại sự thụt lùi hay tiến bộ và người ấy cũng giống hệt như tổ tiên của mình thời hồng hoang. Để tôi vẽ một vòng tròn trên cát đây này! Giờ thì hãy nói cho tôi biết cuộc sống của một người Do Thái còn có điều gì khác nữa? Mọi thứ cứ đi vòng quanh, Abraham ở đây, Isaac và Jacob đằng kia, Chúa trời ở giữa. Và vòng tròn – hỡi vị chúa tể sấm sét! Vòng tròn này hãy còn quá rộng. Để tôi vẽ lại nhé...” Anh dừng lại, đặt ngón cái lên mặt đất và dùng các ngón còn lại xoay một vòng xung quanh. “Anh thấy chưa, vết ngón cái kia là đền thờ còn vòng tròn là Judea. Bên ngoài lãnh địa nhỏ nhoi này không còn gì có giá trị hay sao? Những môn nghệ thuật! Herod là một kiến trúc sư vì thế ông ta bị nguyền rủa. Hội họa, điêu khắc! Chỉ cần nhìn chúng đã bị coi là tội lỗi. Thơ ca các anh chỉ dành cho việc cúng tế. Bên ngoài các nhà thờ, ai là người trong số các anh dám theo đuổi thuật hùng biện? Trong chiến tranh, cứ hễ chiếm được gì trong sáu ngày đầu là đến ngày thứ bảy các anh lại đánh mất hết. Cuộc sống và sự gò bó của các anh là ở đó đấy; ai có thể phản bác lại tôi khi tôi cười nhạo anh? Vị Chúa mà dân tộc anh thờ phụng có là gì khi đặt cạnh Jove của người La Mã, vị thần đã ban cho chúng tôi những con đại bàng để chinh phục cả thế giới? Hillel, Simeon, Shammai, Abtalion – họ là gì khi đặt cạnh những bậc thầy đang thuyết giảng rằng con người có thể thấu hiểu tất cả những gì đáng để nghiên cứu?”

Người Do Thái đứng lên, mặt đỏ rực.

“Không, không, hãy ngồi yên đó, Judah của tôi, hãy ngồi yên đó,” Messala kêu lên và đưa tay ra.

“Anh đã chế nhạo tôi.”

“Hãy lắng nghe thêm chút nữa.” người La Mã mỉm cười vẻ nhạo báng. “Đích thân Jupiter và tông chi họ hàng của Người, cả Hy Lạp lẫn Latin, rồi sẽ đến với tôi theo thói quen của các vị thần và chấm dứt mọi cuộc trò chuyện nghiêm túc. Tôi rất biết ơn lòng nhiệt thành của anh khi đã cuốc bộ từ ngôi nhà cổ của ông cha mình tới đây đón tôi và ôn lại tình bạn thuở niên thiếu – nếu chúng ta thực sự có thể ôn lại điều đó. ‘Đi đi,’ người thầy của tôi đã nói trong bài giảng cuối cùng. ‘Hãy đi đi và xây nên cho mình một cuộc đời vĩ đại, hãy nhớ rằng Mars(*) thống trị và Eros(*) đã không còn mù lòa nữa.’ Ý ngài muốn nói là tình yêu chẳng là gì, còn chiến tranh là tất cả. Ở Rome là như thế đấy. Kết hôn là bước đường đầu tiên dẫn đến ly hôn. Đức hạnh chỉ là một viên ngọc của gã lái buôn. Cleopatra khi hấp hối đã truyền lại những lời dạy của mình, giờ đã được trả thù, có người kế tục trong từng ngôi nhà La Mã. Thế giới sẽ không bao giờ như xưa được nữa; vì thế về tương lai của chúng ta, tôi muốn nói đả đảo Eros, Mars muôn năm! Tôi sẽ trở thành một người lính, còn anh, ôi Judah của tôi, tôi lấy làm thương hại anh rồi sẽ trở thành gì đây?”

Người Do Thái bước tới gần cái hồ, Messala thì cứ dài giọng hơn nữa.

“Phải, tôi thương hại anh lắm, Judah đáng mến của tôi ạ. Từ trường đại học đến nhà thờ và sau đó vào đền thờ; và rồi – ồ, quả là một viễn cảnh đầy vinh quang! Một chân trong hội đồng Sanhedrim. Một cuộc đời không có cơ hội, cầu mong thần thánh phù hộ cho anh! Nhưng tôi...”

Judah ngoảnh lại nhìn Messala vừa đúng lúc để nhìn thấy gương mặt kiêu ngạo của anh ta ửng đỏ vì hãnh diện.

“Nhưng còn tôi – chà, người La Mã vẫn chưa chinh phục hết toàn bộ thế giới. Ngoài đại dương hãy còn những hòn đảo chưa ai nhìn thấy bao giờ. Ở phía Bắc hãy còn những đất nước chưa ai đặt chân đến. Vinh quang hoàn thành công cuộc chinh phục viễn Đông của Alexander Đại đế hãy còn bỏ ngỏ. Anh thấy đấy, đó là những ngưỡng vọng trong đời của một người La Mã.”

Ngay lập tức anh ta lại chuyển sang giọng chế giễu như cũ.

“Một chiến dịch tiến vào châu Phi, một chiến dịch nữa để chinh phục những người Scythia(*); và rồi thống lĩnh một binh đoàn lê dương! Sự nghiệp của phần lớn mọi người sẽ kết thúc ở đó; nhưng tôi thì không. Tôi thề có thần Jupiter, tôi đã nảy ra một ý tưởng kỳ diệu! Tôi sẽ từ bỏ binh đoàn của mình để đổi lấy một tỉnh lỵ. Hãy nghĩ đến cuộc sống ở Rome khi ta giàu có – vàng bạc, rượu vang, phụ nữ, những môn thể thao – những nhà thơ trong các buổi tiệc, những âm mưu trong cung đình, đánh bạc quanh năm. Cuộc đời của tôi sẽ là như thế đấy, khi tôi được cai quản một tỉnh lỵ. Ôi Judah của tôi, ở đây ta có xứ Syria! Judea vốn vô cùng giàu có, Antioch thì là thủ phủ của các vị thần. Tôi sẽ kế nhiệm Cyrenius, còn anh thì cũng sẽ được vui hưởng sự giàu có cùng tôi.”

Những nhà triết học và hùng biện nhan nhản ở những nơi công cộng ở Rome – những người gần như đã nắm quyền chủ yếu trong việc dạy dỗ đám thanh niên quý tộc – hẳn sẽ hoàn toàn đồng tình với những lời vừa rồi của Messala, vì chúng vốn là tư tưởng hợp mốt nhất thời đó. Tuy thế, với chàng trai Do Thái trẻ tuổi, tất cả đều mới mẻ, khác hẳn với cách hành xử nói năng nghiêm trang mà anh đã quen. Ngoài ra, anh cũng thuộc về một dân tộc mà luật lệ, quy tắc và các thói quen suy tưởng của họ đều ngăn cấm sự mỉa mai và châm biếm; vì thế, một cách hoàn toàn tự nhiên, vô số cảm xúc đối lập dâng lên khi anh lắng nghe người bạn của mình. Lúc thì anh cảm thấy căm phẫn, lúc thì băn khoăn không biết phải hiểu như thế nào. Sự cao ngạo của Messala ngay từ đầu đã khiến anh khó chịu, chẳng bao lâu sau nó đã lên đến mức không thể chấp nhận nổi, để rồi cuối cùng nó khiến anh đau nhói. Con người thường dễ nổi giận trong những tình huống như thế này; và kẻ nhạo báng kia chỉ khiến cảm xúc ấy càng bùng lên mãnh liệt mà thôi. Với một người Do Thái sống ở thời Herod, lòng ái quốc là một cảm xúc mãnh liệt đến man rợ khó mà che giấu nổi dưới vẻ ngoài bình dị, hơn nữa lại gắn chặt với lịch sử, tôn giáo và vị Chúa của mình đến nỗi bất cứ kẻ nào sỉ nhục những điều đó sẽ phải chịu hậu quả ngay tức khắc. Vì thế, sẽ không có gì là phóng đại khi nói rằng những lời nói của Messala cho tới câu cuối cùng này đúng là một sự tra tấn đối với chàng thanh niên Do Thái để rồi anh nở nụ cười gượng gạo, cất tiếng.

“Tôi được biết một vài người có quyền đùa với tương lai của mình, anh đã thuyết phục được tôi, Messala ạ, rằng tôi không phải một trong số họ.”

Người La Mã dò xét anh rồi đáp, “Tại sao sự thật không thể được nói ra qua một câu đùa bỡn thay vì một câu chuyện ngụ ngôn? Fulvia vĩ đại ngày xưa khi đi câu đã bắt được nhiều cá hơn tất cả những người đi cùng gộp lại. Người ta nói rằng đó là vì lưỡi câu của bà được mạ vàng.”

“Vậy thì anh không chỉ nói đùa?”

“Judah của tôi ơi, giờ tôi mới hiểu những gì mình đưa ra hãy còn chưa đủ với anh,” người La Mã đáp lại rất nhanh, mắt lấp lánh. “Khi tôi đã là tỉnh trưởng, có được đất Judea này làm giàu cho mình, tôi... sẽ đưa anh lên làm tu sĩ tối cao.”

Người Do Thái giận dữ bước đi.

“Đừng đi vội,” Messala nói.

Judah ngập ngừng dừng lại.

“Trời ơi, Judah, hôm nay mới nóng làm sao!” Chàng thanh niên quý tộc kêu lên khi nhìn thấy sự băn khoăn của người bạn mình. “Hãy cùng tìm chỗ nào râm mát.”

Judah lạnh lùng đáp lại.

“Chúng ta nên chia tay ở đây. Tôi ước gì mình đã không đến đây. Tôi tới để tìm kiếm một người bạn, để rồi lại thấy...”

“Một người La Mã,” Messala đáp nhanh.

Hai bàn tay của người Do Thái siết chặt, nhưng anh kịp kìm lại và bước đi. Messala đứng dậy, cầm lấy chiếc áo choàng trải trên ghế, vắt nó qua vai và đi theo; để rồi khi theo kịp bạn mình, anh đặt tay lên vai Judah và hai người đi sóng đôi.

“Tôi vẫn thường khoác vai anh như thế này khi chúng ta đi bên nhau hồi nhỏ. Chúng ta cứ đi như thế này cho đến khi ra tới cổng nhé.”

Messala dường như đang cố tỏ ra nghiêm túc và nồng nhiệt, mặc dù anh vẫn không thể rũ bỏ được vẻ châm biếm cố hữu trên nét mặt. Judah không phản kháng cử chỉ thân mật đó.

“Anh là một thiếu niên; còn tôi là một người đàn ông, hãy để tôi nói chuyện như một người đàn ông chứ.”

Vẻ tự mãn của người La Mã đúng là siêu phàm. Đến Mentor dạy dỗ Telemachus(*) trẻ tuổi cũng không thể thoải mái hơn được.

“Anh có tin vào Parca(*) không? À, tôi quên mất, anh là một người Sadducee(*): trong dân Do Thái chỉ có những người Essene là biết suy nghĩ hơn cả; họ tin vào những vị thần số mệnh này. Tôi cũng thế. Ba chị em số mệnh ấy xưa nay luôn biết cách cản trở những gì mà chúng ta mong muốn! Tôi ngồi suy đi tính lại. Tôi chạy đôn chạy đáo. Thế rồi đùng một cái, khi vươn tay ra để nắm trọn thế giới, tôi bỗng nghe thấy tiếng kéo nghiến phía sau mình. Tôi ngoảnh lại nhìn, và đó đúng là Atropos đáng nguyền rủa! Nhưng Judah của tôi, sao anh lại nổi giận khi tôi nói đến chuyện sẽ kế nhiệm Cyrenius già nua. Anh tưởng tôi sẽ vơ vét Judea để làm giàu cho bản thân hay sao? Mà giả sử có như vậy thật đi; đấy là việc mà một người La Mã đương nhiên sẽ làm. Tại sao tôi lại không thể làm thế?”

Judah bước ngắn lại.

“Đã từng có những kẻ chinh phục Judea trước những người La Mã,” anh giơ tay lên trời mà nói. “Giờ chúng đâu rồi, Messala? Judea vẫn trường tồn, còn bọn chúng thì không. Chuyện gì đã từng xảy ra trong quá khứ rồi sẽ lặp lại.”

Messala lại giở giọng cợt nhả.

“Vậy là ngoài những người Essene hãy còn những người khác tin vào ba chị em Parcae. Judah ơi, chào mừng anh nhập hội với tôi!”

“Không, Messala, đừng gộp tôi với họ. Đức tin của tôi dựa trên tảng đá vốn là nền móng đức tin của cha ông tôi từ trước cả thời Abraham, dựa trên những điều luật của vị Chúa đất Israel này.”

“Anh mới cuồng nhiệt làm sao, Judah. Người thầy của tôi hẳn sẽ bị sốc nếu tôi tỏ ra nóng nảy đến thế trước mặt ông! Tôi còn một vài điều nữa muốn nói với anh, nhưng giờ tôi phát sợ phải nói ra chúng.”

Khi hai người đã đi được thêm vài bước nữa, người La Mã lại lên tiếng.

“Giờ thì tôi tin là anh đã sẵn sàng lắng nghe tôi, nhất là khi những gì tôi nói liên quan trực tiếp đến anh. Tôi muốn phục vụ cho anh, hỡi chàng trai xinh đẹp không kém gì Ganymede, tôi sẽ phục vụ anh một cách trung thành nhất. Tôi yêu quý anh vô hạn. Tôi đã nói với anh rằng tôi sẽ trở thành một người lính. Tại sao anh lại không đi theo con đường đó cùng tôi? Tại sao anh không bước ra khỏi vòng tròn nhỏ bé mà như tôi đã chỉ cho anh bao gồm tất cả những thứ mà luật lệ cùng phong tục của dân tộc anh cho phép?”

Judah không đáp lại.

“Ai là những nhà thông thái của thời đại chúng ta?” Messala nói tiếp. “Đó không phải là những kẻ phí hoài năm tháng cãi vã nhau về những thứ đã chết, về những Bal, Jove, và Jehovah, về triết học và tôn giáo. Hãy kể cho tôi tên của bất kì một vĩ nhân nào, Judah ạ, tôi không quan tâm người mà anh kể đến từ đâu – Rome, Ai Cập, phương Đông, hay từ Jerusalem này – Pluto cứ bắt tôi đi nếu đó không phải một người dám giành lấy vinh quang bằng những gì mình đang có trong tay; không tôn sùng bất cứ điều gì không giúp đem về thắng lợi, cũng không khinh rẻ bất cứ thứ gì giúp mình vươn lên! Herod đã làm gì? Anh em nhà Maccabee(*) thì thế nào? Và cả hai Caesar đầu tiên nữa? Hãy bắt chước họ. Hãy bắt đầu ngay lúc này. Anh có thể thấy Rome cũng sẵn lòng giúp đỡ anh không khác gì đã giúp đỡ Antipater nguời Idumae(*).”

Chàng trai Do Thái run lên vì giận dữ, nhanh chân bước tới cánh cổng gần đó để thoát khỏi cuộc trò chuyện.

“Ôi Rome, Rome!” Anh lẩm bẩm.

“Hãy suy nghĩ cho thấu đáo,” Messala nói tiếp. “Hãy từ bỏ những điều ngờ nghệch của Moses cùng các truyền thống cũ kỹ, hãy nhìn thẳng vào sự thật. Nếu dám đối mặt với ba chị em Parca, họ sẽ nói với anh rằng Rome chính là cả thế gian. Hãy hỏi họ về Judea và họ sẽ trả lời rằng Judea chỉ là một xứ phục dịch cho Rome mà thôi.”

Giờ họ đã ra đến cổng. Judah dừng lại, nhẹ nhàng nhấc bàn tay trên vai mình xuống và đứng đối diện với Messala, mắt rưng rưng những giọt lệ.

“Tôi hiểu được anh, vì anh là một người La Mã; còn anh không thể hiểu được tôi – tôi là một người Israel. Hôm nay anh đã khiến tôi vô cùng đau đớn khi nhận ra rằng chúng ta không bao giờ có thể là bạn như xưa được nữa – không bao giờ! Chúng ta nên từ biệt nhau từ đây. Cầu mong Đức Chúa của ông cha tôi sẽ phù hộ cho anh!”

Messala đưa tay ra, nhưng chàng trai Do Thái đã bước ra khỏi cổng. Khi anh đi khuất, người La Mã im lặng một chốc, rồi cũng đi ra theo, đầu ngẩng cao kiêu hãnh, tự nói với mình.

“Vậy cũng được. Đả đảo Eros, Mars vạn tuế!”