← Quay lại trang sách

QUYỂN II -Chương I Jerusalem dưới ách cai trị La Mã

“Có một ngọn lửa

Và sự rung động của linh hồn

Không chấp nhận sự tồn tại tù túng

Mà vươn ra bên ngoài những ranh giới của ngưỡng vọng

Để rồi khi đã cháy lên, không gì dập tắt nổi,

Hướng về những cuộc phiêu lưu,

Không mệt mỏi vì bất cứ thứ gì ngoài sự nghỉ ngơi.”

Childe Harold(*)

* CHƯƠNG I:

Jerusalem dưới ách cai trị La Mã

.

Xin mời độc giả tới thời điểm hai mươi năm sau những chuyện đã kể ở chương trước, tới giai đoạn đầu thời kỳ cai trị của Valerius Gratus, thống đốc thứ tư của xứ Judea – thời đại mà sau này sẽ được nhớ đến vì những rối loạn chính trị ở Jerusalem và báo hiệu cho cuộc tranh giành cuối cùng giữa người Do Thái và người La Mã.

Trong giai đoạn ấy, Judea đã hứng chịu nhiều thay đổi, nhưng thay đổi lớn nhất chính là ở địa vị chính trị của nó. Herod Đại đế băng hà một năm sau khi Hài Nhi ra đời – chết trong khổ sở đến nỗi những người theo đạo Thiên Chúa tin rằng ông ta đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của Thượng đế. Giống như mọi nhà vua vĩ đại khác đã dành cả cuộc đời gọt giũa quyền lực mà mình dựng nên, ông mơ ước có thể trao lại ngai vàng và vương miện của mình – với tư cách là người đã dựng nên cả một triều đại – cho các con. Vì thế, ông để lại di chúc chia lãnh thổ cho ba người con là Antipas, Philip và Archelaus, trong đó người cuối cùng được lựa chọn kế tục vương hiệu. Di chúc này phải được phê duyệt bởi Augustus, Hoàng đế La Mã. Augustus chuẩn y tất cả mọi điều khoản của di chúc ngoại trừ một điều: ông sẽ không trao vương hiệu cho Archelaus cho tới khi người con của Herod chứng tỏ được tài năng và lòng trung thành của mình. Vì thế ông phong cho Archelaus chức thống đốc với nhiệm kỳ chín năm, để rồi trong khoảng thời gian đó vì những sai lầm và sự kém cỏi trong việc dập tắt những phe phái ngày càng nổi lên hùng mạnh quanh mình, Archelaus bị lưu đày tới xứ Gaul.

Hoàng đế vẫn chưa hài lòng sau khi phế truất Archelaus. Ông ban một sắc lệnh xuống đầu những người dân Jerusalem khiến họ cảm thấy như bị hạ nhục và những tu sĩ phải lấy làm căm phẫn. Ông giáng Judea xuống chỉ còn là một quận của La Mã, nhập nó vào quyền cai quản của thống đốc Syria. Vì thế thay vì có một vị vua cai trị đất nước từ cung điện mà Herod đã để lại trên núi Zion, thành phố lại rơi vào tay một quan chức thứ cấp được chỉ định gọi là tỉnh trưởng, chịu trách nhiệm liên lạc với triều đình ở Rome thông qua đại diện tại Syria ở Antioch. Nỗi đau càng ghê gớm hơn khi viên tỉnh trưởng thậm chí còn không ngự ở Jerusalem mà lại sống ở Caesarea. Tuy thế điều nhục nhã nhất, ghê tởm nhất là Samaria – cái nơi tởm lợm nhất thế giới ấy – lại được gộp vào cùng một tỉnh với Judea! Thử tưởng tượng những người Ly khai và những người Pharisee sẽ khổ sở đến thế nào khi bị những kẻ tôn thờ Gerizim(*) huých cùi chỏ và cười nhạo trước mặt viên tỉnh trưởng tại Caesarea!

Giữa một loạt những tai họa này, những người bị chinh phục chỉ còn lại một niềm an ủi duy nhất: vị tu sĩ tối cao sẽ ngự trong cung điện của vua Herod gần khu chợ và duy trì một thứ giống như triều đình riêng ở đó. Thực tế quyền lực của ông cũng chẳng được bao nhiêu. Quyền xử tử hay tha bổng vẫn nằm trong tay viên tỉnh trưởng. Công lý được thực thi dựa trên luật pháp La Mã và nhân danh Rome. Đáng chú ý hơn, cung điện cũng là nơi sinh sống của viên quan coi việc thuế má cùng toàn bộ các trợ tá, người biên sổ, thu thuế, chỉ điểm và gián điệp. Tuy thế, với những người mơ tưởng sẽ giành lại được tự do trong tương lai, họ vẫn còn một niềm an ủi là dù sao người có quyền cao nhất trong cung điện là một người Do Thái. Sự có mặt của ông ta ở đó mỗi ngày nhắc nhở họ về lời hứa hẹn của nhà tiên tri, và cả cái thời mà Jehovah cai quản các bộ tộc thông qua những người con của Aaron. Với họ đó là dấu hiệu cho thấy Người vẫn không bỏ rơi họ: vì thế hy vọng của họ vẫn âm ỉ, giúp họ kiên nhẫn nén lòng chờ đợi người con của Judah sau này sẽ đứng lên giành lại đất Israel.

Judea đã là một tỉnh của La Mã được hơn tám mươi năm – quá đủ thời gian để các Caesar nghiên cứu kỹ càng những điểm đặc trưng của con người nơi ấy – ít nhất là đủ thời gian để biết rằng người Do Thái với lòng kiêu hãnh của mình vẫn có thể ngoan ngoãn chịu đựng ách cai trị nếu tôn giáo của họ được tôn trọng. Theo chính sách đó, những vị quan tiền nhiệm của Gratus đã cẩn trọng không can thiệp vào bất kỳ nghi lễ thiêng liêng nào của người dân. Nhưng ông đã lựa chọn một hướng đi khác: chỉ thị chính thức gần như đầu tiên của ông là phế truất Hannas khỏi vị trí tu sĩ tối cao, và trao nó cho Ishmael, con của Fabus.

Dù chỉ thị này là theo lệnh của Augustus hay tự Gratus nghĩ ra, sự bất cập của nó nhanh chóng trở nên rõ ràng. Ở đây tôi không muốn khiến độc giả nhàm chán vì liệt kê cả một chương những chuyện chính trị Do Thái, tuy thế, các bạn cũng nên biết một vài điều để theo dõi được rõ những chuyện sẽ xảy ra sau đây. Ở thời điểm đó, nếu không tính đến nguồn gốc dòng họ thì ở Judea có hai phái là phái quý tộc và phái Ly khai hay còn gọi là phái nhân dân. Sau khi Herod băng hà, hai phái này đoàn kết chống lại Archelaus, từ đền thờ đến cung điện, từ Jerusalem đến Rome, họ ra sức chống lại ông, lúc thì bằng lý luận, lúc thì bằng vũ khí. Đã nhiều lần những hành lang thiêng liêng ở Moriah vang vọng tiếng thét xung trận. Cuối cùng, Archelaus phải chạy tháo thân. Trong khi đó, suốt quá trình đấu tranh này, hai phái của liên minh lại có những mục tiêu của riêng mình. Những nhà quý tộc thì ghét Joazar – vị tu sĩ tối cao, trong khi những người Ly khai thì lại tôn sùng ông hết mực. Khi di chúc của Herod trao lại ngôi báu cho Archelaus không thể được thực hiện, Joazar cũng lụn bại theo. Hannas, con trai của Seth, được giới quý tộc lựa chọn đảm nhận vị trí này và từ đó liên minh bị chia rẽ. Việc này khiến hai phái trở thành kẻ thù của nhau.

Trong cuộc chiến đấu chống lại Archelaus xấu số, giới quý tộc đã nhận thấy lợi thế của việc kết giao với Rome. Hiểu rằng khi chế độ hiện tại bị lật đổ, một dạng nhà nước mới phải được dựng lên để thay thế, họ đã đề xuất biến Judea trở thành một tỉnh của La Mã. Điều này khiến những người Ly khai càng có lí do để chống lại họ và khi Samaria được nhập vào Judea, giới quý tộc bỗng trở thành thiểu số, không có gì chống lưng ngoài triều đình, danh tiếng và sự giàu có của họ. Thế mà trong suốt mười lăm năm – cho tới tận thời Valerius Gratus lên cầm quyền – họ vẫn giữ được vị thế của mình ở cả trong cung điện và trong đền thờ.

Hannas, trung tâm của phái quý tộc, đã sử dụng quyền lực của mình trung thành phục vụ triều đình. Một trại lính La Mã được đặt để canh gác tháp Antonia, một người lính La Mã đứng gác ở mỗi cổng cung điện; một phán quan La Mã xử lý các vụ việc dân sự và hình sự, một hệ thống thu thuế kiểu La Mã tàn nhẫn áp đặt lên người dân ở cả thành phố và nông thôn, hàng ngày, hàng giờ, và theo cả nghìn cách khác nhau. Họ bị áp bức và cưỡng đoạt, được chỉ dạy về sự khác nhau giữa cuộc sống tự do và cuộc sống của một dân tộc nô lệ; thế nhưng Hannas vẫn giữ cho mọi thứ tương đối yên bình. Rome chưa bao giờ có được một người bạn thân thiết hơn thế và việc ông bị phế truất gây ra hậu quả ngay lập tức. Sau khi trao lại y phục cho Ishmael – vị tu sĩ tối cao mới – ông rời khỏi hội đồng của đền thờ để gia nhập hội đồng của phái Ly khai, trở thành lãnh đạo của một liên minh mới giữa những người Bethusian và Sethian.

Gratus, viên tỉnh trưởng mới, vì thế không còn ai hỗ trợ và ông ta cũng nhận thấy đám tro tàn suốt mười lăm năm nay bắt đầu cháy âm ỉ trở lại. Một tháng sau khi Ishmael được đưa lên, người La Mã cảm thấy cần phải tới gặp ông ta ở Jerusalem. Những người Do Thái đứng trên những bức tường thành ra sức la ó khi thấy đội quân bảo vệ của ông tiến vào cổng phía Bắc thành phố tới tháp Antonia, và họ hiểu được mục đích thực sự của chuyến viếng thăm này – cả một binh đoàn lê dương đã được tăng cường thêm cho trại lính cũ và cái gông trên cổ họ sẽ lại càng bị siết chặt hơn mà thôi. Thương thay cho kẻ phạm tội đầu tiên nào mà tỉnh trưởng muốn xử để làm gương!