Chương V Rome và Israel, cái nào vĩ đại hơn?
Vậy là chàng thanh niên Do Thái kể lại hết cuộc trò chuyện với Messala, đặc biệt nhấn mạnh những lời nhạo báng của hắn khi nói về những người Do Thái, phong tục, và lối sống gò bó của họ.
.
Sợ hãi không dám lên tiếng, người mẹ lắng nghe, cố gắng hiểu rõ tường tận mọi chuyện. Judah đã đi đến cung điện gần khu chợ vì tình cảm dành cho một người bạn mà anh tưởng rằng sẽ không hề thay đổi sau bao năm xa cách. Thế nhưng anh đã gặp một người đàn ông trưởng thành, và thay vì những tiếng cười và những cuộc tán gẫu về các trò thể thao hồi trước, người ấy chỉ nói đến tương lai, nói đến những vinh quang mà mình có thể giành được, nói đến sự giàu có và quyền lực. Không hiểu hết được ảnh hưởng của cuộc trò chuyện đó, Judah đã đau đớn bỏ đi, thế nhưng trong lòng anh đã bắt đầu nảy nở một tham vọng hoàn toàn tự nhiên. Còn bà – người mẹ ghen tị – đã nhìn thấy tất cả, và vì không thể biết trước tham vọng ấy sẽ dẫn anh đi tới đâu, trong lòng bà dâng lên một nỗi sợ đặc trưng của người Do Thái. Điều gì sẽ xảy ra nếu nó cám dỗ anh rời bỏ đức tin của ông cha? Trong suy nghĩ của bà, đó là điều đáng sợ hơn hết thảy. Bà chỉ tìm ra duy nhất một cách để ngăn chặn điều đó và bắt tay vào thực hiện ngay. Quyền năng trời ban của bà lại càng được củng cố bởi tình yêu dành cho con, khiến cho những lời nói của bà mang sức mạnh không kém gì của một người đàn ông, và đôi khi lại mang cả sự nồng nhiệt của một thi sĩ.
“Trên đời chưa từng có một dân tộc nào...” bà bắt đầu, “...mà chưa từng nghĩ rằng mình ít nhất cũng cao quý không kém gì bất cứ dân tộc nào khác; chưa có một quốc gia vĩ đại nào lại chưa từng cho rằng mình là vĩ đại nhất. Khi những người La Mã khinh rẻ và cười nhạo Israel, họ chỉ đi vào đúng vết xe đổ của người Ai Cập, người Assyria, và người Macedonia mà thôi; vì tiếng cười ấy là nhạo báng Thượng đế, họ cũng sẽ phải chịu hậu quả tương tự.”
Giọng nói của bà trở nên cương quyết hơn.
“Không có điều luật nào trên đời quy định sự vĩ đại của các quốc gia; vì thế bất cứ nước nào coi mình là vĩ đại nhất đều sai lầm, và những tranh cãi xung quanh vấn đề đó cũng thật phù phiếm. Một dân tộc nổi lên, đạt được những thành tựu, sau đó diệt vong vì chính mình hay vì tay của một dân tộc khác mà sau đó kế tục vị trí quyền lực của họ, chiếm lấy đất đai, viết những cái tên mới lên những tượng đài của họ; lịch sử vốn là như thế. Nếu cần phải hình tượng hóa Chúa trời và con người dưới dạng đơn giản nhất, mẹ sẽ vẽ một đường thẳng và một vòng tròn. Mẹ sẽ nói như sau về đường thẳng, ‘Đây là Chúa, vì chỉ có Người mới mãi mãi tiến thẳng,’ và nói như sau về vòng tròn, ‘Đây là con người và con đường tiến bộ của họ.’ Ở đây mẹ không có ý nói rằng không có khác biệt gì giữa thành tựu của các quốc gia; không có quốc gia nào là giống hệt nhau cả. Tuy thế, sự khác biệt không nằm ở bề rộng vòng tròn của họ hay lãnh thổ trên trái đất, mà những gì họ làm được trên đời giống như một mặt cầu, với phần đỉnh gần với Chúa nhất.
“Nếu dừng lại ở đây, chúng ta vẫn chưa hề giải quyết được những thắc mắc của con. Vậy hãy cùng đi sâu hơn. Chúng ta có những dấu hiệu để đo đạc độ cao mặt cầu mà mỗi đất nước tạo ra. Hãy cùng so sánh người Hebrew và người La Mã bằng thước đo ấy.
“Dấu hiệu đơn giản nhất chính là cuộc sống thường nhật của người dân. Về vấn đề này, mẹ chỉ muốn nói rằng người Israel đã từng có lúc lãng quên Chúa, trong khi người La Mã thì chưa bao giờ biết đến Chúa, vì thế chúng ta không thể so sánh hai dân tộc với nhau được.
“Theo mẹ hiểu, người bạn của con – hay đúng hơn người từng là bạn của con – đã nói rằng chúng ta không có nhà thơ, nghệ sĩ, hay chiến binh nào; và ý anh ta muốn chối bỏ dân tộc chúng ta đã từng sản sinh ra những con người vĩ đại, một dấu hiệu tiếp theo để đo đạc tầm vóc của một đất nước. Để nhìn nhận đúng đắn về nhận xét này, trước tiên chúng ta cần có định nghĩa rõ ràng. Một người vĩ đại, con trai của mẹ, là người mà cả cuộc đời người ấy chứng tỏ ông ta đã được Chúa ban khen, nếu không phải là được kêu gọi bởi Chúa. Một người Ba Tư đã được lựa chọn để trừng phạt những người Do Thái bỏ đạo xưa kia, và người ấy đã khiến họ bị bắt giam; một người Ba Tư khác được lựa chọn để giúp những người con của họ trở về Đất Thánh; tuy thế, vĩ đại hơn cả hai người đó là một người Macedonia đã trả thù cho sự phá hoại Judea và đền thiêng. Sự khác biệt giữa những người này là họ được Chúa lựa chọn, mỗi người lại dành cho một mục đích thiêng liêng; và việc họ là người Gentile không khiến cho vinh quang của họ bị lu mờ. Đừng quên định nghĩa này khi nghe mẹ nói tiếp.
“Nhiều người tin rằng sự nghiệp cao quý nhất của một người đàn ông, đem lại vinh quang rực rỡ nhất chính là binh nghiệp. Thế nhưng dù cả thế giới tin là vậy, con đừng để mình bị lừa. Cái mà chúng ta cần tôn thờ là giới luật vốn sẽ được duy trì mãi khi trên đời vẫn còn có những điều chúng ta không hiểu được. Lời cầu nguyện của một người man rợ là tiếng khóc than sợ hãi cầu khẩn thần Sức mạnh, tính chất thiêng liêng duy nhất mà anh ta có thể nhận biết rõ ràng; vì thế người ấy chọn tin tưởng vào người hùng ấy của mình. Jove là gì nếu không phải là một người hùng La Mã? Những người Hy Lạp xứng đáng được tôn vinh vì họ là những người đầu tiên đặt trí tuệ cao hơn sức mạnh. Ở Athens, những nhà hùng biện và triết học được tôn kính hơn là các chiến binh. Những người đua xe ngựa và những chân chạy nhanh nhất vẫn được coi là những thần tượng ngoài đấu trường, thế nhưng sự bất tử lại chỉ được dành riêng cho những ca sĩ giỏi nhất. Ở đó, bảy thành phố tranh giành nhau vinh dự là nơi ra đời của một nhà thơ. Nhưng Hy Lạp có phải là đất nước đầu tiên chối bỏ đức tin man rợ xưa kia? Không. Con trai của mẹ, vinh quang ấy thuộc về chúng ta, để chống lại sự dã man, ông cha chúng ta đã tìm đến Chúa; trong lời cầu nguyện của chúng ta, tiếng khóc than sợ hãi nhường chỗ cho những lời tụng niệm Hosanna và Psalm. Vậy nên người Hebrew và người Hy Lạp đã cùng nhau đưa cả nhân loại tiến về phía trước. Nhưng than ôi! Những người trị vì các vương quốc lại coi chiến tranh mới là thứ vĩnh cửu; vì thế, người La Mã đã đặt Caesar của mình trên cả trí tuệ và Chúa, và đó là hiện thân của tất cả quyền lực, cấm đoán mọi hình thức tôn thờ khác.
“Thời cực thịnh của Hy Lạp là giai đoạn hoàng kim của những thiên tài. Đổi lại sự tự do mà mình có được, Trí tuệ đã sản sinh ra biết bao nhiêu nhà tư tưởng? Vinh quang được dành cho tất cả những người giỏi nhất, và sự hoàn hảo của nó ở mọi lĩnh vực ngoài chiến trận đã khiến cho ngay cá những người La Mã cũng phải hạ mình mà bắt chước. Một người Hy Lạp giờ là hình mẫu của những nhà hùng biện ở Forum; hãy lắng nghe tất cả các bài hát La Mã và con sẽ nhận ra được giai điệu của Hy Lạp; nếu một người La Mã mở miệng nói những điều thông thái về đạo đức, những khái niệm trừu tượng, hoặc những điều bí ẩn của tự nhiên, đó chỉ là một kẻ đạo văn hoặc là môn đồ của một trường phái nào đó mà người Hy Lạp đã sáng lập ra. Mẹ nhắc lại rằng Rome chẳng hề có được vinh quang ở bất kì lĩnh vực nào ngoài chiến trận. Những trò chơi và những màn biểu diễn đặc sắc nhất của họ đều là phát minh của người Hy Lạp, được nhuộm máu để thỏa mãn sự cuồng dại của đám đông; tôn giáo của họ, nếu chúng ta có thể gọi như vậy, được tạo nên từ cống vật đến từ tôn giáo của những dân tộc khác, những vị thần được tôn kính nhất của họ là từ đỉnh Olympus – thậm chí ngay cả Mars, và cả thần Jove mà họ tôn sùng tột bậc. Vậy đó, con trai của mẹ, trên thế giới này chỉ có người Israel mới có thể sánh được với sự vĩ đại của người Hy Lạp, và cạnh tranh vị thế dân tộc thiên tài đệ nhất.
“Đối với sự vĩ đại của các dân tộc khác, tính tự tôn của người La Mã giống như dải băng bịt mắt anh ta, cũng khó xuyên thủng giống như tấm áo giáp. Ôi, quân trộm cướp bất lương! Dưới gót chân của chúng, thế gian rung chuyển giống như mặt đất bị nện bằng về. Cùng với những dân tộc khác, chúng ta đã bị khuất phục – mẹ rất đau buồn khi phải nói như vậy với con, con trai của mẹ! Chúng đã chiếm được vị trí cao quý nhất, thiêng liêng nhất của chúng ta, và không ai biết trước bao giờ thì điều ấy sẽ kết thúc; nhưng có một điều mẹ biết chắc chắn – chúng có thể nghiền nát Judea như một quả hạnh nhân bị nện bằng búa, và nuốt chửng Jerusalem giống như giọt dầu ngọt ngào bên trong; thế nhưng vinh quang của những người Do Thái vẫn sẽ sáng mãi trên Thiên đàng: vì lịch sử của họ là lịch sử của Chúa, người đã viết nên nó bằng bàn tay của họ, nói bằng tiếng của họ, và bản thân Người hiện hữu trong mọi điều tốt đẹp mà họ làm, thậm chí ngay cả những điều nhỏ nhoi nhất; Người từng sống cùng với họ với tư cách là nhà lập pháp trên núi Sinai, người dẫn đường ở nơi hoang vu, trong chiến trận là một nhà lãnh đạo, trong cung đình là một nhà vua; Người hết lần này đến lần khác đã vén bức màn che phủ nơi nghỉ ngơi sáng rực của mình, và giống như người nói chuyện với người, Chúa đã cho con người thấy điều phải, con đường đi tới hạnh phúc, dạy cho họ cách sống, hứa với họ những điều thiêng liêng giới hạn quyền năng của Người tức là những điều luật vĩnh cửu. Ôi con trai của mẹ, có thể nào những người từng sống cùng Jehovah và quen biết Người lại chẳng thể nào học được điều gì từ Người hay sao? Rằng trong cuộc sống và những việc làm của họ, những đặc điểm chung của loài người ở một chừng mực nào đó lại không hòa trộn chút nào sự thiêng liêng của thần thánh? Hay trí tuệ thiên tài của họ dù phải đối mặt với thử thách của thời gian lại không mang theo chút gì từ thiên đàng?”
Trong một chốc, trong căn phòng chỉ còn tiếng sột soạt của cây quạt mà thôi.
“Nếu giới hạn nghệ thuật chỉ bao gồm điêu khắc và hội họa, vậy thì đúng, Israel không có nghệ sĩ nào.” Bà nói tiếp.
Lời thú nhận này được nói với vẻ tiếc nuối, vì chúng ta cần nhớ rằng bà là một người Sadducee với đức tin khác với những người Pharisee, cho phép con người thể hiện tình yêu cái đẹp ở mọi hình thức mà không câu nệ nguồn gốc của nó.
“Thế nhưng một người công bằng,” bà nói tiếp, “sẽ không quên rằng sự khéo léo của đôi bàn tay chúng ta đã bị trói buộc bởi các sắc lệnh cấm đoán, Các người không được khắc họa bất kì thứ gì; chính là giới luật được những người Sopherim duy trì dù không còn hữu dụng nữa. Chúng ta cũng không được quên rằng từ lâu trước khi Daedalus xuất hiện ở Attica và bằng những bức tượng bằng gỗ của mình đã thay đổi hẳn diện mạo của thuật điêu khắc để sinh ra các trường phái Corinth và Aegina, tạo ra những tác phẩm vĩ đại nhất là Pecile và Capitolium – từ lâu trước thời đại Daedalus, mẹ có thể kể tên hai người Israel là Bezaleel và Aholiab, những người đã xây nên lều Hội ngộ(*) đầu tiên, được coi là siêu đẳng ‘trong mọi lĩnh vực thủ công,’ đã tạc nên thiên thần cherubim(*) trên hòm thánh. Những bức tượng ấy được cán bằng vàng chứ không phải chạm trổ và chúng mang hình tượng của cả con người và thần thánh. ‘Và họ sẽ vươn đôi cánh lên trời cao,... gương mặt hướng về phía nhau.’ Ai dám nói rằng những bức tượng ấy không đẹp, không phải là những bức tượng đầu tiên trong lịch sử loài người?”
“Ồ, giờ thì con đã thấy tại sao người Hy Lạp lại vượt qua được chúng ta,” Judah nói, rõ ràng là rất say mê với chủ đề này. “Và về chiếc hòm thánh, những người Babylon đáng nguyền rủa đã phá hủy nó!”
“Không, Judah ạ, hãy giữ vững đức tin. Nó không bị phá hủy mà chỉ thất lạc thôi, được cất giấu ở nơi quá an toàn trong một hang động nào đó trong các dãy núi. Rồi sẽ đến một ngày – cả Hillel và Shammai đều nói vậy – rồi sẽ đến một ngày mà theo ý Chúa, nó sẽ được tìm thấy và đưa ra ngoài, để những người Israel có thể nhảy múa trước nó và ca hát như xưa kia. Và khi nhìn lên gương mặt của cherubim trên đó, mặc dù đã từng nhìn thấy mặt của Minerva(*) bằng ngà voi, họ sẽ sẵn sàng hôn lên bàn tay của dân tộc Do Thái vì kính phục sự tài ba của họ dù đã bị lãng quên trong suốt hàng nghìn năm.”
Người mẹ, với những cảm xúc cuồng nhiệt của mình, đã nói thật nhanh và hùng hồn giống như một nhà hùng biện; nhưng giờ để lấy lại sức lực, hay để tìm lại dòng suy nghĩ, bà ngừng lời trong một chốc.
“Mẹ thật tài giỏi biết bao,” anh nói với vẻ biết ơn. “Và con sẽ cứ nhắc đi nhắc lại điều này mãi. Ngay cả Shammai hay Hillel cũng không thể nói hay hơn được. Giờ thì con đã trở lại là một người con của đất Israel.”
“Con nói quá rồi!” Bà đáp. “Chắc con không biết rằng mẹ chỉ đang nhắc lại những gì mình được nghe Hillel nói trong một cuộc tranh luận với một nhà triết học La Mã mà mẹ được chứng kiến.”
“Chà, nhưng những lời chân thật nhất thì vẫn là của mẹ.”
Sự nồng nhiệt của bà trở lại.
“Mẹ nói đến đâu rồi nhỉ? Ồ, phải rồi, mẹ đang nói rằng tổ tiên người Hebrew của chúng ta đã tạc nên những bức tượng đầu tiên. Những công trình của nhà điêu khắc, Judah ạ, vẫn chưa bao hàm tất cả nghệ thuật, cũng giống như nghệ thuật không bao hàm toàn bộ sự vĩ đại. Mẹ luôn luôn tưởng tượng trong đầu những người vĩ đại từ mọi thời kì hòa thuận sóng đôi theo từng nhóm dựa trên quốc tịch; ở đây là nhóm người Ấn Độ, chỗ kia là những người Ai Cập, xa nữa là những người Assyria; trên đầu họ vang lên tiếng kèn và treo những dải băng rực rỡ; những khán giả sùng kính đứng về hai bên đường nhiều vô kể, đủ các thế hệ từ thời hồng hoang. Khi họ đi như vậy, người Hy Lạp sẽ nói rằng, ‘Đất nước Hy Lạp đã lãnh đạo cả loài người.’ Rồi người La Mã nói, ‘Im lặng nào! Giờ thì vị thế đó là của chúng tôi, chúng tôi đã bỏ lại các anh phía sau giống như đất bụi bay lên sau gót giày vậy.’ Và trong suốt cuộc diễu hành đó, từ một nơi xa xăm phía sau cũng như một điểm vô định trong tương lai, tỏa ra một dải ánh sáng mà không ai biết gì về nó ngoại trừ việc nó sẽ mãi mãi dẫn dắt họ – Ánh sáng Khải huyền! Ai là người mang ánh sáng ấy? Ồ, đó chính là những người mang dòng máu Judea! Ý nghĩ này khiến ta phấn chấn! Nhờ ánh sáng đó, chúng ta có thể nhận ngay ra họ. Tổ tiên của chúng ta là những người phụng sự Chúa, gìn giữ những thỏa ước, và được Chúa ban phước ba lần! Họ là những người lãnh đạo loài người, cả người sống và người đã chết. Vị trí hàng đầu là của chúng ta và dù mỗi người La Mã trong đoàn diễu hành đó đều là một Caesar đi nữa, chúng ta sẽ không bao giờ để mất vị thế đó!”
Judah tỏ ra xúc động mãnh liệt.
“Con xin mẹ, hãy nói tiếp đi,” anh khẩn nài. “Những lời của mẹ cũng đẹp đẽ như tiếng trống lục lạc. Con chỉ chờ đợi Miriam(*) và những cô gái tới nhảy múa hát ca.”
Bà hiểu được cảm xúc của con trai mình, và suy nghĩ thật nhanh để nói sao cho lôi cuốn nhất.
“Được thôi, con trai của mẹ. Nếu con có thể nghe thấy tiếng trống lục lạc của nữ tiên tri, vậy thì con có thể làm được điều mà mẹ sắp yêu cầu đây; hãy sử dụng trí tưởng tượng của mình và đứng cùng với mẹ bên lề đường, trong khi những người lỗi lạc nhất của đất Israel bước ngang qua chỗ chúng ta ở đầu đoàn diễu hành. Giờ thì họ đang đi tới – đầu tiên là những tộc trưởng, tiếp theo là những người đứng đầu các bộ lạc. Mẹ có thể nghe thấy tiếng chuông lạc đà của họ cùng với tiếng đàn gia súc. Ai là người đang đi một mình giữa đoàn người? Một ông già, nhưng đôi mắt vẫn sáng và quyền năng trời ban của ông vẫn không suy chuyển. Ông đã từng gặp mặt Chúa trời! Là một chiến binh, nhà thơ, nhà hùng biện, nhà lập pháp, nhà tiên tri, sự vĩ đại của ông cũng rạng rỡ như ánh mặt trời buổi sáng, át đi mọi nguồn sáng khác, thậm chí cả vầng hào quang của người đầu tiên và cũng là người cao quý nhất trong hàng ngũ các Caesar. Đi phía sau ông là những phán quan. Rồi tới các vị vua – người con của Jesse, người hùng ngoài sa trường, và cũng là người cất lên những bài ca vĩnh cửu như đại dương cùng với con trai của ngài, người giàu có và thông tuệ vượt xa các vị vua khác, đã biến sa mạc trở thành nơi mà con người có thể sinh sống, giữa nơi hoang vu dựng lên những thành phố trong đó có cả Jerusalem mà Chúa đã lựa chọn để ngự trị trên trái đất. Hãy cúi mình thật thấp, con trai! Những người đi theo sau họ từ xưa đến nay chỉ có một mà thôi. Gương mặt họ ngẩng cao như thể đang lắng nghe tiếng nói vọng xuống từ Thiên đàng. Cuộc đời của họ đầy khổ đau. Quần áo của họ ám mùi hầm mộ và hang động. Hãy lắng nghe một người phụ nữ trong số đó, ‘Hãy ngợi ca Chúa, ngợi ca vinh quang của Người!’ Không, hãy quỳ áp trán xuống đất khi họ đi qua! Họ là những người truyền tin, người phụng sự Chúa, nhìn lên Thiên đàng và thấy được hết tương lai, ghi lại những điều họ thấy, và để thời gian chứng minh. Những nhà vua sợ hãi đến tái mặt khi đến gần họ, các quốc gia run rẩy khi nghe tiếng nói của họ. Những thế lực tự nhiên cũng phải kính nể họ. Trong tay họ mang theo mọi phước lành và mọi tai họa. hãy nhìn Tishbite(*) và tùy tùng của ngài là Elisha! Hãy nhìn người con trai buồn bã của Hilkiah(*), và chính ngài, người đã nhìn thấy những điềm báo bên bờ sông Chebar! Và trong ba người con của Judah đã từ chối cúi mình trước hình tượng Hoàng đế của của người Babylon(*). Hãy nhìn người đã khiến những nhà chiêm tinh phải kinh ngạc trong bữa tiệc của một nghìn nhà quý tộc(*). Và kìa, hãy hôn lên mặt đất một lần nữa! Kia là con trai của Amoz, người đã truyền lại cho thế giới lời hứa về sự giáng lâm của đấng Cứu thế!”
Trong khi bà nói, cái quạt càng vung lên nhanh hơn. Rồi bà ngừng tay, hạ thấp giọng.
“Con mệt rồi,” bà nói.
“Không,” anh đáp, “Con như đang được lắng nghe một bài hát mới ngợi ca đất nước Israel của chúng ta.”
Người mẹ vẫn không quên mục đích của mình và bỏ qua lời khen ngợi của người con.
“Judah ạ, mẹ đã cố gắng mô tả rõ ràng hết mức có thể về những người vĩ đại của dân tộc chúng ta – những tộc trưởng, nhà lập pháp, chiến binh, ca sĩ và nhà tiên tri. Hãy nhìn sang những con người vĩ đại nhất của Rome. Hãy so sánh Moses với Caesar và Tarquin với David; hãy so sánh Sylla với một trong các anh em Maccabee; hãy so sánh những quan chấp chính với các phán quan; hãy so sánh Augustus với Solomon, và con sẽ hiểu ra tất cả: chẳng cần gì phải so sánh thêm nữa. Những hãy nghĩ tới những nhà tiên tri – những người lỗi lạc nhất trong số các vĩ nhân.”
Bà bật cười vẻ chế giễu.
“Hãy thứ lỗi cho mẹ. Mẹ đang nghĩ tới ông thầy bói đã cảnh báo Caius Julius(*) về ngày mười lăm tháng Ba, tưởng tượng ra cảnh ông ta đang tìm dấu hiệu của quỷ dữ mà chủ nhân của ông ghê tởm trong ruột một con gà. Từ hình ảnh đó, hãy nhìn sang Elijah đang ngồi trên đỉnh đồi trên đường đến Samaria, giữa những thi thể cháy đen bốc khói của các đội trưởng cùng binh đoàn của mình, cảnh báo người con của Ahab về cơn thịnh nộ của Chúa(*). Cuối cùng, ôi Judah của mẹ – nếu chúng ta được phép so sánh – làm sao ta có thể đánh giá Jehovah và Jupiter nếu không dựa vào những gì mà những người phụng sự họ đã làm? Và giờ hãy nói về những gì mà con nên làm...”
Bà nói những lời sau cùng này thật chậm rãi, giọng run run.
“Giờ hãy nói về những gì mà con nên làm, con trai của mẹ – hãy phụng sự Chúa, Chúa của người Israel chứ không phải của Rome. Vì với một người con của Abraham, trên đời không có vinh quang nào ngoài đi theo con đường của Chúa và ở đó con sẽ được vinh hiển.”
“Vậy thì con có thể trở thành một người lính?” Judah hỏi.
“Tại sao lại không? Chẳng phải Moses đã gọi Chúa là một chiến binh hay sao?”
Sự im lặng kéo dài trong căn phòng nghỉ mùa hè.
“Mẹ cho phép con,” cuối cùng bà nói; “nếu con phụng sự cho Chúa chứ không phải Caesar.”
Anh tỏ ra hài lòng sau khi nghe những lời này, và một lúc sau thì ngủ thiếp đi. Bà đứng dậy, đặt cái gối dưới đầu anh, quàng một tấm chăn lên người anh rồi nhẹ nhàng trao cho anh một nụ hôn trước khi rời đi.