Chương VI Tai nạn của Gratus
Con người dù tốt dù xấu thì rồi cũng phải chết; nhưng theo đức tin của mình, chúng ta vẫn nói về anh ta thế này, “Dù thế nào đi nữa khi lên đến Thiên đàng thì người ấy sẽ lại mở mắt.” Trong đời thực, việc tỉnh giấc sau một giấc ngủ ngon lành để rồi nhanh chóng nhận ra những âm thanh và hình ảnh tươi đẹp xung quanh có lẽ là gần giống nhất với cảm giác này.
.
Khi Judah tỉnh dậy, mặt trời đã treo cao trên những đỉnh núi, những con bồ câu đã ùa ra ngoài thành từng đàn, đập những đôi cánh trắng muốt trong không trung. Về phía Đông Nam, anh nhìn thấy đền thờ ánh lên màu vàng rực giữa nền trời xanh. Tuy thế, đó là những thứ đã quá quen thuộc khiến anh chỉ liếc nhìn qua mà thôi. Bên rìa chiếc pan, ở ngay gần anh là một cô gái chỉ mới chừng mười lăm tuổi đang ngồi hát theo tiếng cây đàn nebel mà cô đặt trên đùi, gảy bằng những ngón tay thanh thoát. Anh lắng nghe bài hát của cô:
“Đừng tỉnh giấc, mà hãy nghe em, người thương!
Trôi nổi trên đại dương của giấc ngủ,
Linh hồn anh tìm đến em.
Đừng tỉnh giấc, mà hãy nghe em, người thương!
Món quà từ Giấc ngủ, vị vua của sự nghỉ ngơi,
Là những giấc mơ đẹp em mang tới.
“Đừng tỉnh giấc, mà hãy nghe em, người thương!
Giữa những giấc mơ mà anh lựa chọn
Hãy tìm giấc mơ thần thánh nhất.
Hãy chọn, và ngủ đi, người thương!
Nhưng đừng lựa chọn dễ dãi
Trừ khi anh mơ về em.”
Cô đặt cây đàn xuống, để tay trên đùi rồi chờ anh nói trước. Và vì cần phải mô tả cô đôi chút, chúng ta hãy tận dụng cơ hội này để miêu tả thêm thông tin chi tiết về đời sống riêng của gia đình mà độc giả có thể muốn biết.
Ân sủng của Herod đã giúp nhiều người cho tới sau triều đại của ông vẫn sở hữu những khối tài sản lớn. Khi sự giàu có này lại được kết hợp với dòng dõi cao quý vốn là hậu duệ của những người vĩ đại nhất trong các bộ tộc, đặc biệt là Judah, người may mắn ấy sẽ được gọi là ông hoàng Jerusalem – một danh hiệu đủ để khiến những người xung quanh phải kính nể, và thậm chí khiến cả những người Gentile cũng phải tôn trọng khi công việc và tiếp xúc xã hội khiến họ phải giao tiếp với nhau. Trong những người thuộc đẳng cấp này không có ai được trọng vọng như cha của chàng trai mà chúng ta đang theo dõi. Mặc dù vẫn luôn ghi nhớ mình vốn thuộc dân tộc nào, ông vẫn trung thành phục vụ nhà vua cả trong nước lẫn khi xuất ngoại. Công việc đưa ông tới Rome, nơi Augustus để mắt tới ông, và chính Hoàng đế đã không ngần ngại kết bạn với ông. Trong ngôi nhà của ông vì thế cũng chứa đựng rất nhiều món quà thể hiện sự phù phiếm của các nhà vua – những dải khăn choàng mùa tím, những cái ghế bằng ngà, những chiếc đĩa bằng vàng – vốn chủ yếu có giá trị vì bàn tay vương giả đã trao chúng cho ông. Một người như vậy chắc chắn là rất giàu có, thế nhưng sự giàu có của ông không hoàn toàn là nhờ ân sủng của nhà vua. Ông đã tỏ ra sẵn lòng chấp thuận những điều luật cản trở mình trong một số lĩnh vực làm ăn và ông thì lại sẵn sàng dấn thân vào bất kì lĩnh vực nào. Trong số những người chăn gia súc trên những bình nguyên và những sườn đồi xa tận Lebanon, nhiều người coi ông là chủ nhân của mình; trong những thành phố bên bờ biển và cả những thành phố sâu trong đất liền, ông cho mở nhà giao thương; những con tàu của ông mang về thứ bạc từ Tây Ban Nha, nơi được biết đến với những hầm mỏ lớn nhất. Trong khi đó, đoàn xe thương lái của ông mỗi năm lại đến đây hai lần từ phương Đông, mang theo đủ thứ lụa là và gia vị. Về mặt đức tin, ông là một người Hebrew chuẩn mực, luôn luôn tuân thủ giới luật và mọi lễ nghi quan trọng, thường xuyên đến đền thờ. Ngoài ra ông cũng thông thạo sách kinh, thích thú được tham gia vào cộng đồng những học giả và tôn trọng Hillel tới mức gần như sùng kính. Thế nhưng ông không phải là người theo phái Ly khai, những người không quen biết từ mọi vùng đất đều được hưởng lòng hiếu khách của ông. Những người Pharisee khó tính thậm chí còn buộc tội ông đã từng tiếp nhiều người Samaria ở bàn ăn của mình. Giá như giờ ông vẫn còn sống với tư cách một người Gentile, hẳn là cả thế giới đã được biết về ông như một đối thủ cạnh tranh đáng gờm của Herodes Atticus(*): thực tế thì ông đã qua đời ngoài biển khơi khoảng mười năm trước phần thứ hai trong câu chuyện của chúng ta giữa lúc hãy còn mạnh khỏe, khiến mọi người trên khắp đất Judea phải tiếc thương. Chúng ta đã làm quen với hai người trong gia đình của ông – người vợ góa và người con trai; người còn lại là con gái ông – chính là cô gái vừa hát cho anh trai của mình nghe.
Tên cô là Tirzah. Khi hai người nhìn nhau, chúng ta có thể nhận thấy họ giống nhau đến mức nào. Những đường nét của cô cũng cân đối như của anh trai, mang đặc trưng của người Do Thái. Cả hai cùng có nét mặt quyến rũ theo kiểu ngây thơ của trẻ nhỏ. Sống trong nhà và được chiều chuộng cho phép cô ăn vận có phần sơ sài. Một chiếc áo rộng được cài khuy ở vai phải, buông xuống ngực và lưng dưới cánh tay trái, nhưng chỉ che một nửa người còn hai cánh tay để trần. Một cái đai được đeo giữa những nếp gấp của cái áo, và bên dưới cô bận chân váy. Thứ cô đội trên đầu cũng rất đơn giản – một chiếc mũ lụa màu tím, phía trên túm một dải khăn sọc cũng bằng lụa được thêu rất đẹp, quấn thành những lớp mỏng để vẫn nhìn thấy đường nét nhưng không gây cảm giác đầu bị to ra và cuối cùng là một quả tua buông xuống từ chính giữa. Cô mang nhẫn và khuyên tai, vòng tay và vòng chân, tất cả đều bằng vàng. Cô đeo quanh cổ một chiếc vòng vàng trang trí khéo léo bằng những dây xích nhỏ xíu treo những viên ngọc trai. Cô kẻ đuôi mắt và những đầu ngón tay được nhuộm mực. Mái tóc cô buông xuống lưng thành hai bím dài. Một lọn tóc xoăn cuộn lại trên gò má trước tai. Tất cả kết hợp hài hòa đến nỗi không ai có thể chối bỏ sự thanh nhã và vẻ đẹp của cô.
“Đẹp lắm, Tirzah, đẹp lắm!” Anh vui vẻ nói.
“Bài hát à?” Cô hỏi.
“Phải – và cả người hát nữa. Nó chứa đựng những hình ảnh ẩn dụ hoa mỹ kiểu Hy Lạp. Em học được nó từ đâu vậy?”
“Anh còn nhớ người Hy Lạp đã biểu diễn ở nhà hát tháng trước không? Người ta nói rằng anh ấy từng là ca sĩ trong cung đình của vua Herod và em gái của nhà vua là Salome. Anh ấy bước ra sân khấu sau màn đấu vật, khi cả khán phòng hãy còn ồn ào. Ngay từ nốt nhạc đầu tiên, mọi thứ đã im lặng đến nỗi em có thể nghe rõ từng từ. Em đã học được bài hát này từ anh ấy đấy.”
“Nhưng anh ấy hát bằng tiếng Hy Lạp mà.”
“Còn em thì hát bằng tiếng Hebrew.”
“À phải. Anh rất tự hào vì em. Em còn biết bài hát nào cũng hay như vậy không?”
“Còn nhiều lắm, nhưng để lúc khác. Amrah đã bảo em tới nói với anh rằng bà ấy sẽ mang cho anh bữa sáng và anh không cần phải xuống nhà. Tới giờ này chắc bà ấy cũng sắp lên rồi. Bà ấy tưởng là anh bị ốm – vì một chuyện kinh khủng đã xảy ra với anh ngày hôm qua. Có chuyện gì vậy anh? Hãy kể cho em nghe và em sẽ giúp Amrah chăm sóc anh. Bà ấy biết hết những phương thuốc của người Ai Cập, những kẻ vẫn luôn khá ngờ nghệch; nhưng em cũng biết vô số các phương thuốc của những người Arab vốn là...”
“Vốn là những người thậm chí còn ngờ nghệch hơn cả người Ai Cập,” anh nói và lắc đầu.
“Anh nghĩ thế à? Được thôi,” cô đáp, gần như không ngừng lại và đặt hai bàn tay lên tai trái anh. “Thế thì chúng ta sẽ chẳng hề dùng đến bất kì loại thuốc nào như thế nữa. Ở đây em có một thứ hiệu nghiệm hơn nhiều chiếc bùa hộ mệnh mà một vài người Do Thái chúng ta đã nhận được – em không thể biết là từ bao giờ vì xa xưa quá rồi – từ tay một pháp sư người Ba Tư. Anh xem này, phần chữ khắc bên trên đã gần mờ hết.”
Cô đưa cho anh cái hoa tai. Anh nhận lấy nó, sau đó trả lại và phá lên cười.
“Tirzah ơi, nếu anh sắp chết đi nữa thì cũng chẳng dám dùng đến tấm bùa này đâu. Đó chỉ là một thứ tàn tích của tôn giáo xưa kia và không một người con trai con gái ngoan đạo nào của Abraham được phép dùng đến. Hãy cầm lấy nó, nhưng đừng đeo nó nữa.”
“Bị cấm à? Không phải đâu,” cô nói. “Bà nội của chúng ta đã mang nó theo trong không biết bao nhiêu buổi lễ Sabbath trong đời mình. Nó đã giúp chữa trị cho không biết bao nhiêu người – ít nhất là phải nhiều hơn ba người. Điều này đã được chứng nhận – anh nhìn đây, có cả dấu của các rabbi.”
“Anh thì lại không tin vào bùa chú.”
Cô ngạc nhiên hướng mắt lên nhìn anh.
“Amrah sẽ nói gì đây?”
“Cha mẹ của Amrah chỉ quay bánh xe nước cho một khu vườn ở sông Nile mà thôi.”
“Nhưng còn nhà thông thái Gamaliel!”
“Ông ấy nói rằng chúng là những phát minh vô thần của những kẻ không có đức tin và dân Shechem.”
Tirzah nghi ngờ nhìn cái khuyên tai.
“Em nên làm gì với nó đây?”
“Hãy đeo nó đi, em gái ạ. Nó trở thành một phần của em – nó giúp em trở nên đẹp đẽ, mặc dù anh thấy chưa cần mang em đã đủ đẹp lắm rồi.”
Hài lòng, cô đeo cái bùa chú lên tai vừa đúng lúc Amrah bước vào phòng, mang theo một cái khay đựng chậu rửa, nước, và khăn lau.
Vì không phải là người Pharisee, việc rửa ráy với Judah cũng nhanh chóng và đơn giản. Người phục vụ bước ra ngoài, để lại Tirzah chải tóc cho anh. Khi một lọn tóc được chải theo đúng ý mình, cô cởi một cái gương con mà những cô gái quý tộc vẫn hay đeo ở đai lưng và đưa nó cho anh để anh ngắm nhìn thành quả của cô, để anh thấy mình điển trai lên như thế nào. Trong khi đó, hai người vẫn trò chuyện với nhau.
“Em nghĩ sao, Tirzah? Anh sắp ra đi đấy.”
Cô kinh ngạc buông thõng hai tay.
“Ra đi! Khi nào? Đi đâu? Vì sao?”
Anh phá lên cười.
“Một hơi hỏi những ba câu! Em là người mới kì diệu làm sao!” Rồi ngay lập tức anh lấy lại vẻ nghiêm túc. “Em cũng biết điều luật yêu cầu anh phải chọn một nghề nghiệp. Người cha tốt bụng của chúng ta là một tấm gương vĩ đại. Nhưng thậm chí ngay cả em cũng sẽ ghét bỏ anh nếu anh lười biếng chỉ biết thụ hưởng thành quả những việc làm và sự thông thái của ông. Anh sẽ lên đường đến Rome.”
“Ồ, em sẽ đi cùng anh.”
“Em phải ở lại đây với mẹ. Nếu cả hai cùng đi, mẹ sẽ chết mất.”
Sự vui vẻ biến mất khỏi gương mặt cô.
“À, phải, phải! Nhưng... anh có bắt buộc phải đi không? Ở Jerusalem này anh có thể học mọi thứ cần thiết để trở thành một thương gia – nếu đó là điều mà anh đang nghĩ tới.”
“Nhưng anh không nghĩ tới điều đó. Luật không bắt buộc con trai phải theo nghiệp cha.”
“Thế thì anh định làm gì?”
“Một chiến binh,” anh tự hào đáp.
Những giọt lệ dâng lên trong mắt cô.
“Người ta sẽ giết anh mất.”
“Nếu đó là ý Chúa thì chúng ta phải tuân phục. Nhưng Tirzah ơi, không phải tất cả những người lính đều bỏ mạng cả đâu.”
Cô choàng tay qua cổ anh như thể để giữ anh lại.
“Chúng ta đang hạnh phúc như thế này cơ mà! Hãy ở lại đi, anh trai của em.”
“Điều ấy không thể duy trì được mãi. Chính em chẳng bao lâu nữa cũng phải rời khỏi đây mà.”
“Không bao giờ!”
Anh mỉm cười vì vẻ quyết liệt của cô em gái.
“Một ông hoàng Judah, hay một chàng trai dòng dõi nào đó không lâu nữa sẽ đến rước Tirzah của anh, để em trở thành ánh sáng trong một gia đình khác. Khi đó anh sẽ thế nào?”
Cô đáp lại bằng những tiếng nức nở.
“Chiến tranh cũng là một nghề,” anh nói tiếp, có phần nghiêm nghị hơn. “Để học hỏi kĩ càng, người ta cũng phải đến trường học, và trên đời không có ngôi trường nào tốt hơn là trại lính La Mã.”
“Anh sẽ không chiến đấu vì La Mã chứ?” Cô nín thở hỏi.
“Và em – thậm chí em cũng căm ghét La Mã. Cả thế giới căm thù La Mã. Tirzah của anh, trong đó em có thể tìm thấy lí do cho câu trả lời mà anh sẽ nói với em. Phải, anh sẽ chiến đấu vì La Mã, nếu đổi lại họ dạy anh cách để một ngày chống lại La Mã.”
“Anh sẽ đi đâu?”
Hai người nghe thấy tiếng chân của Amrah trở lại.
“Suỵt!” anh nói. “Đừng để bà ấy biết anh đang nghĩ gì.”
Người nô lệ trung thành bước vào mang theo bữa sáng, đặt cái khay lên một chiếc ghế trước mặt họ; sau đó bà vắt những chiếc khăn trắng lên cánh tay, sẵn sàng phục vụ. Họ chấm những ngón tay vào một bát nước, rửa cho sạch, nhưng đúng lúc đó một tiếng động bên ngoài khiến họ phải chú ý. Hai người lắng nghe, và nhận ra tiếng nhạc hành khúc trên con phố ở mặt phía Bắc của ngôi nhà.
“Chính là binh lính từ doanh trại! Anh phải ra nhìn họ mới được,” anh kêu lên, nhảy xuống khỏi ghế và chạy ra ngoài.
Thoáng chốc sau anh đã nghiêng mình qua lan can lát gạch ở góc phía Đông Bắc, chăm chú nhìn đến nỗi không nhận ra Tirzah đã đến bên mình và đặt tay lên vai anh.
Nơi quan sát của họ – mái nhà cao nhất trong cả khu phố – nổi bật lên giữa những căn nhà khác về phía đông, chỉ chịu kém mỗi tòa tháp Antonia đã được nhắc đến là thành lũy của quân lính và là đại bản doanh của tướng quân. Con phố bên ngoài chỉ rộng mười feet là cùng, bên trên có những cây cầu cả có mái lẫn không có mái bắc ngang qua và cũng giống như những mái nhà xung quanh, chúng cũng chật ních những đàn ông, đàn bà và trẻ con bị tiếng nhạc thu hút. Gọi là nhạc thì cũng không hẳn là đúng, cái mà họ nghe thấy khi bước ra giống một tràng tiếng kèn trận chát chúa và kèn dài chói tai mà những người lính vẫn ưa thích.
Một lúc sau binh đoàn hiện ra trước mắt hai anh em nhà Hur. Đi đầu là một toán những người lính được trang bị nhẹ – chủ yếu là dùng ná bắn đá hoặc cung tên – đang tiến bước, các hàng dọc và hàng ngang cách xa nhau; sau đó là tới bộ binh nặng, mang theo những tấm khiên lớn và những cây giáo dài giống như đã từng được sử dụng trong các cuộc quyết đấu trước trận Ilium; tiếp sau là các nhạc công và rồi một sĩ quan cưỡi ngựa một mình, theo sát phía sau là một toán kỵ binh. Sau đó lại đến một binh đoàn bộ binh mang trang bị nặng nề đi sát nhau choán hết cả con phố, kéo dài tưởng như vô tận.
Những người đàn ông chân tay vạm vỡ; những chiếc khiên chuyển động đều đặn sang trái rồi sang phải; những bộ áo giáp, đai, giáp che ngực và mũ sáng loáng; cái ngù lông phấp phới trên cái mào cao; những phù hiệu và giáo bằng sắt vung lên đều đặn; những bước chân dũng mãnh, tự tin, theo nhịp vô cùng chính xác; dáng điệu vừa nghiêm trang vừa cảnh giác; sự nhất thống giống như một cỗ máy của đoàn người này khiến Judah ấn tượng sâu sắc, nhưng ấn tượng ấy cứ như một cảm giác mơ hồ nhiều hơn là hình ảnh cụ thể. Có hai thứ khiến anh để tâm – con đại bàng của binh đoàn lê dương đi đầu – một huy hiệu được dát vàng ở đầu một cây gậy dài, với đôi cánh mở rộng rồi khép lại trên đầu. Anh biết rằng khi mang nó khỏi tòa tháp, người ta đã phải tỏ ra kính trọng như thế nào.
Viên sĩ quan cưỡi ngựa một mình đi giữa đoàn quân là điều thứ hai khiến anh chú ý. Ông ta để đầu trần, còn cả người bận áo giáp kín mít. Ở bên hông trái ông đeo một thanh kiếm ngắn, thế nhưng tay lại cầm một cây trượng ngắn trông giống như một cuộn giấy. Ông ngồi trên một tấm vải màu tím thay cho yên ngựa. Tấm vải đó cùng với đôi bàn đạp dát vàng và bộ cương bằng lụa vàng có tua dài chính là tất cả những gì họ đeo cho con ngựa.
Trong khi người đàn ông ấy hãy còn ở xa, Judah đã nhận ra rằng sự hiện diện của ông là đã đủ để khiến tất cả những người đang quan sát nổi cơn thịnh nộ. Họ nghiêng mình qua lan can hoặc đứng hẳn ra ngoài, giơ nắm đấm về phía ông; họ họ hét lên khi đi theo ông, nhổ vào ông khi ông đi qua dưới những cây cầu bắc ngang; những người phụ nữ thậm chí còn ném những đôi xăng đan, đôi khi tưởng như cố ý nhắm cho trúng. Khi ông ta tới gần, người ta bắt đầu nghe rõ những tiếng kêu gào – “Đồ kẻ cướp, đồ bất nhân, chó săn của La Mã! Ishmael hãy xéo đi! Trả lại Hannas cho ta!”
Khi họ đến gần, Judah có thể nhận thấy ông không mang vẻ thản nhiên như những người lính; gương mặt của ông đen sạm và u ám, ánh nhìn mà thỉnh thoảng ông ném về phía những người đang mắng chửi mình chứa đầy sự độc ác, và nó khiến những kẻ nhát gan phải thu mình lại.
Judah vốn biết theo tục lệ La Mã từ thời Caesar đệ nhất, viên chủ tướng khi xuất hiện ở nơi công cộng sẽ chỉ đeo một vòng nguyệt quế trên đầu để thể hiện cấp bậc. Nhờ thế anh nhận ra ngay viên sĩ quan này – VALERIUS GRATUS, TỈNH TRƯỞNG MỚI CỦA JUDEA!
Nói thật lòng, viên sĩ quan La Mã đang đi giữa cơn bão những lời phỉ báng kia lại khiến chàng trai người Do Thái trẻ tuổi thấy có cảm tình; vậy nên khi ông đi tới chỗ góc ngôi nhà của anh, Judah nghiêng người xa hơn nữa ra khỏi lan can để nhìn ông, vô tình đặt tay lên một viên đá lát đã nứt và bong ra từ lâu. Bàn tay anh đủ nặng để khiến một miếng phía bên ngoài long ra rồi rơi xuống. Chàng trai trẻ sợ hãi đến rùng mình. Anh vươn tay ra để bắt lấy nó. Thế nhưng cử động ấy nhìn bên ngoài thì lại hệt như một kẻ đang ném viên gạch đi. Những cố gắng của anh là vô ích – thậm chí nó còn khiến mảnh vỡ rơi ra xa bức tường hơn. Anh lấy hết sức kêu lên một tiếng. Những người lính bảo vệ ngẩng lên, cả viên sĩ quan cũng vậy, để rồi đúng lúc ấy viên gạch rơi trúng ông, khiến ông ngã nhào khỏi lưng ngựa như đã chết rồi.
Cả đoàn người đứng khựng lại. Đám lính bảo vệ nhảy xuống khỏi lưng ngựa, vội vã chạy đến giơ khiên ra bảo vệ viên sĩ quan. Trong lúc đó, những người chứng kiến cảnh đó lại tin chắc rằng viên gạch được ném ra một cách cố ý, và họ đồng thanh hò reo tán thưởng chàng thanh niên khi ấy hãy còn đang cúi người bên trên lan can, sững sờ bởi những gì mình đang nhìn thấy và vì nhận ra những hậu quả ghê gớm sắp giáng xuống đầu.
Sự cuồng nộ lan ra nhanh chóng giữa những người đứng trên các mái nhà cạnh con đường, khiến họ hùa theo hành động của anh. Họ tì tay lên lan can, gỡ những viên gạch lát và thứ đất nung vốn là vật liệu chính xây nên những mái nhà này, sau đó điên cuồng ném về phía đám lính lê dương bên dưới. Một cuộc giao tranh nổ ra. Đương nhiên, tính kỷ luật cuối cùng vẫn thắng. Cuộc đánh lộn, chém giết, sự thiện chiến của bên này đối đầu với sự liêu mạng của bên kia, tất cả đều không liên quan quá mật thiết đến câu chuyện của chúng ta. Hãy nhìn sang người tội nghiệp đã gây nên tất cả những chuyện đó.
Anh đứng lên khỏi lan can, mặt tái mét.
“Ôi Tirzah, Tirzah! Chúng ta sẽ ra sao đây?”
Cô không nhìn thấy những chuyện xảy ra bên dưới, nhưng đã nghe được tiếng hò hét và quan sát những người ở các mái nhà xung quanh. Có điều gì kinh khủng đang xảy ra, cô biết thế; nhưng nó là gì và nguyên nhân tại sao, hay liệu bản thân cô và những người thân thuộc có vì thế mà rơi vào hiểm nguy hay không thì cô không biết được.
“Có chuyện gì thế? Tất cả những cái đó nghĩa là gì?” Cô giật mình hỏi.
“Anh giết chết viên tỉnh trưởng La Mã rồi. Viên gạch đã rơi chúng ông ta.”
Một bàn tay vô hình hiện ra rắc tàn tro khiến gương mặt cô nhăn lại và trắng bệch ra tức khắc. Cô quàng tay quanh vai anh, nhìn thẳng vào đôi mắt anh với vẻ thảng thốt. Nỗi sợ hãi của anh đã lan sang cô, và hình ảnh đó khiến anh vững tâm trở lại.
“Anh không cố tình làm thế, Tirzah – đó là một tai nạn,” anh nói với vẻ bình tĩnh hơn.
“Người ta sẽ làm gì đây?” Cô hỏi.
Anh nhìn sự hỗn loạn dưới phố và trên các mái nhà, và nhớ lại gương mặt u ám của Gratus. Nếu không chết, sự trả thù của ông ta sẽ đi đến đâu? Và nếu ông ta đã chết, hành động của đám đông sẽ khiến binh đoàn lê dương trở nên bạo tàn đến thế nào? Để tránh không phải trả lời những câu hỏi đó, anh nhìn qua lan can một lần nữa, đúng lúc toán hộ vệ đang giúp viên tỉnh trưởng ngồi lên ngựa.
“Ông ấy còn sống, ông ấy còn sống, Tirzah! Chúa trời của chúng ta mới nhân từ làm sao!”
Sau khi thốt lên như vậy, với gương mặt rạng rỡ, anh lùi lại và đáp lại câu hỏi của em gái.
“Đừng sợ, Tirzah. Anh sẽ giải thích tai nạn ấy đã xảy ra như thế nào, và họ sẽ nhớ đến những công lao của cha chúng ta mà không làm phương hại đến ta.”
Anh dẫn cô tới chỗ căn nhà mùa hè, đúng lúc cả mái nhà như rung lên dưới chân họ, tiếng gỗ cứng gãy răng rắc cùng với tiếng kêu thảng thốt vì kinh ngạc và đau đớn vang lên từ khoảng sân bên dưới. Anh dừng lại và lắng nghe. Tiếng kêu đó cứ lặp đi lặp lại, rồi có tiếng chân của rất nhiều người, những tiếng nói giận dữ hòa với tiếng cầu nguyện; rồi đến những tiếng thét kinh hoàng của những người phụ nữ. Đám lính đã phá cửa phía Bắc và giờ đã ùa vào ngôi nhà. Cảm giác kinh khủng của con mồi bị săn đuổi khiến anh cứng cả người. Phản xạ đầu tiên của anh là bay đi; nhưng đi đâu? Chỉ có mọc cánh anh mới thoát khỏi nơi đây. Tirzah bám chặt lấy cánh tay anh, đôi mắt ngập tràn nỗi sợ hãi.
“Judah ơi, thế này là sao?”
Những người hầu trong nhà đang bị đánh đập – và còn cả mẹ anh nữa! Chẳng phải anh đã nghe thấy tiếng bà dưới kia hay sao? Anh đáp lại, mặt không còn thần sắc, “Ở đây chờ anh, Tirzah. Anh sẽ đi xuống xem thế nào và trở lên sau.”
Giọng anh không chắc nịch như anh muốn. Cô càng áp chặt vào anh hơn.
Tiếng kêu của mẹ anh vang lên rõ hơn, the thé, lần này không còn nghi ngờ gì nữa. Anh không thể do dự thêm.
“Thế thì ta cùng đi nào.”
Ban công bên dưới chân cầu thang chật ních bọn lính. Những tên khác gươm tuốt trần chạy ra chạy vào căn nhà. Những người phụ nữ quỳ tụm lại một chỗ và cầu xin đám lính nương tay. Còn một người nữa với bộ áo bị xé rách, mái tóc dài xõa xuống lòa xòa trên gương mặt, đang cố vật lộn thoát khỏi tay một tên lính được phân chỉ để giữ lấy bà. Tiếng thét của bà vang lên thảm thiết nhất; xuyên qua những tiếng ồn ào khác lên tới tận trên mái nhà. Judah lao bổ về phía bà – sải chân của anh dài và nhanh nhẹn, tưởng như cất cánh bay vậy. “Mẹ! Mẹ!” Anh kêu lên. Bà vươn tay về phía anh; nhưng khi gần chạm tới thì tên lính đã túm lấy bà và giật sang một bên. Rồi anh nghe thấy một người nói lớn,
“Chính là nó!”
Judah quay sang nhìn, và thấy đó là Messala.
“Tên này là kẻ ám sát hay sao?” Một người đàn ông cao lớn trong bộ áo giáp bóng loáng đáp. “Nó chỉ là một đứa nhóc thôi.”
“Hỡi các thần linh!” Messala đáp, không quên kéo dài giọng như thường lệ. “Quả là một triết lí mới! Seneca sẽ nói gì trước luận điểm rằng một người phải đủ tuổi thì mới đủ căm thù mà giết người? Ông đã bắt được nó, còn đây là mẹ nó, kia là em gái nó. Ông đã tóm gọn cả nhà nó rồi.”
Vì tình thương dành cho mọi người, Judah đã quên đi cuộc cãi vã giữa hai người.
“Hãy cứu lấy họ, Messala của tôi! Hãy nhớ về tuổi thơ của chúng ta và cứu lấy họ. Tôi – Judah – đang cầu xin anh đấy.”
Messala dường như không nghe thấy gì.
“Tôi không còn làm được gì để giúp cho ông nữa,” hắn nói với viên sĩ quan. “Ngoài phố còn lắm chuyện hay ho. Đả đảo Eros, Mars vạn tuế!”
Nói xong hắn biến ra cửa. Judah hiểu những lời hắn nói và trong cơn đau đớn của linh hồn, anh hướng lên Thiên đàng mà cầu nguyện.
“Trong giờ phút phục thù, hỡi Thượng đế,” anh nói, “hãy để bàn tay con kết liễu cuộc đời hắn.”
Anh gắng sức nhích lại gần viên sĩ quan.
“Thưa ngài, người phụ nữ mà ngài vừa nghe thấy đó là mẹ tôi. Xin hãy tha cho bà, và tha cho em gái của tôi đằng kia. Chúa trời rất công bằng và Người sẽ trao cho cho ông sự độ lượng nếu ông cho đi lòng vị tha.”
Người kia có vẻ cảm động.
“Hãy đưa hết tất cả về pháo đài, kể cả phụ nữ!” Ông ta nói lớn, “nhưng không được làm hại họ. Đó là mệnh lệnh.” Sau đó, với những người đang giữ Judah, ông ta nói, “Lấy dây trói tay nó lại, và đưa nó ra phố. Sự trừng phạt đang chờ đợi hắn.”
Người mẹ bị lôi đi. Tirzah bé nhỏ trong bộ y phục mặc trong nhà, sững sờ vì sợ hãi, cam chịu bước theo bọn lính. Judah nhìn hai người một lần cuối cùng, đưa hai tay lên che mặt như để ghi nhớ vĩnh viễn cảnh tượng đau đớn này. Có lẽ anh đã nhỏ lệ, mặc dù không ai nhìn thấy.
Trong anh diễn ra một thứ mà chúng ta chỉ có thể gọi là một điều kì diệu. Độc giả tinh ý khi đọc những trang này hẳn đã đoán ra chàng thanh niên Do Thái này vốn hiền lành đến mức như một cô gái – kết quả của thói quen cho đi và nhận lại tình yêu từ tất cả mọi người. Những sự việc vừa diễn ra vẫn chưa hề khơi dậy những phần cứng rắn hơn trong anh, nếu quả thực con người anh ẩn chứa chúng. Đã có lúc anh cảm thấy sự xao động của tham vọng, nhưng chúng chỉ giống như những giấc mơ không thành hình của một đứa trẻ thức giấc bên bờ biển ngắm nhìn những con tàu vĩ đại đến và đi. Nhưng giờ nếu tưởng tượng một tượng thánh vốn được những người xung quanh sùng kính nhưng rồi bất chợt bị vứt khỏi bàn thờ, nằm lăn lộn giữa đống đổ nát của cái thế giới nhỏ bé tràn đầy tình yêu mến trước kia, ta sẽ hiểu được phần nào những điều vừa xảy ra với Ben-Hur trẻ tuổi và ảnh hưởng của chúng lên con người anh. Thế nhưng không hề có dấu hiệu gì cho thấy anh đã thay đổi, ngoại trừ việc khi anh ngẩng cao mái đầu, đưa hai cánh tay để bị trói, cánh cung của Cupid đã biến mất khỏi đôi môi anh. Trong khoảnh khắc, anh đã bỏ lại thời niên thiếu và trở thành một người đàn ông.
Tiếng kèn vang lên trong sân. Khi tiếng hiệu lệnh đã dứt, bọn lính rời khỏi ban công; nhiều tên vì sợ không dám xuất hiện trong hàng ngũ mà vẫn cầm đồ ăn cướp trong tay nên đành ném chúng xuống sàn, để rồi chẳng bao lâu trên mặt đất đã la liệt những món đồ quý giá nhất. Khi Judah đi xuống, đám lính đã dàn thành đội hình và viên sĩ quan chờ đợi mệnh lệnh của mình được thực hiện.
Người mẹ, con gái, và toàn bộ những người khác trong nhà bị dẫn ra khỏi cổng phía Bắc lúc trước đã bị húc đổ nằm chắn ngang đường. Tiếng kêu của các gia nhân, một vài trong số họ đã sinh ra trong căn nhà này, mới thật là thảm thiết nhất. Khi cuối cùng những con ngựa và tất cả những người sống trong căn nhà được đưa đi ngang qua trước mặt anh, Judah bắt đầu hiểu đòn trả thù của viên tỉnh trưởng sẽ ghê gớm đến thế nào. Cả ngôi nhà này sẽ bị cướp đoạt. Khi mệnh lệnh được thực hiện tới cùng, sẽ không còn vật sống nào giữa những bức tường này cả. Nếu ở Judea còn có những người khác đủ liều lĩnh để nghĩ đến việc ám sát một quan chức La Mã, đòn trừng phạt giáng xuống gia đình quý tộc dòng họ Hur sẽ là tấm gương cho họ, trong khi ngôi nhà đổ nát này chính là hiện thân cho câu chuyện ấy.
Viên sĩ quan chờ đợi bên ngoài trong khi một toán lính tạm thời lắp lại cánh cổng.
Ngoài phố, trận ẩu đả đã gần như kết thúc. Ở một vài ngôi nhà, những đám bụi bay lên cho thấy cuộc giao tranh vẫn còn tiếp diễn. Cả binh đoàn gần như đang đứng yên, thế nhưng sự hùng tráng giống như hàng ngũ của nó vẫn không hề suy chuyển. Không còn nghĩ đến bản thân mình nữa, Judah chẳng còn nhìn thấy gì ngoài những người thân vừa bị bắt và trong số đó anh tìm kiếm trong vô vọng mẹ và Tirzah.
Bỗng nhiên một người phụ nữ đang nằm ngồi bật dậy, chạy nhanh trở về phía cánh cổng. Vài tên lính vươn tay ra túm lấy bà, sau đó vài tiếng hét lớn cho thấy bà đã chạy thoát. Bà lao tới chỗ Judah, quỳ xuống, ôm lấy hai đầu gối anh, mái tóc xù màu đen lấm tấm bụi xõa xuống đôi mắt bà.
“Ôi Amrah, Amrah yêu quý,” anh nói với bà, “Cầu Chúa cứu giúp cho bà, còn tôi thì không thể làm gì được.”
Bà không nói nên lời.
Anh cúi xuống và thì thầm, “Hãy cố sống, Amrah ạ, vì Tirzah và người mẹ của tôi. Họ sẽ trở về, và...”
Một tên lính lôi bà đi, bà bật dậy chạy qua cổng và lối đi vào khoảng sân trống không.
“Cứ thả mụ ta đi,” viên sĩ quan nói lớn. “Chúng ta sẽ cho niêm phong căn nhà này, và mụ ta sẽ chết đói.”
Đám lính tiếp tục công việc của mình, và khi đã xong xuôi, chúng đi vòng qua mặt phía Tây của ngôi nhà. Cánh cổng phía bên đó cũng bị niêm phong, và như vậy không ai còn được sống trong dinh thự của gia đình nhà Hur nữa.
Một lúc lâu sau, toán lính áp giải các phạm nhân trở về pháo đài, nơi viên tỉnh trưởng đang trú chân để chờ hồi phục vết thương và để xét xử. Mười ngày sau đó, ông ta tới thăm khu chợ.