Chương III Lời thỉnh cầu dành cho Simonides
Sáng sớm hôm sau, Ben-Hur đến thẳng nhà Simonides mà không vào thành phố. Qua một cánh cổng, anh bước tới chỗ bến tàu nơi cả con sông vô cùng nhộn nhịp, tới chỗ cây cầu Seleucia và dừng chân bên dưới nó để ngắm nhìn toàn bộ khung cảnh.
Ngay dưới cây cầu là ngôi nhà của vị thương gia. Nó giống như một khối đá xám xù xì chẳng theo phong cách kiến trúc nào và như ông già người Hebrew đã mô tả thì nó giống như một cái trụ nhô ra dưới chân tường. Hai cánh cửa lớn ở phía trước mở ra chỗ các bến tàu. Vài cái lỗ gần mái nhà có chấn song kín mít được dùng làm cửa sổ. Cỏ dại thò ra từ các hốc, và đôi chỗ lớp rêu đen phủ kín mặt đá trơ trụi.
Những cánh cửa lúc này đang mở. Những người tới giao dịch đi vào bằng cửa này và ra bằng cửa kia; tất cả bọn họ đều có vẻ vội vã.
Trên bến tàu bày hàng đống hàng hóa đủ loại, và từng toán nô lệ cởi trần đang bận rộn làm việc.
Bên dưới cây cầu là một đội thuyền, chiếc thì bốc hàng, chiếc thì dỡ hàng. Một lá cờ vàng được treo trên mỗi cột buồm. Từ đội tàu lên bến và từ tàu nọ sang tàu kia, các nô lệ đi lại nhộn nhịp thành từng đoàn ngược chiều nhau.
Ở một đầu cầu ở bên kia sông, một bức tường nổi lên từ mặt nước, trên đó xuất hiện những mái chóp và tháp canh của cung điện hoàng gia, phủ kín không sót nơi nào trên hòn đảo mà người Hebrew đã nói. Mặc dù vậy Ben-Hur gần như không để tâm đến nó. Lần này hẳn anh sẽ được nghe tin về gia đình mình – chắc chắn là như vậy nếu Simonides đúng là nô lệ của cha anh. Nhưng liệu ông ta có thừa nhận hay không? Làm như vậy tức là ông sẽ phải từ bỏ hết của cải và công việc buôn bán vô cùng nhộn nhịp mà anh vừa thấy trên bến và trên sông. Điều còn ghê gớm hơn với vị thương gia là ông sẽ phải từ bỏ sự nghiệp của mình giữa lúc đang thành công vang dội, để một lần nữa trở lại là một nô lệ. Chỉ cần nghĩ tới chuyện mở miệng yêu cầu ông điều đó cũng đã là một việc thô lỗ ghê gớm. Nếu loại bỏ hết những lời hoa mỹ thì thực chất anh sắp phải nói rằng: Ông là nô lệ của tôi; hãy trả lại tất cả những gì ông có – và trao lại cho tôi cả con người ông nữa.
Thế nhưng Ben-Hur lấy lại tinh thần cho cuộc gặp mặt bằng niềm tin vào quyền của anh cũng như những hi vọng trong trái tim anh. Nếu câu chuyện mà anh được nghe là thật, Simonides thuộc về anh cùng với mọi của cải của ông. Nói thẳng ra thì anh chẳng quan tâm gì tới của cải. Khi bước đến ngưỡng cửa, anh đã quyết chí tự hứa với mình: “Hãy hỏi ông ta về mẹ và Tirzah, sau đó ta sẽ trả tự do cho ông ấy ngay lập tức.”
Anh kiên quyết bước vào nhà.
Bên trong căn nhà giống như một nhà kho khổng lồ nơi đủ mọi hàng hóa được sắp xếp rất có trật tự. Mặc dù trong nhà ánh sáng chỉ chiếu lờ mờ và không khí ngột ngạt, rất nhiều người vẫn đang vội vã đi qua đi lại; và đôi chỗ anh nhìn thấy những người thợ mang cưa và búa đang đóng thùng hàng. Khi đi chầm chậm giữa các thùng hàng, anh tự hỏi liệu người đàn ông có trí tuệ thiên tài quá rõ ràng này có thực sự từng là nô lệ của cha anh? Nếu thế, ông ta thuộc đẳng cấp nào? Nếu là một người Do Thái, ông ấy có phải là con của một người hầu? Hay ông là một người thiếu nợ, mà cũng có thể là con của một người thiếu nợ cũng nên? Hoặc ông đã bị kết án và bị bán đi làm nô lệ vì tội ăn trộm? Những ý nghĩ đó trong anh không hề làm tổn hại tới cảm tình ngày càng tăng dành cho vị thương gia mà mỗi phút anh lại càng khâm phục. Một điểm đặc biệt trong sự kính phục của chúng ta dành cho người khác là nó luôn luôn tìm kiếm những chi tiết để tự giải thích cho chính mình.
Cuối cùng, một người đàn ông tiến đến và nói với anh.
“Anh tới có việc gì?”
“Tôi muốn gặp thương gia Simonides.”
“Mời anh đi lối này.”
Theo những lối đi hẹp, cuối cùng họ bước tới một cầu thang. Khi leo lên, anh thấy mình đã tới nóc của nhà kho, đến trước một tòa nhà chỉ có thể được mô tả là những căn phòng bằng đá cục mịch xây chồng lên nhau mà ở bên dưới không sao nhìn thấy được, hướng ra nền trời phía Tây của cây cầu. Nóc nhà được bao quanh bằng một bức tường thấp nhìn giống như một khoảnh sân mà anh kinh ngạc nhận thấy trồng đầy những loại hoa rực rỡ; trong khung cảnh đó tòa nhà cục mịch kia nằm ở một góc, không có cửa nào khác ngoài lối ra vào ở phía trước. Một con đường sạch bóng dẫn tới cửa, xen giữa hai hàng bụi cây hoa hồng Ba Tư đang nở rộ. Anh vừa hít hà mùi hương ngọt ngào đó vừa bước theo người dẫn đường.
Tới cuối hàng lang tối bên trong, họ dừng lại trước một bức rèm hé mở. Người đàn ông nọ gọi,
“Có một người lạ muốn tới gặp chủ nhân.”
Một giọng nói rõ ràng đáp lại, “Nhân danh Chúa, hãy để anh ta vào.”
Một người La Mã hẳn sẽ gọi căn phòng mà người khách vừa được đưa vào này là sảnh đường. Những bức tường được lát gỗ; mỗi tấm gỗ lại được chia ngăn giống như bàn làm việc hiện đại, mỗi ô lại có nhãn dán đã nâu đi vì thời gian. Giữa các ngăn, bên trên và bên dưới là các viền gỗ trước đây từng màu trắng giờ thì lại ngả sang màu kem, được chạm khắc những chi tiết cầu kì. Bên trên phần trang trí làm bằng những quả cầu mạ vàng, trần nhà vươn cao như mái lều cho tới đỉnh là một mặt cầu rộng với hàng trăm tấm mica màu tím, để một luồng ánh sáng dịu dàng lọt vào nhà. Dưới sàn trải những tấm thảm màu xám dày đến nỗi chân bước lên không gây một tiếng động.
Trong khoảng sáng của căn phòng có hai người – một người đàn ông ngồi trên chiếc ghế lưng cao, tay ghế rộng, lót bằng những tấm đệm; còn về phía trái ông, đang tì vào lưng ghế là một thiếu nữ đã lớn. Ben-Hur cảm thấy dòng máu dâng lên làm ửng đỏ vầng trán khi nhìn thấy họ, anh cúi chào vừa để tỏ lòng tôn kính vừa để lấy lại tinh thần. Anh không nhìn thấy ông già khi giơ hai bàn tay chào anh lại run lên và co rúm người – những biểu hiện đó biến mất cũng nhanh như khi xuất hiện. Khi anh hướng mắt lên, hai người kia vẫn ở chỗ cũ, ngoại trừ cô gái đã buông tay xuống đặt nhẹ nhàng trên vai ông già; cả hai đang nhìn anh chăm chú.
“Nếu ông là thương gia Simonides và là một người Do Thái,” Ben-Hur dừng lại một thoáng, “vậy thì mong rằng phước lành vị Chúa của tổ tiên chúng ta là Abram sẽ luôn ở bên ông và bên quý cô đây.”
Lời cuối cùng được dành cho cô gái.
“Phải, tôi đúng là Simonides mà anh nói tới, và tôi sinh ra đã là một người Do Thái,” người đàn ông trả lời rành rọt từng tiếng. “Tôi là Simonides người Do Thái, và tôi xin đáp lại lời chào của anh, đồng thời mong rằng sẽ được biết mình đang có vinh hạnh gặp gỡ ai.”
Ben-Hur nhìn ông trong khi lắng nghe. Ở những nơi trên cơ thể ông mà lẽ ra phải tròn trịa khỏe mạnh, anh chỉ nhìn thấy một khối không ra hình thù gì nằm lọt thỏm giữa những chiếc gối, phủ ngoài một chiếc áo dài lót bông bằng lụa sẫm. Bên trên khối cơ thể ấy là cái đầu mang vẻ cao quý và lí tưởng của một chính trị gia hay một nhà chinh phục – với quai hàm rộng và cái trán tròn mà Angelo hẳn sẽ lấy để làm hình mẫu cho Caesar. Mái tóc bạc rủ xuống thành từng lọn mỏng trước đôi lông màu trắng, càng tô đậm đôi mắt đen sáng rực bên dưới giống như hai ngọn đèn. Gương mặt ông tái và đầy nếp nhăn, đặc biệt là dưới cằm. Nói cách khác, cái đầu và gương mặt đúng là của một người đàn ông có thể xoay chuyển cả thế giới mà không nao núng – một người đàn ông đã bị tra tấn hai mươi bốn lần đến nỗi cơ thể không còn ra hình thù gì mà vẫn không kêu van một lời chứ chưa nói tới nhận tội; một người đàn ông sẵn sàng hi sinh tính mạng mình chứ không đi ngược lại nghĩa vụ; một người đàn ông cứng rắn trước mọi sự trên đời nhưng lại luôn hiền hòa với những người ông yêu thương. Ben-Hur đưa tay về phía ông, hai bàn tay ngửa lên giống như thể hiện thiện chí cũng như mong muốn người đối diện cũng tỏ ra thiện chí lại.
“Tôi là Judah, con trai của Ithamar, người chủ quá cố của gia tộc Hur, ông hoàng Jerusalem.”
Bàn tay phải của vị thương gia nằm bên ngoài chiếc áo dài – một bàn tay dài và gầy, nó bị những đòn tra tấn biến thành méo mó. Bàn tay ông nắm chặt lại; ngoài dấu hiệu đó thì ở ông không còn bất kì cảm xúc nào; không gì cho thấy sự ngạc nhiên hay quan tâm; không gì khác ngoài câu trả lời bình thản,
“Các ông hoàng dòng dõi ở Jerusalem luôn được đón chào trong ngôi nhà của tôi; anh cũng được đón chào như vậy. Hãy lấy ghế cho chàng trai trẻ, Esther.”
Cô gái kéo một chiếc ghế gần đó và mang tới cho Ben-Hur. Khi cô đứng thẳng lên, ánh mắt họ gặp nhau.
“Cầu mong Chúa ban phước lành cho anh,” cô e lệ nói. “Hãy ngồi xuống nghỉ ngơi.”
Khi trở lại chỗ của mình bên chiếc ghế của ông già, cô vẫn không hề biết gì đến mục đích của Ben-Hur. Quyền năng của người phụ nữ không vươn tới được đó: cô hẳn sẽ phát hiện ra ngay những cảm xúc tinh tế hơn thí dụ như lòng thương, lòng vị tha, hay sự thông cảm. Đây chính là sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà, điều vẫn sẽ tồn tại vĩnh viễn khi trên đời vẫn còn phụ nữ. Cô chỉ có thể chắc chắn là anh đang mang trong mình một vết thương lòng nào đó cần được cảm thông.
Ben-Hur không ngồi xuống ghế mà nói ngay với vẻ tôn kính. “Tôi mong rằng đức ngài Simonides đây sẽ không coi tôi là một kẻ xâm phạm. Khi đến con sông này ngày hôm qua, tôi được biết là ông có quen cha tôi.”
“Tôi từng quen ông hoàng dòng họ Hur. Chúng tôi đã cùng làm ăn chung trong một số lĩnh vực hoàn toàn hợp pháp để thu lợi nhuận từ những vùng đất bên kia đại dương và sa mạc. Nhưng xin anh hãy ngồi xuống – và Esther, hãy lấy rượu cho chàng trai trẻ. Nehemiah đã nhắc đến một người con của dòng họ Hur đã từng cai trị một nửa Jerusalem. Quả là một dòng họ có nguồn gốc vô cùng cổ xưa! Từ thời Moses và Joshua, thậm chí một vài người trong dòng họ đã được Chúa khoản đãi, chia sẻ vinh dự với những người cao quý nhất. Không thể nào có truyện hậu duệ trực tiếp của dòng họ ấy lại từ chối uống với chúng tôi một cốc rượu – làm bằng thứ nho chính gốc Sorek, trồng trên những sườn đồi ở Hebron.”
Khi ông nói xong, Esther đã đến trước mặt Ben-Hur với một chiếc cốc bạc được rót từ một cái bình trên bàn đặt hơi xa chiếc ghế một chút. Cô cúi mặt rót rượu cho anh. Anh nhẹ nhàng chạm lên tay cô để báo hiệu là đã đủ. Một lần nữa, ánh mắt họ gặp nhau. Lần này anh nhận ra cô có dáng người nhỏ nhắn, chắc cao chưa tới vai anh, nhưng lại rất thanh nhã với gương mặt dịu dàng, đôi mắt đen vô cùng hiền hậu. Cô quả là một người con gái xinh đẹp và tốt bụng, anh nghĩ, giống như Tirzah nếu cô vẫn còn sống. Tội nghiệp Tirzah! Rồi anh cất tiếng nói.
“Kia có phải là cha cô không?” Anh ngập ngừng.
“Tôi là Esther, con gái của Simonides,” cô kiêu hãnh nói.
“Vậy thì hỡi Esther xinh đẹp, cha của cô khi nghe những lời tôi sắp nói đây hẳn sẽ không khinh rẻ tôi nếu tôi tỏ ra có phần chậm chạp nhận lấy cốc rượu làm bằng thứ nho nổi tiếng của ông; trong khi đó tôi cũng không muốn mất thể diện trước mặt cô. Hãy đứng lại đây với tôi một chốc!”
Cả hai người như thể cùng có chung mục đích, nhìn về phía vị thương gia. “Simonides!” Anh nói dõng dạc, “cha tôi khi qua đời đã tin tưởng một gia nhân mang cái tên đó, và người ta nói với tôi rằng đó chính là ông!”
Những cẳng chân cẳng tay cong queo dưới tấm áo dài bỗng run giật, bàn tay gầy guộc nắm lại.
“Esther, Esther!” Ông già đanh giọng gọi; “đừng đứng ở đó nữa mà hãy ra đây, vì con là con gái của cha mẹ – hãy ra đây, đừng đứng đó!”
Cô gái nhìn cha và nhìn người khách một lần; sau đó cô đặt chiếc cốc lên bàn, ngoan ngoãn đi tới chỗ chiếc ghế. Vẻ mặt cô đã cho thấy rõ hết sự ngạc nhiên và hoảng sợ của mình.
Simonides giơ tay trái lên và đặt vào bàn tay cô đang nhẹ nhàng để trên vai ông, sau đó lạnh lùng nói, “Tôi giờ đã trở nên già trước tuổi vì luôn phải đối phó với những người khác. Nếu người đã kể cho anh nghe về tôi là một người bạn đã biết đến câu chuyện của cuộc đời tôi và không bôi nhọ tôi khi kể lại, hẳn người ấy đã cho anh biết giờ tôi ít khi tin tưởng ai. Cầu mong vị Chúa của người Israel phù hộ cho một người mà đến cuối đời vẫn phải nói những điều như vậy! Trên đời chỉ còn lại vài người mà tôi yêu thương hết mực. Một trong số đó chính là một linh hồn mà...” Ông đưa bàn tay đang nắm tay mình lên môi với vẻ trìu mến không thể nhầm lẫn “...cho tới giờ vẫn hoàn toàn thuộc về tôi. Nếu tình yêu thương ngọt ngào ấy bị cướp đi, tôi sẽ chết.”
Esther cúi đầu xuống cho tới khi má cô chạm lên gò má ông.
“Những người thân yêu còn lại với tôi chỉ còn là dĩ vãng mà thôi. Về họ tôi có thể nói thêm rằng giống như phước lành của Chúa, tình cảm của tôi dành cho họ lớn đến mức đủ bao trọn cả gia đình,” ông hạ giọng, run run, “nhưng giá mà tôi biết họ giờ ở đâu.”
Ben-Hur đỏ mặt. Anh tiến lên một bước và kêu lên, “Mẹ và em gái tôi! Ông đang nói về họ!”
Esther ngẩng đầu lên như thể những lời vừa rồi là dành cho mình; nhưng Simonides thì vẫn giữ vẻ bình thản mà trả lời lạnh lùng, “Hãy lắng nghe và đừng ngắt lời tôi. Vì vị thế của tôi và vì tình yêu dành cho những người mà tôi đã nhắc đến, trước khi tôi thực hiện yêu cầu của anh thể theo quan hệ với ông hoàng họ Hur, và vì ta cần phải giải quyết mọi việc có trước có sau, anh có bằng chứng gì để chứng tỏ mình là ai hay không? Nó có phải bằng văn bản không? Hay nhân chứng của anh là một người nào đó?”
Lời yêu cầu rất đơn giản và hợp lí đến mức không thể bắt bẻ được. Ben-Hur đỏ mặt, chắp hai bàn tay, miệng lắp bắp, ngoảnh đi không biết đáp lại ra sao. Simonides càng dồn ép anh.
“Tôi đã nói anh hãy đưa ra bằng chứng! Bằng chứng đâu! Hãy đưa nó ra cho tôi xem – hãy đặt nó vào hai bàn tay tôi!”
Thế nhưng Ben-Hur không biết trả lời thế nào nữa. Anh không lường trước được yêu cầu này; và giờ khi nó đã được nói ra, anh đau đớn nhận ra rằng ba năm trên chiến thuyền đã xóa sạch mọi chứng cứ về nhân thân của anh; mẹ và em gái anh vẫn mất tích, trên đời chẳng còn ai biết đến gốc gác của anh. Anh chỉ có những người quen biết sơ qua mà thôi. Nếu Quintus Arrius có mặt ở đây đi nữa, ông có thể kể lại gì ngoài nơi ông tìm thấy anh và ông đã tin anh là con trai của dòng họ Hur? Nhưng thực tế thì người La Mã dũng cảm ấy đã qua đời rồi. Trước đây Judah đã từng cảm nhận được nỗi cô đơn. Cảm giác ấy lại lan đến tận xương tủy anh lúc này. Anh đứng chết trân, tay chắp lại, mặt ngoảnh đi, tâm trí đờ đẫn. Simonides dường như tôn trọng nỗi đau đớn của anh và im lặng chờ đợi.
“Thưa đức ngài Simonides,” cuối cùng anh nói, “tôi chỉ có thể kể lại câu chuyện của mình mà thôi; và tôi sẽ không nói nếu ông vẫn giữ những thành kiến của mình về tôi mà không lắng nghe tôi một cách chân thành.”
“Nói đi,” – Simonides đáp, giờ thì ông đúng là người nắm thế áp đảo, “nói đi và tôi sẽ lắng nghe từng lời vì thực tế tôi chưa hề phủ nhận gia thế của anh.”
Ben-Hur kể lại những chuyện đã xảy ra trong đời mình một cách ngắn gọn nhưng với xúc cảm dạt dào vốn là ngọn nguồn của văn chương; tuy nhiên vì chúng ta đã biết mọi chuyện cho đến khi anh cập bến ở Misenum và cùng Arrius trở về từ biển Aegea như những người chiến thắng, hãy cùng lắng nghe đoạn tiếp theo.
“Người cưu mang tôi được Hoàng đế sủng ái và tin tưởng, ban cho ông không biết bao nhiêu là phần thưởng. Những lái buôn từ phương Đông đã đem đến những món quà tuyệt mỹ khiến ông trở nên giàu có gấp đôi những người giàu ở Rome. Nhưng một người Do Thái có thể quên đi tôn giáo hay quê nhà của mình được không, nếu đó là đất thánh của ông cha? Người đàn ông tốt bụng ấy đã nhận tôi làm con theo đúng mọi thủ tục mà luật pháp quy định; và tôi cố gắng hết sức đền đáp lại công ơn của ông: trên đời không một người con nào có thể tận tụy với cha như tôi được. Ông muốn tôi trở thành một học giả. Ông muốn giới thiệu cho tôi những người thầy nổi tiếng nhất trong các lĩnh vực nghệ thuật, triết học, văn chương, và hùng biện. Tôi đã từ chối, vì tôi là một người Do Thái không thể quên đi vị Chúa của mình, quên đi vinh quang của các nhà tiên tri, hay quên đi thành phố mà David và Solomon đã gây dựng trên sườn đồi. Hẳn ông muốn hỏi tại sao tôi lại chấp nhận những ân huệ của người La Mã ấy? Thứ nhất, tôi thật lòng yêu quý ông, và thứ hai tôi cho rằng với sự giúp đỡ của ông ấy, đến một ngày tôi sẽ có thể vén bức màn bí ẩn bao quanh số phận mẹ và em gái tôi. Ngoài ra, tôi còn một khao khát nữa mà tôi sẽ không kể quá chi tiết ở đây mà chỉ nói qua rằng tôi muốn theo đuổi con đường binh nghiệp, muốn học đủ ngọn ngành mọi kiến thức liên quan đến nghệ thuật chiến tranh. Ở trường võ và những đấu trường trong thành phố tôi đã cố hết sức mình, và ở các trại lính cũng vậy. Khi đến những nơi đó, tôi chọn một cái tên khác chứ không lấy tên của tổ tiên mình đã đặt. Những vòng nguyệt quế mà tôi giành được – trên những bức tường dinh thự ở Misenum treo vô khối – đều là dưới tên con trai của nhị pháp quan Arrius. Những người La Mã chỉ biết về tôi như vậy... Tôi rời Rome đến Antioch trong khi vội vã cố thực hiện mục tiêu bí mật của mình, tôi định bụng sẽ đồng hành cùng quan chấp chính Maxentius trong chiến dịch mà ông đang tiến hành chống lại người Parthia. Khi đã thành thạo sử dụng mọi loại vũ khí, giờ tôi muốn tìm hiểu phương thức lãnh đạo những đội quân ngoài chiến trường. Viên quan chấp chính thu nhận tôi. Nhưng ngày hôm qua khi tàu của chúng tôi tiến vào Orontes, hai tàu khác đi cùng chúng tôi đã treo cờ vàng. Một hành khách đến từ đảo Síp đã giải thích cho tôi biết rằng những con tàu đó là của Simonides, thương gia lừng danh nhất Antioch. Ngoài ra, ông ấy cũng nói rõ vị thương gia đó là ai, những thành tựu của ông trên con đường buôn bán là như thế nào, đội tàu và những đoàn xe của ông đông đảo ra sao, và vì không biết tôi vô cùng quan tâm tới những điều khác biệt với mọi hành khách khác, ông ấy cũng nói Simonides là một người Do Thái từng là gia nhân của ông hoàng họ Hur. Trong câu chuyện ấy, ông ấy không hề giấu giếm sự tàn bạo của Gratus hay tại sao lão ta lại tung những đòn tra tấn tàn độc nhường ấy.”
Nghe đến đây Simonides cúi đầu, và như thể để giúp ông giấu đi cảm xúc của mình cùng sự cảm thông sâu sắc của cô, người con gái áp mặt vào cổ ông. Sau đó ông ngẩng lên và nói bằng giọng rất rõ ràng, “Tôi vẫn đang lắng nghe đây.”
“Hỡi Simonides tài ba!” Ben-Hur nói, tiến lên một bước, dường như cả con người anh cố tìm cách để diễn tả những gì mình muốn nói, “tôi có thể thấy ông vẫn chưa tin hẳn, và tôi vẫn còn nằm trong bóng đen nghi ngờ của ông.”
Gương mặt của người thương gia vẫn bình thản như tượng, không nói lời nào.
“Tôi cũng thấy rõ mình đang ở vào vị thế khó khăn như thế nào,” Ben-Hur nói tiếp. “Tôi có thể chứng minh mọi mối quan hệ với người La Mã của mình; thực tế tôi chỉ cần gọi viên quan chấp chính hiện giờ đang là khách của viên thống đốc trong thành phố; nhưng tôi lại không thể chứng minh những điều mà ông đang yêu cầu. Tôi không thể chứng minh mình là con trai của cha mình. Những người có thể giúp tôi thì than ôi, đều đã chết hay mất tích rồi!”
Anh đưa hai bàn tay ôm mặt. Esther đứng dậy và đưa cho anh cốc rượu mà khi nãy anh đã từ chối mà nói, “Đây là thứ rượu vang từ vùng đất mà tất cả chúng ta đều yêu mến. Xin anh hãy uống đi!”
Giọng nói của cô ngọt ngào không khác gì Rebekah khi đưa nước tại miệng giếng gần thành phố Nahor. Anh nhìn thấy những giọt lệ trong mắt cô, và anh đón lấy cái cốc mà uống rồi nói, “Hỡi người con gái của Simonides, trái tim cô quả là đầy tình thương, và cô thật tốt bụng làm sao khi để một người lạ mặt cùng uống với cha mình. Cầu mong vị Chúa của dân tộc chúng ta sẽ ban phước lành cho cô! Xin cảm tạ.”
Rồi anh lại hướng về phía vị thương gia.
“Vì tôi không có bằng chứng gì về dòng dõi của mình, tôi sẽ rút yêu cầu của mình dành cho ông, thưa Simonides, và từ giờ tôi cũng sẽ không quấy rầy ông nữa; tôi chỉ muốn nói rằng tôi không hề ép buộc ông phải trở lại vị thế gia nhân hay trả lại của cải của mình. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào và ngay trong lúc này, tôi cũng sẵn sàng nói rằng tất cả những gì ông có được bằng mồ hôi công sức của mình sẽ vẫn thuộc quyền sở hữu của ông. Tôi không cần ông phải chia cho tôi bất kì phần tài sản nào. Khi Quintus cao quý, người cha thứ hai của tôi, lên đường xuất hành lần cuối cùng, ông đã để lại toàn bộ gia sản cho tôi và biến tôi trở thành một người vô cùng giàu có. Nếu vì thế mà ông nghĩ khác về tôi, xin hãy nhớ tới câu hỏi mà tôi xin thề trước các nhà tiên tri và Jehovah là vị Chúa của cả hai chúng ta rằng mục đích chính chuyến viếng thăm của tôi tới đây: Ông biết gì – ông có thể nói cho tôi tin tức gì – về mẹ và Tirzah em gái tôi, người mà vẻ đẹp và sự thanh nhã cũng sánh ngang với người con gái bên cạnh mà ông coi là sự dịu ngọt của cuộc đời, nếu không phải toàn bộ cuộc đời ông? Than ôi! Ông có thể cho tôi biết gì về họ?”
Những giọt lệ chảy xuống má Esther; nhưng người cha vẫn tỏ ra cương quyết. Ông đáp rành rọt.
“Tôi đã nói rằng mình có quen ông hoàng dòng họ Hur. Tôi còn nhớ mình đã từng được nghe về tai họa giáng xuống cả gia đình ấy. Tôi vẫn còn nhớ sự cay đắng của mình lúc đó. Kẻ đã gây ra bao khổ đau cho người vợ góa của bạn tôi cũng chính là người đã đày đọa bản thân tôi. Tôi thậm chí có thể nói với anh rằng mình cũng đã cố công tìm kiếm gia đình đó, nhưng không thu thập được gì để nói với anh cả. Họ đã biến mất rồi.”
Ben-Hur kêu lên một tiếng đầy đau đớn.
“Vậy thì – vậy thì lại một lần nữa hi vọng của ta vụn vỡ!” Anh nói, cố gắng để kiềm chế cảm xúc. “Tôi đã quen với sự thất vọng. Xin ông thứ lỗi cho sự có mặt đường đột của tôi; và nếu tôi đã khiến ông khó chịu thì mong ông sẽ tha thứ cho tôi vì nỗi đau mà tôi đang phải gánh chịu. Tôi không còn mục tiêu gì để sống ngoài trả thù. Xin cáo từ.”
Khi ra tới chỗ bức rèm, anh ngoảnh lại và nói, “Xin cảm ơn cả hai người.”
“Cầu mong phước lành sẽ đến với anh,” ông già nói.
Esther thì nức nở không nói nên lời.
Anh bước ra ngoài.