Chương IV Simonides và Esther
Ben-Hur vừa đi khỏi thì Simonides dường như bừng tỉnh sau giấc ngủ: mặt ông ửng đỏ; đôi mắt mờ đục trở nên sáng rõ. Ông vui mừng nói.
“Esther, lấy cái nhẫn nhanh lên!”
Cô đi tới chỗ cái bàn và rung chuông gọi gia nhân.
Một tấm ốp trên bức tường mở ra để lộ một lối đi. Một người đàn ông bước tới trước mặt vị thương gia và cúi chào.
“Malluch, tới đây,” người chủ nói với vẻ quyền uy. “Ta có một nhiệm vụ dành cho anh mà dù trời có sập anh cũng không được thất bại. Nghe đây! Một chàng trai trẻ lúc này đang xuống cầu thang nhà kho – một người cao lớn, điển trai, mặc y phục kiểu Israel. Hãy đi theo anh ta như hình với bóng, mỗi tối lại báo cáo cho ta biết anh ở đâu, gặp gỡ ai. Trong lúc theo dõi, nếu nghe được anh ta nói chuyện thì hãy thuật lại cho ta từng từ, cùng với tất cả các chi tiết giúp ta hiểu rõ hơn về anh ấy như các thói quen, mục tiêu, và lối sống. Anh hiểu chưa? Đi nhanh lên! Mà từ từ đã, Malluch: nếu anh ta rời thành phố, hãy bám theo – và cố kết bạn với anh ta. Nếu anh ta hỏi, hãy lựa lí do sao cho phù hợp nhất nhưng không được nói là anh phục vụ cho ta. Nhanh lên – đi đi!”
Người ấy cúi chào một lần nữa rồi bước ra ngoài.
Simonides xoa hai bàn tay ốm yếu vào nhau và bật cười.
“Hôm nay là ngày bao nhiêu vậy con gái?” Ông hồ hởi nói. “Hôm nay là ngày bao nhiêu? Cha muốn ghi nhớ vĩnh viễn ngày hôm nay vì những việc vui mừng vừa xảy đến. Hãy cười lên khi xem lịch, và cười lên khi trả lời cha, Esther ạ.”
Sự vui sướng này dường như quá đỗi kì lạ đối với cô; và như thể để khiến ông bình tâm lại, cô rầu rĩ nói. “Ồ, con cũng chẳng bao giờ quên được ngày hôm nay đâu!”
Đôi tay ông buông xuống ngay tức khắc. Ông gập cằm xuống ngực, trầm ngâm trong khi những nếp nhăn cuộn lại ở phần dưới gương mặt ông.
“Đúng đấy, đúng đấy, con gái ạ!” Ông nói mà không ngẩng lên. “Hôm nay là ngày hai mươi tháng Tư. Ngày này năm năm về trước, Rachel mẹ của con đã qua đời. Người ta đã đưa cha về nhà trong cảnh bầm dập thảm thương, và mẹ con đã chết vì đau buồn. Ôi, với cha mẹ con giống như một lùm cây lá móng xinh đẹp giữa vườn nho En-Gedi! Cha đã tết nên vòng hoa bằng hương liệu. Cha đã ăn tổ ong bằng mật ong của mình. Chúng ta đã an táng mẹ con ở một nấm mồ cô đơn khoét trong lòng núi, không có ai ở bên. Thế nhưng trong bóng tối mẹ đã để lại cho cha một tia sáng mà sau bao năm tháng đã rạng rỡ như buổi bình minh.” Ông đưa tay lên đặt lên mái đầu của cô gái. “Lạy Chúa, xin cảm ơn Người đã để Rachel của tôi được tái sinh trong Esther yêu quý!”
Ông ngẩng đầu lên và nói như sực nhớ ra điều gì. “Bên ngoài trời vẫn quang đãng chứ?”
“Đúng vậy, khi chàng thanh niên ấy bước vào đây.”
“Vậy thì hãy gọi Abimelech tới đưa cha ra vườn, nơi cha có thể ngắm dòng sông và những con tàu, để rồi cha sẽ nói cho con biết, Esther yêu quý, lí do khiến cha cười vui, cái lưỡi như muốn ca hát, và tâm hồn cha giống như một chú hươu trên đỉnh núi đầy cỏ thơm.”
Một gia nhân xuất hiện sau tiếng chuông, và theo lệnh cô người ấy đẩy chiếc ghế lăn trên những bánh xe nhỏ ra khỏi phòng tới nóc của tòa nhà bên dưới mà ông vẫn gọi là khu vườn của mình. Xuyên giữa những bụi hoa hồng và những loài hoa kém cao quý hơn nhưng cũng được chăm sóc vô cùng cẩn thận, ông được đẩy tới chỗ mà từ đó có thể nhìn thấy nóc cung điện trên hòn đảo cùng cây cầu nhỏ dần về phía xa, dòng sông bên dưới nhộn nhịp tàu bè giữa ánh mặt trời phản chiếu lấp lánh trên sóng nước. Người gia nhân để ông lại đó cùng với Esther.
Những tiếng ồn ào của những người làm việc bên dưới cũng như tiếng chân của những người đi trên cây cầu bên trên không khiến ông bận lòng, vì chúng đã quen thuộc với đôi tai ông không kém gì những cảnh vật trước mắt, đến nỗi gần như ông không để tâm gì đến chúng nữa ngoại trừ những hứa hẹn về lợi nhuận trong tương lai.
Esther ngồi trên tay ghế vuốt ve bàn tay ông, chờ ông lên tiếng. Một lúc lâu sau ông mới nói, vẫn bằng phong thái điềm đạm thường lệ khi ý chí phi thường cuối cùng đã khiến ông bình tâm trở lại.
“Khi chàng trai trẻ đó nói, Esther, cha đã nhìn con, và có vẻ anh ấy đã thuyết phục được con.”
Ánh mắt cô cụp xuống e lệ khi trả lời.
“Nếu nói về lòng tin thì con thực lòng tin tưởng anh ấy.”
“Vậy thì trong mắt con anh ấy chính là người con trai lưu lạc của ông hoàng dòng họ Hur?”
“Nếu không phải...” cô ngập ngừng.
“Nếu không phải thì sao, Esther?”
“Thưa cha, con đã là người chăm sóc cho cha kể từ khi mẹ đi theo tiếng gọi của Chúa; khi ở bên cha, con đã được lắng nghe và quan sát cha xử trí một cách vô cùng khéo léo với những người đàn ông đến đây để thu lợi cả chính đáng lẫn bất chính; và giờ con có thể nói rằng nếu chàng trai trẻ đó không phải người con của dòng họ Hur, sự dối trá chưa bao giờ được che đậy khéo léo đến như thế trước mắt con.”
“Thề có vinh quang của Solomon, con gái của cha đã trả lời vô cùng thành thật. Con có thực sự tin rằng cha của con là gia nhân của gia đình họ không?”
“Theo con hiểu thì anh ấy mới chỉ được nghe đồn về chuyện đó mà thôi.”
Trong một chốc ánh mắt của Simonides như bơi lội giữa những con thuyền, dù tâm trí ông thì chẳng hề nghĩ đến chúng.
“Con quả là một người con hiếu thảo, Esther ạ, với sự sắc sảo đặc trưng của người Do Thái, với sức mạnh tinh thần và kinh nghiệm đến từ năm tháng đủ để lắng nghe một câu chuyện đau buồn. Hãy chú ý lắng nghe, và cha sẽ kể hết cho con về bản thân mình, về mẹ con, và nhiều điều trong quá khứ mà con chưa biết hay thậm chí trong mơ cũng không nghĩ tới – những điều mà cha đã không khai ra dù bị tra tấn bởi những người La Mã, chỉ để gìn giữ tia hy vọng trong mình, và từ đó linh hồn con sẽ vươn thẳng tới Chúa giống như cây sậy vươn về phía mặt trời... Cha được sinh ra trong một hầm mộ trong thung lũng Hinnom ở phía Nam Zion. Ông bà của con đều là những người Hebrew lãnh nhiệm vụ chăm sóc những cây vả và cây ô liu trong vườn thượng uyển gần Siloam; và hồi nhỏ cha vẫn thường giúp đỡ ông bà. Họ thuộc đẳng cấp những người được sinh ra để hầu hạ kẻ khác cả đời. Họ đã bán cha cho ông hoàng dòng họ Hur, người mà khi đó ở Jerusalem chỉ đứng sau Herod Đại đế về độ giàu có. Từ khu vườn, ông ấy đã đưa cha tới trạm buôn ở Alexandria xứ Ai Cập, nơi cha dần trưởng thành. Cha phục vụ ông ấy trong sáu năm, và tới năm thứ bảy theo giới luật của Moses, cha được trả tự do.”
Esther chắp hai bàn tay.
“Ôi, vậy thì cha không phải là gia nhân của cha anh ấy nữa!”
“Không, con gái ạ, hãy lắng nghe đã. Hồi đó những luật gia trong các hành lang của đền thờ đã tranh cãi quyết liệt với nhau, và họ cho rằng con cái của những người hầu hạ vĩnh viễn có vị thế giống như cha mẹ mình mà thôi; nhưng ông hoàng nhà họ Hur là một người chính trực, muốn áp dụng giới luật theo cách chuẩn mực nhất mặc dù ông không thuộc vào nhóm những kẻ luôn khắt khe. Ông ấy nói cha là một gia nhân người Hebrew mà ông đã mua lại, và dựa trên giới luật vĩ đại và những tài liệu có đóng dấu hợp thức mà cha sở hữu, ông ấy đã trả tự do cho cha.”
“Còn mẹ con thì sao?” Esther hỏi.
“Con sẽ được nghe tất cả, Esther ạ. Hãy kiên nhẫn. Trước khi cha kể hết, con sẽ hiểu được tại sao cha có thể quên đi bản thân mình chứ không bao giờ lãng quên mẹ con... Khi được trả tự do, cha tới Jerusalem vào ngày lễ Quá hải(*). Chủ nhân đã tiếp đãi cha. Cha rất yêu quý ông ấy, và mong muốn được tiếp tục phục vụ. Ông ấy đồng ý, và vậy là cha làm việc cho ông thêm bảy năm nữa như một người dân Israel làm thuê. Cha đại diện cho ông ấy điều khiển các chuyến tàu biển và những chuyến hàng trên đường bộ về phía Đông tới Susa và Persepolis, tới những vùng đất tơ lụa xa xăm. Đó là những hành trình vô cùng nguy hiểm, con gái ạ, nhưng Chúa đã phù hộ mọi việc cha làm. Cha mang về lợi nhuận to lớn cho ông hoàng nọ, trong khi bản thân thu thập được biết bao kiến thức mà nếu thiếu chúng cha sẽ không thể nào đảm nhiệm công việc mà từ đó đã được giao phó cho cha... Một ngày nọ, khi cha đang được tiếp đón trong căn nhà của ông ấy ở Jerusalem, một người hầu bước vào mang theo vài lát bánh mì trên đĩa. Cô ấy đến chỗ cha trước. Đó chính là lần đầu tiên cha gặp mẹ con rồi trong lòng thầm thương trộm nhớ. Ông ấy nói với cha rằng mẹ con theo luật sẽ vĩnh viễn là một gia nhân trong gia đình, nhưng nếu muốn, ông ấy sẽ trả tự do cho bà để cha được hài lòng. Mẹ con đáp lại tình cảm của cha, nhưng vẫn thấy hạnh phúc với vị thế hiện tại và từ chối. Cha đã cầu nguyện và cứ lâu lâu lại trở lại với mẹ con. Lần nào bà cũng nói rằng bà sẵn sàng trở thành người vợ hiền của cha nếu cha sẵn lòng trở thành gia nhân của gia đình cùng với mẹ. Ông cha của chúng ta là Jacob đã làm người hầu suốt bảy năm vì Rachel. Chẳng lẽ cha không thể làm vậy vì Rachel của riêng mình hay sao? Nhưng mẹ con nói rằng cha cần phải trở thành giống như mẹ, tức là phục vụ ở đó suốt đời. Cha ra đi, nhưng rồi trở lại. Esther, con hãy nhìn đây.”
Ông kéo dái tai trái ra.
“Con có nhìn thấy vết sẹo của cái đục không?”
“Con có thấy,” cô nói; “và hỡi ôi, giờ con mới biết cha yêu thương mẹ đến nhường nào!”
“Còn hơn cả yêu thương, Esther ạ! Với cha mẹ, con còn xinh đẹp thuần khiết hơn cả cô gái Shulem đối với vị vua ca hát; giống như dòng nước tưới mát cho khu vườn, giống như cái giếng ngọt ngào, và những dòng suối từ Lebanon. Chủ nhân của cha đã đưa cha tới trước các phán quan, và sau đó khi trở lại nhà, ông đã đâm chiếc dùi qua dái tai cha, găm vào cánh cửa để chứng tỏ cha sẽ mãi mãi là người phục vụ của gia đình ông. Cha đã giành được Rachel của mình như thế đó. Trên đời đã có tình yêu nào như của cha chưa?”
Esther cúi xuống hôn ông. Cả hai đều im lặng tưởng nhớ về người đã khuất.
“Chủ nhân đã chết đuối ngoài biển, và đó chính là nỗi đau đầu tiên cha phải chịu đựng,” vị thương gia nói tiếp. “Người ta khóc than trong căn nhà của ông, và cả ở nhà của cha tại Antioch này. Giờ thì hãy nhớ lấy, Esther! Khi ông hoàng ấy qua đời, cha đã trở thành người quản lý chính, nắm giữ tất cả của cải của ông. Từ đó con có thể thấy ông ấy đã yêu quý và tin tưởng cha tới mức nào! Cha vội vã trở về Jerusalem để thống kê lại tất cả với người vợ góa của ông. Bà đã cho cha tiếp tục quản lý chúng. Cha lao mình vào công việc. Việc kinh doanh trở nên ngày càng phát đạt, mở rộng không ngừng. Mười năm trôi qua rồi tai họa mà con đã nghe chàng trai kia kể ập tới – cái mà anh đã gọi là một tai nạn xảy đến với viên tỉnh trưởng Gratus. Người La Mã coi đó là âm mưu ám sát ông ta. Theo đó, theo lệnh từ Rome, ông ta được phép tịch thu hết khối tài sản khổng lồ của bà vợ góa và những đứa con của ông hoàng họ Hur. Thế nhưng ông ta không dừng lại ở đó. Để bản án không bao giờ có thể bị xóa, ông ta đã trừ khử hết những người liên quan. Từ cái ngày khủng khiếp đó cho đến bây giờ, gia đình nhà Hur đã bị xóa sổ. Người con trai mà cha từng gặp khi còn trẻ bị kết án chung thân trên chiến thuyền. Vị phu nhân và người con gái có lẽ đã bị chôn vùi trong một hầm ngục nào đó ở Judea, nơi mà một khi đã đặt chân vào thì không khác gì nằm trong nấm mộ. Họ bị người đời quên lãng hoàn toàn, như thể biển khơi đã nuốt chửng họ mà không ai hay biết. Chúng ta không được biết họ đã chết ra sao – không thực ra ta còn không biết là họ đã chết hay chưa.”
Đôi mắt Esther nhòa lệ.
“Con có một trái tim nhân hậu, Esther ạ, giống hệt như mẹ con; và cha cầu mong rằng con sẽ không phải chịu chung số phận với phần lớn những con người nhân hậu khác – bị giẫm đạp bởi những kẻ dã man và mù quáng. Nhưng hãy lắng nghe kĩ đây. Cha đã đi tới Jerusalem để cố giúp đỡ phu nhân, nhưng bị bắt ở cổng thành và giải tới pháo đài Antonia. Cha không sao hiểu được lí do tại sao mình bị đưa tới đó, cho tới khi đích thân Gratus xuất hiện đòi cha giao nộp tài sản của gia đình nhà Hur mà lão ta biết, theo tục lệ trao đổi của người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới thuộc quyền quản lý của cha. Lão bắt cha phải ký lệnh chuyển giao lại hết cho mình. Cha khước từ. Lão đã chiếm được những ngôi nhà, đất đai, hàng hóa, tàu bè, và mọi tài sản có thể mang đi được của chủ nhân; nhưng ông ta chưa thể lấy được tiền. Cha hiểu rằng nếu được Chúa phù hộ, cha có thể khôi phục gia sản đã bị tước đoạt của họ. Vì thế cha khước từ yêu cầu của tên bạo chúa đó. Lão đã cho người tra tấn cha; nhưng cha vẫn kiên quyết, để rồi sau đó lão phải thả cha ra mà chẳng lấy được gì. Cha trở về nhà và bắt đầu gây dựng lại mọi thứ dưới tên Simonides xứ Antioch thay vì ông hoàng Hur ở Jerusalem. Esther ạ, con đã biết cha đã thành công như thế nào. Khối tài sản mà ông hoàng để lại cho cha đã sinh sôi nảy nở thần kì. Và con cũng biết sau ba năm, trong một chuyến đi tới Caesarea, cha đã bị bắt và tra tấn lần thứ hai bởi tay Gratus. Lão ép buộc cha khai nhận mọi hàng hóa và tiền bạc của mình đều nằm trong phạm vi lệnh tịch thu của lão. Con đã biết lão một lần nữa thất bại. Thân thể tan nát, cha trở về nhà thấy mẹ con đã chết vì sợ hãi và đau buồn. Nhờ Chúa nhân từ, cha đã tiếp tục sống. Cha đã mua được quyền miễn trừ từ chính Hoàng đế và cả giấy phép để được buôn bán trên khắp thế giới. Ngày hôm nay – hãy ngợi ca vị Chúa mà phía sau chiếc xe ngựa của người tỏa ra những đám mây, vị Chúa đi trên những ngọn gió! Ngày hôm nay, Esther ạ, khối tài sản được giao cho cha quản lý đã nhân lên đủ để sánh ngang với một Caesar.”
Ông kiêu hãnh ngẩng cao đầu; ánh mắt họ gặp nhau; người này có thể đọc được hết những suy nghĩ của người kia. “Cha nên làm gì với gia sản này đây, Esther?” ông hỏi, không hề cụp mắt xuống.
“Thưa cha,” cô trả lời nhẹ nhàng, “chẳng phải người sở hữu hợp pháp của nó vừa mới tới đây hay sao?”
Ông vẫn nhìn thẳng vào mắt cô.
“Còn con gái của cha; chẳng lẽ cha lại để con phải chịu cảnh nghèo khó hay sao?”
“Không, thưa cha. Chẳng phải khi là con gái của cha, con cũng sẽ là người phục vụ trọn đời của anh ấy hay sao? Ai đã viết rằng, ‘Sức mạnh và danh dự là y phục của nàng, và nàng sẽ được ngợi ca đời đời?’”
Gương mặt ông ngời sáng vì tình yêu dành cho con gái, và ông nói, “Chúa trời đã rất ưu ái cha; nhưng Esther, con chính là món quà cao quý nhất của Người.”
Ông ôm cô vào ngực mà hôn.
“Giờ thì hãy lắng nghe,” ông nói bằng giọng rành rọt hơn, “hãy lắng nghe lý do tại sao sáng nay cha lại cười vui. Chàng trai trẻ đến gặp cha cũng giống hệt như người cha của anh hồi trẻ. Linh hồn cha như muốn đứng dậy để chào đón anh. Cha cảm thấy những ngày khổ ải đã trôi qua và công việc của cha tới đây là hoàn thành. Cha phải cố gắng lắm mới kìm mình khỏi reo lên một tiếng. Cha chỉ mong được cầm lấy tay anh mà chỉ cho anh xem số tiền mà cha đã kiếm được rồi nói, ‘Tất cả đều là của anh, còn tôi là người hầu hạ, sẵn sàng đợi lệnh anh.’ Suýt nữa cha đã làm như thế, nhưng đúng lúc ấy ba ý nghĩ ập đến trong tâm trí cha. Cha cần phải biết chắc chắn đó chính là con trai chủ nhân của mình – đó là ý nghĩ đầu tiên; nếu đó là sự thật, cha cần phải biết thêm về cốt cách của anh ta. Hãy thử nghĩ xem, Esther, với biết bao nhiêu người sinh ra trong nhung lụa, sự giàu có thực ra lại là một lời nguyền giáng xuống cuộc đời họ.” Ông ngừng lại, tay nắm chặt, giọng run lên. “Esther, hãy nghĩ đến những đau đớn mà cha phải chịu đựng trong tay những người La Mã; không chỉ là bởi Gratus đâu: những kẻ hành hạ cha cả hai lần đều là bọn La Mã, và tất cả bọn chúng đều vui thích khi nghe tiếng thét của cha. Hãy nhìn thân thể tàn tật của cha và những năm tháng khiến cho nó càng ốm yếu hơn; hãy nghĩ đến mẹ con trong nấm mồ cô đơn, linh hồn bị nghiền nát giống như thân thể cha; hãy nghĩ đến nỗi đau của gia đình chủ nhân nếu giờ quả thực họ vẫn còn sống, và sự dã man trong cảnh chết nếu họ đã qua đời; hãy nghĩ đến tất cả những cái đó, và với tình yêu mà Thiên đàng đã ban cho con, hãy trả lời cha không lẽ chúng không phải chịu bất kì quả báo nào hay sao? Đừng nói với cha giống như các thầy tu vẫn rao giảng rằng trả thù là việc của Chúa. Chẳng phải Người vẫn nhờ cậy bàn tay con người để trừng phạt và ban ơn? Chẳng phải những đạo quân của người còn đông đảo hơn những nhà tiên tri? Chẳng phải giới luật mà Người đã ban cho chúng ta quy định nợ máu phải trả bằng máu hay sao? Ôi, trong bao nhiêu năm tháng cha đã mơ ước được trả thù, cha đã cầu nguyện, kiên nhẫn chuẩn bị bằng khối tài sản ngày càng tăng lên của mình, thầm hứa rằng nếu Chúa anh minh, một ngày nào đó nó sẽ giúp cha mua lấy sự trừng phạt dành cho những kẻ tàn ác kia. Và khi chàng trai ấy nói đến khả năng sử dụng vũ khí nhưng không nhằm mục đích gì, cha đã nói thẳng ra mục đích ấy là để trả thù! Và Esther ạ, đó chính là ý nghĩ thứ ba khiến cha vẫn tỏ ra bình thản khi anh khẩn nài, nhưng lại bật cười vui sướng khi anh ra đi.”
.
Esther vuốt ve đôi bàn tay méo mó của ông và nói như thể trong tâm trí cô giờ đây chỉ còn những hứa hẹn tương lai, “Anh ấy đã đi rồi. Liệu anh có trở lại không?”
“Có chứ. Malluch trung thành đã bám theo anh và sẽ đưa anh trở lại khi cha sẵn sàng.”
“Và đó là khi nào, thưa cha?”
“Không lâu đâu, không lâu đâu. Chàng trai ấy tưởng rằng mọi nhân chứng cho mình đều đã chết. Vẫn còn một người đang sống chắc chắn là biết đến anh nếu quả thực anh chính là con trai chủ nhân của cha.”
“Có phải là mẹ anh ấy?”
“Không, con gái ạ, cha sẽ đưa nhân chứng ấy đến trước mặt anh; cho tới lúc đó, hãy phó mặc mọi chuyện cho Chúa. Cha mệt rồi. Hãy gọi Abimelech cho cha.”
Esther gọi người gia nhân, và ba người quay trở lại ngôi nhà.