← Quay lại trang sách

Chương XI Vị thương gia thông thái và con gái

Khi mảnh trăng lưỡi liềm chạm xuống những mỏm đá gồ ghề của núi Sulpius và hai phần ba người dân Antioch đang ở trên mái nhà tận hưởng làn gió buổi đêm và làn gió từ những chiếc quạt, Simonides ngồi trên chiếc ghế đã gần như trở thành một phần thân thể của ông, nhìn ra dòng sông từ trên sân thượng rồi nhìn những con tàu của mình dập dềnh trên bến. Bức tường phía sau ông phủ bóng đen trên mặt nước sang bờ bên kia. Những tiếng chân đi lại trên cây cầu vẫn tiếp diễn vô tận trên đầu ông. Esther đang cầm một cái đĩa dâng lên cho ông, trên đó bày bữa ăn tối đạm bạc – vài chiếc bánh mỏng dính, chút mật ong, một bát sữa mà ông thỉnh thoảng nhúng những chiếc bánh vào sau khi chấm mật ong.

“Malluch hôm nay về muộn,” ông nói, tỏ vẻ lúc này ông đang nghĩ tới điều gì.

“Cha vẫn nghĩ là anh ấy sẽ về à?” Esther hỏi.

“Trừ khi rơi xuống biển hoặc lạc trên sa mạc, bằng không anh ta sẽ trở về thôi.”

Simonides trả lời với vẻ tự tin kín đáo.

“Có lẽ anh ấy sẽ viết thư,” cô nói.

“Không đâu, Esther. Anh ấy sẽ gửi thư nếu thấy mình không thể trở về được để thông báo lại với cha. Vì cha chưa nhận được lá thư nào như vậy, cha biết anh ấy chắc chắn sẽ về.”

“Con cũng hy vọng thế,” cô nói rất nhỏ.

Có điều gì đó trong câu nói này của người con gái khiến ông phải để tâm. Có lẽ là giọng nói, hoặc bản thân mong ước ấy. Chú chim nhỏ nhất không thể nào đậu lên cái cây lớn nhất mà không làm rung rinh cho tới những thớ gỗ xa nhất của nó; tâm trí con người đôi khi cũng nhạy cảm tương tự ngay cả với những câu nói tưởng như vu vơ nhất.

“Con mong anh ấy trở về sao, Esther?” ông hỏi.

“Vâng,” cô đáp, ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt bố.

“Tại sao thế? Con có thể nói cho cha biết không?” ông hỏi vặn.

“Bởi vì,” cô ngập ngừng rồi mới đáp, “bởi vì chàng trai trẻ đó...” Cô không sao nói nên lời.

“Là chủ nhân của chúng ta. Có phải con muốn nói thế không?”

“Vâng.”

“Và con vẫn nghĩ rằng cha không nên để anh ta ra đi mà không hẹn ngày trở lại nếu anh ta muốn, để nhận lại chúng ta – cùng với mọi thứ mà chúng ta có – tất cả, Esther ạ – tất cả hàng hóa, tiền bạc, những con tàu, nô lệ và cả món quà tối thượng là chiếc áo choàng bằng vàng và bạc được dệt nên bởi những thiên thần vĩ đại nhất đối với loài người – sự thành đạt.”

Cô không trả lời.

“Điều đó không gợi nên ở con điều gì hay sao?” Ông nói với một thoáng cay đắng. “Chà chà, Esther ạ, cha đã nhận ra rằng sự thật không bao giờ là không thể chịu đựng được khi nó xuất hiện từ sau đám mây đen – không bao giờ – thậm chí ngay cả khi ta bị tra tấn. Cha cho là với cái chết cũng như vậy. Theo triết lí đó, cảnh sống nô lệ mà chúng ta sắp sửa dấn thân vào rồi sẽ đến lúc trở nên ngọt ngào. Thậm chí đến bây giờ cha vẫn lấy làm sung sướng mỗi khi nghĩ chủ nhân của chúng ta là một người may mắn đến thế nào. Anh không phải bỏ ra bất kì thứ gì để có được gia tài này – không phải lo lắng, không phải đổ một giọt mồ hôi, thậm chí không bao giờ phải nghĩ đến nó; nó tự tìm đến với anh khi tuổi hãy còn trẻ. Và Esther ạ, hãy thứ lỗi cho suy nghĩ có phần phù phiếm này của cha: anh ta nhận được thứ mà có bỏ ra bao nhiêu tiền cũng không thể mua được – chính là con đấy, con gái yêu ạ, nụ hoa từ nấm mộ của Rachel!”

Ông kéo cô lại gần và hôn cô hai lần – một nụ hôn dành cho cô, một nụ hôn dành cho người mẹ.

“Cha đừng nói vậy,” cô nói khi ông hạ tay xuống. “Hãy nghĩ về anh ấy theo cách đúng đắn hơn; anh ấy đã nếm trải khổ đau, và sẽ trả tự do cho chúng ta.”

“Ồ, con có bản năng nhạy bén lắm, Esther; và con biết cha luôn tin tưởng con trong những tình huống khó khăn mà ta phải phán xét người đứng trước mặt mình là tốt hay xấu giống như buổi sáng hôm nay. Nhưng... nhưng,” ông lên giọng kiên quyết hơn, “đôi chân tật nguyền không còn đi lại được – thân thể bị tra tấn đến mức không còn ra hình dáng con người – đó không phải là tất cả những gì cha dâng lên cho anh ta. Ôi, không, không! Cha dâng lên cho anh ta một linh hồn đã chiến thắng những đòn tra tấn và sự tàn ác của bọn La Mã! Cha mang đến cho anh ta một trí tuệ với đôi mắt tinh tường có thể nhìn thấy vàng ở những nơi xa xôi hơn là những con thuyền của Solomon từng đến, cùng với quyền năng để mang chúng trở về, phải, Esther ạ, những đồng tiền vàng sẽ tìm đến đôi bàn tay này để được bảo vệ cho tới khi chúng bay đi theo lệnh của một người biết đặt ra những kế hoạch lớn lao.” Ông dừng lại và bật cười. “Esther ạ, trước kì trăng mới mà lúc này trong đền thiêng người ta đang làm lễ mừng đón, cha sẽ khiến cả thế giới rung chuyển khiến ngay cả Caesar cũng phải giật mình; vì con biết đấy, cha có một quyền năng còn mạnh mẽ hơn bất kì giác quan nào, mạnh mẽ hơn cả thể chất hoàn hảo, mạnh mẽ hơn cả lòng dũng cảm và quyết tâm, thậm chí mạnh mẽ hơn cả kinh nghiệm vốn là món quà quý giá nhất của thời gian – quyền năng của những con người thần thánh nhất, nhưng...” Ông ngừng lại và bật cười lần nữa, tuy thế tràng cười này không còn cay đắng mà đầy nồng nhiệt, “nhưng thậm chí ngay cả những người vĩ đại nhất cũng không hiểu hết được tầm quan trọng, còn phần đông thậm chí còn không biết đến nó – quyền năng thu hút người khác tin vào lý tưởng của mình đồng thời duy trì lòng trung thành của họ để thực hiện và như thế cha có thể nhân khả năng của mình lên hàng trăm hàng nghìn lần. Nhờ thế những thuyền trưởng của các con tàu đã vượt biển khơi, mang lại cho cha lợi nhuận một cách sòng phẳng; Malluch đã theo dõi chàng trai trẻ vốn là chủ nhân của chúng ta, và anh ta sẽ trở về.” Đúng lúc ấy từ sân thượng họ nghe thấy tiếng chân bước, “Ha, Esther ơi! Cha nói có đúng không? Anh ấy đã về đây, và chúng ta sẽ được nghe mọi chuyện. Vì con gái yêu của cha – đóa hoa ly ngọt ngào mới nở – cha cầu xin Thượng đế, người đã không bỏ rơi những con chiên lạc lối ở Israel, rằng đó sẽ là tin tốt. Chúng sắp sửa được biết liệu anh ta có trả tự do cho con cùng với vẻ đẹp của mình, và trả tự do cho cha với những quyền năng của mình hay không.”

Malluch tiến đến chỗ chiếc ghế.

“Xin chúc phúc cho chủ nhân của tôi,” anh nói đầy cung kính, “và xin chúc phúc cho tiểu thư Esther, người con hiếu thảo nhất thế gian.”

Anh đứng trước mặt họ với vẻ tôn kính, trong khi thái độ cùng cách xưng hô của anh khiến người ta khó có thể xác định nổi mối quan hệ của anh với họ: một gia nhân hay một người bạn thân thiết? Ngược lại, Simonides theo thói quen làm việc của mình sau khi đáp lại những lời chào hỏi đó đi thẳng ngay vào vấn đề.

“Chàng trai trẻ ấy là người thế nào, Malluch?”

Những sự việc diễn ra trong ngày được Malluch thuật lại vắn tắt bằng những từ ngữ đơn giản. Trong khi anh kể, không ai ngắt lời anh, thậm chí ông già ngồi trên chiếc ghế còn không cử động bàn tay lấy một lần; nếu không nhờ đôi mắt mở to rạng rỡ, và những tiếng thở dài, người ta có thể lầm tưởng ông là một pho tượng.

“Cảm ơn, cảm ơn, Malluch,” ông nồng nhiệt nói sau khi anh đã kể xong; “Anh đã làm rất tốt, không ai có thể làm tốt hơn được. Anh hãy nhắc lại chàng trai ấy xuất thân từ đâu?”

“Đó là một người Israel, thưa chủ nhân, thuộc dòng dõi Judah.”

“Anh chắc chắn chứ?”

“Rất chắc chắn.”

“Có vẻ anh ấy không kể nhiều về đời tư của mình.”

“Anh ấy đã học được cách thận trọng. Tôi thậm chí có thể gọi anh là một người đa nghi. Anh ấy lẩn tránh mọi cố gắng tìm hiểu của tôi, cho tới khi chúng tôi đi từ dòng suối Castalian đến ngôi làng của Daphne.”

“Đó là một chốn xấu xa! Tại sao anh ta lại đến đó?”

“Tôi cho rằng đó là để thỏa mãn tính tò mò – điều khiến rất nhiều người khác cũng đi tới đó; nhưng lạ thay, anh không hề để tâm đến bất cứ thứ gì mình nhìn thấy. Về đền thờ, anh chỉ hỏi xem nó có phải là của người Hy Lạp hay không. Chàng trai trẻ ấy đang có những điều dằn vặt trong tâm trí mà anh muốn lẩn tránh, và vì thế anh mới tìm đến vườn cây với mục đích giống như chúng ta đưa người chết tới hầm mộ – để chôn vùi chúng đi.”

“Nếu vậy thì tốt,” Simonides nói thấp giọng; sau đó ông nói lớn hơn, “Malluch, sự hoang phí là lời nguyền của thời gian. Người nghèo trở nên nghèo hơn vì cứ bắt chước lối sống của người giàu, trong khi những người khá giả thì cố sống như những ông hoàng. Anh có nhìn thấy điểm yếu này ở chàng trai trẻ đó không? Anh ta có lần nào vung ra những đồng tiền của Rome hay Israel không?”

“Không, thưa chủ nhân.”

“Malluch ơi, ở nơi mà sự cám dỗ xuất hiện đầy rẫy – ý ta là đủ những món ăn uống – chắc hẳn anh ta đã hào phóng mời anh chứ. Tuổi tác của anh ta chắc hẳn khiến anh muốn làm như vậy.”

“Anh không hề ăn uống gì khi đi cùng tôi.”

“Trong lời nói hay việc làm của anh ta, Malluch, anh có thể luận ra mục đích tối thượng là gì không? Anh biết rằng những dấu hiệu đó vẫn lộ ra qua những kẽ nứt nhỏ đến độ gió cũng không lọt qua nổi.”

“Xin chủ nhân giải thích rõ hơn,” Malluch do dự nói.

“Anh biết đấy, chúng ta sẽ không nói hay hành động, và chắc chắn sẽ không thể trả lời những câu hỏi lớn lao về bản thân mình nếu không có động cơ thúc đẩy. Về khía cạnh đó, anh nghĩ thế nào về anh ta?”

“Thưa chủ nhân Simonides, tôi có thể cam đoan chàng trai ấy từng ngày mong ngóng tìm lại mẹ và em gái mình – đó là ưu tiên tối thượng. Thứ, anh ta có một mối thù với Rome; và vì Messala là người mà tôi đã kể cho ngài là có liên quan tới những điều bất công xảy đến với anh ấy, mục tiêu hiện tại của anh là khiến hẳn phải chịu nhục nhã. Cuộc gặp mặt bên con suối đã giúp anh có cơ hội, nhưng anh đã bỏ qua vì cho rằng nó chưa đủ công khai.”

“Messala là người giàu có thế lực,” Simonides trầm ngâm nói.

“Vâng; nhưng cuộc chạm trán tiếp theo của họ sẽ là trên đường đua.”

“Và sau đó thì sao?”

“Người con của Arrius sẽ giành chiến thắng.”

“Làm sao mà anh biết?”

Malluch mỉm cười.

“Tôi dựa vào những gì anh ta nói.”

“Chỉ thế thôi sao?”

“Không, vẫn còn một dấu hiệu rõ ràng hơn nhiều. Đó là tinh thần của chàng trai ấy.”

“Nhưng Malluch ơi, lòng khao khát trả thù của anh ta lan rộng đến đâu? Lẽ nào anh ta sẽ chỉ giới hạn nó trong một số ít ỏi những kẻ đã gây nên điều bất công với mình, hay anh ta nhắm tới nhiều người khác nữa? Hơn thế nữa – cảm xúc của anh ta có mang vẻ bốc đồng của một thiếu niên nhạy cảm, hay nó chứa đựng sự dạn dày của người đàn ông? Anh biết đấy, Malluch, ý nghĩ trả thù bắt rễ đơn thuần trong tâm trí sẽ chỉ là một giấc mơ vô ích mà đến một ngày nào đó sẽ tan biến; trong khi khao khát trả thù thì lại giống như một chứng bệnh trong trái tim dần lan đến bộ não và thống trị cả hai.”

Khi nói lên câu hỏi này, Simonides lần đầu tiên để lộ cảm xúc mãnh liệt trong mình; ông nói thật nhanh, bàn tay nắm chặt với lòng căm thù của người mang chính căn bệnh ông vừa mô tả.

“Thưa chủ nhân,” Malluch đáp lại, “một trong những lí do khiến tôi tin chàng trai trẻ ấy là một người Do Thái chính là mức độ căm thù của anh. Tôi có thể thấy rõ rằng anh ta tự kiềm chế bản thân mình – một điều rất tự nhiên khi ta biết anh đã sống bao nhiêu lâu trong môi trường đầy ghen tị giữa những người La Mã; thế nhưng tôi vẫn thấy nó lóe lên – một lần khi anh ta muốn biết suy nghĩ của Ilderim về Rome, và một lần nữa khi khi tôi kể cho anh nghe câu chuyện của vị tộc trưởng với nhà thông thái, đồng thời nhắc đến câu hỏi, Người được sinh ra làm vua của dân Do Thái đang ở đâu?”

Simonies cúi người về phía trước.

“A, Malluch, hãy kể lại cho ta nghe anh ấy đã nói gì; hãy để ta xét đoán ấn tượng của câu hỏi bí ẩn ấy lên anh ta.”

“Anh ấy muốn biết rõ từng từ của câu hỏi. “LÀ VUA” hay “SINH RA ĐỂ LÀM VUA” mới là chính xác? Có vẻ như anh ta lấy làm kinh ngạc bởi sự khác biệt giữa hai câu này.”

Simonides trở lại dáng ngồi nghiêm nghị lắng nghe như trước.

“Sau đó,” Malluch nói tiếp, “tôi kể cho anh ấy nghe quan điểm của Ilderim về bí ẩn đó – rằng một nhà vua sẽ xuất hiện khiến Rome phải lụi tàn. Gò má và vầng trán của chàng trai trẻ bỗng đỏ ửng lên, và anh thành thật nói, ‘Ngoài Herod thì còn ai có thể trở thành vua của người Do Thái khi Rome vẫn còn tồn tại?’”

“Điều đó có nghĩa là gì?”

“Rằng đế chế phải bị đập tan trước khi nhà vua mới có thể lên ngôi.”

Simonides nhìn những con tàu và bóng đen của chúng phủ lên dòng sông; và khi ông ngẩng lên, cuộc trò chuyện kết thúc.

“Đủ rồi, Malluch,” ông nói. “Hãy tìm thứ gì đó để ăn, và chuẩn bị trở lại vườn Cọ; anh phải giúp chàng trai trẻ ấy trong những thử thách sắp tới. Hãy đến gặp ta vào buổi sáng. Ta cần gửi một lá thư cho Ilderim.” Sau đó, ông nói thấp giọng như tự nhủ với bản thân mình, “ta có thể đích thân tới đường đua hôm đó.”

Khi Malluch nói những lời chào như thường lệ và rời đi, Simonides uống một hớp sữa, dường như tỉnh táo và thoải mái hơn hẳn.

“Hãy đặt khay đồ ăn xuống, Esther,” ông nói; “cha ăn đủ rồi.”

Cô vâng lời.

“Giờ thì lại gần đây.”

Cô trở lại chỗ của mình trên tay của chiếc ghế, thật gần với ông.

“Chúa đã tỏ ra rất nhân từ với cha,” ông nồng nhiệt nói. “Người có thói quen hành động bí mật, thế nhưng đôi lúc Người cho phép chúng ta nghĩ rằng mình có thể nhìn thấy và hiểu được Người. Cha già rồi, con ạ, và một ngày không xa sẽ từ giã cõi đời; nhưng trong những năm tháng cuối cùng này, khi hi vọng bên trong cha đã tắt dần, Người đã mang đến cho cha chàng trai trẻ đầy hứa hẹn và giờ cha cảm thấy vô cùng phấn chấn. Cha nhìn thấy mình có thể đóng vai trò lớn trong một công cuộc vĩ đại đến nỗi nó có thể giúp tái sinh cả thế giới. Và giờ cha cũng thấy được lí do tại sao Chúa ban cho cha món quà là sự giàu có, và mục đích của nó là gì. Quả thực, cha như được sống lại một lần nữa vậy.”

Esther nép sát vào ông, cứ như thể để kéo những suy nghĩ của ông trở lại.

“Nhà vua đã ra đời,” ông nói tiếp, tưởng tượng như vẫn đang nói với cô, “và Người hẳn đã ở tuổi trưởng thành. Balthasar nói rằng đã nhìn thấy Người là một hài nhi trong lòng mẹ, trao tặng cho người những món quà quý giá và sự tôn kính. Ilderim thì nhớ chắc chắn rằng tính đến tháng Mười hai vừa rồi là tròn hai mươi bảy năm từ khi Balthasar cùng những người bạn đồng hành của mình tới căn lều của ông xin ẩn náu khỏi sự truy lùng của Herod. Vì thế công cuộc này không thể trì hoãn lâu được nữa. Nó sẽ được bắt đầu chỉ trong nay mai mà thôi. Hỡi tổ tiên thiêng liêng của đất Israel, ý nghĩ này khiến cha vui mừng xiết bao! Cha dường như nghe thấy cả tiếng những bức tường cũ sụp đổ và sự nhộn nhịp của những đổi thay trên khắp thế gian – trong sự sung sướng của cả loài người, trái đất nứt ra nuốt chửng thành Rome, khắp nơi vang lừng tiếng hát và tiếng cười của con người khi biết rằng Rome không còn nữa,” rồi ông tự cười một mình. “Esther, con đã bao giờ nghe thấy điều đó bao giờ chưa? Chắc hẳn cha đang mang trong mình cảm hứng của một ca sĩ, sự nồng nhiệt, dòng máu nóng của Miriam và David. Trong suy nghĩ của cha – trí óc của một người đơn giản chỉ biết nhìn vào những con số – khắp nơi vang lừng tiếng chũm chọe và tiếng đàn hạc hòa cùng giọng nói của vô số người xung quanh ngai vàng mới được dựng nên. Cha sẽ tạm dẹp suy nghĩ ấy sang một bên; thế nhưng con ơi, khi nhà vua xuất hiện, Người sẽ cần tiền và binh lính, và vì cũng là một người trần được một phụ nữ sinh ra, Người cũng sẽ phải chịu những giới hạn của con người giống như cha và con vậy. Về tiền bạc, Người sẽ cần đến những người có thể kiếm ra và giữ tiền, sau đó Người sẽ cần những người có thể lãnh đạo binh lính. Thế đó! Con có thể thấy con đường xán lạn nơi cha có thể bước đi còn chủ nhân trẻ tuổi của chúng ta có thể sải bước chạy? Ở cuối con đường ấy là vinh quang và sự trả thù mà cả hai hằng mong ước? Và... và...” ông dừng lại, giật mình nhận ra sự ích kỉ của một mưu đồ mà cô không hề được tham gia hay hưởng thụ kết quả của nó; sau đó ông hôn cô và nói thêm. “Và cả hạnh phúc cho con gái của cha nữa.”

Cô ngồi yên, không nói gì. Rồi ông nhớ ra sự khác biệt về bản chất con người và quy luật tự nhiên rằng chúng ta không bao giờ có thể vui sướng và sợ hãi như nhau trước cùng một sự việc. Ông nhớ ra rằng con gái mình chỉ là một thiếu nữ.

“Ồ, con đang nghĩ gì thế, Esther?” ông nói theo cách thân mật thường ngày. “Nếu ý nghĩ ấy xuất hiện dưới dạng một mong ước nào đó, hãy cho cha biết, khi trong tay cha hãy còn quyền lực. Vì con biết đấy, quyền lực là một thứ đáng ghét luôn chực chờ vỗ cánh bay đi.”

Cô trả lời theo cách vô cùng đơn giản đến nỗi gần như trẻ con.

“Hãy gọi anh ấy tới đây, cha ạ. Hãy gọi anh ấy tới đây tối nay, và đừng để anh ấy xuất hiện trên đường đua.”

“A!” Ông thốt lên; và một lần nữa, đôi mắt ông hướng về dòng sông, nơi những bóng đen đang tối lại hơn bao giờ hết vì mặt trăng đã lặn xuống phía sau đỉnh Sulpius khiến cả thành phố giờ chỉ còn những vì sao chiếu sáng. Chúng ta nên hiểu ra sao đây? Ông bỗng cảm thấy trong lòng mình nhói lên sự ghen tị. Nếu cô thực sự đem lòng yêu vị chủ nhân trẻ tuổi thì sao? Ôi không! Điều đó không thể xảy ra được; cô còn trẻ quá. Nhưng ý nghĩ đó cứ bám chặt lấy ông, khiến ông rùng mình, sững người. Cô đã ở tuổi mười sáu. Ông biết rõ điều đó. Ông đã đưa cô ra bến tàu nơi một con tàu mới sắp được hạ thủy vào ngày sinh nhật cô và lá cờ vàng trên con tàu ấy ghi cái tên “Esther”. Thế mà điều ấy vẫn khiến ông lấy làm kinh ngạc. Ông chợt nhận ra điều mà ai cũng phải đau đớn chấp nhận, rằng mình đã già, và sẽ đến lúc ông phải ra đi. Ý nghĩ ấy len lỏi vào trái tim ông, tối đen không khác gì những cái bóng ngoài kia, thế nhưng vẫn đủ áp lực để khiến ông bật ra một tiếng thở dài không khác gì một tiếng rên. Cô không những phải sống tuổi thanh xuân của mình với vị thế nô lệ, mà còn phải trao cho chủ nhân của mình sự yêu thương, chân thật và dịu dàng mà người cha biết quá rõ, vì cho tới giờ chúng vẫn được dành cho riêng mình ông mà thôi. Con quỷ hành hạ chúng ta bằng nỗi sợ hãi và những ý nghĩ cay đắng hiếm khi nương tay. Trong khoảnh khắc ấy, ông già quả cảm quên bẵng mưu đồ mới của mình cùng vị vua kì diệu. Tuy thế, bằng một cố gắng phi thường, ông lấy lại được bình tĩnh và hỏi, “Không xuất hiện trên đường đua sao, Esther? Tại sao vậy?”

“Đó không phải là nơi dành cho một người con của đất Israel, thưa cha.”

“Con nói hệt như một nhà thông thái, Esther ạ! Còn gì nữa không?”

Giọng nói của người cha dường như muốn xoáy sâu vào trái tim đang đập rộn ràng của cô – nó đập nhanh đến nỗi cô không trả lời được. Một sự bối rối mới mẻ và dễ chịu lạ lùng chiếm lấy cô.

“Chàng trai trẻ ấy sẽ có được gia tài,” ông nói bằng giọng nhẹ nhàng hơn và cầm lấy tay cô; “anh ta sẽ nhận lại những con thuyền và số tiền – tất cả Esther ạ, tất cả. Thế nhưng cha không cảm thấy nghèo khó, vì cha vẫn còn lại con, và tình yêu mà con dành cho cha mới giống người mẹ Rachel của con biết bao. Hãy nói cho cha biết, liệu con có dành nốt cái đó cho chủ nhân không?”

Cô cúi xuống và áp má lên trán ông.

“Hãy nói đi, Esther. Cha sẽ vững tâm hơn khi biết được điều đó. Hiểu biết đem lại sức mạnh.”

Cô ngồi thẳng dậy và nói đường hoàng như thể cô chính là hiện thân của sự thật thiêng liêng.

“Xin cha hãy yên lòng. Con sẽ không bao giờ rời bỏ cha, dù chàng có nhận được tình yêu của con, con vẫn sẽ là người con hiếu thảo của cha như lúc này.”

Rồi cô cúi xuống hôn ông.

“Hơn thế nữa,” cô nói tiếp, “con thấy chàng thật quyến rũ, sự van nài trong giọng nói của chàng khiến con càng bị lôi cuốn hơn, và con rùng mình khiếp sợ khi nghĩ rằng chàng đang dấn thân vào nguy hiểm. Phải, cha ạ, con sẽ rất sung sướng được gặp lại chàng lần nữa. Tuy thế, tình yêu đơn phương không thể là tình yêu hoàn hảo, vì thế con sẽ chờ đợi một thời gian, trong khi vẫn tâm niệm con là con gái của cha và mẹ.”

“Con quả là món quà vô giá mà Chúa đã ban tặng cho cha, Esther ạ! Món quà ấy khiến cha sẽ luôn là một người giàu có, dù có mất đi tất cả đi nữa. Cha thề có Chúa thiêng liêng vĩnh cửu, con sẽ không bao giờ phải chịu khổ đau.”

Một lúc sau, theo lệnh của ông, một người hầu đẩy chiếc xe vào phòng. Ông ngồi đó một chốc, nghĩ đến nhà vua sắp xuất hiện, còn người con gái thì say giấc ngủ của sự thánh thiện.