Chương XII Cuộc thác loạn
Người ta nói rằng cung điện bên bờ sông đối diện với ngôi nhà của Simonides đã được xây dựng bởi Epiphanes lừng danh, và nó quả đúng như mọi người vẫn tưởng tượng; mặc dù ông là một người vốn thích những công trình đồ sộ hơn là cái mà ngày nay người ta gọi là phong cách cổ điển. Nói cách khác, ông thích rập theo lối kiến trúc của người Ba Tư hơn là Hy Lạp.
Bức tường bao quanh toàn bộ hòn đảo chạy ra tới tận mép nước, vừa để ngăn nước sông, vừa để chống chọi với bọn giặc cướp. Người ta đồn rằng chính bức tường đó khiến cung điện này không phải nơi phù hợp để sinh sống thường xuyên, vì thế các tăng lữ đã rời bỏ nó mà chuyển tới một cung điện khác được xây dựng riêng cho họ bên rìa phía Tây của núi Sulpius, dưới đền thờ Jupiter. Thế nhưng nhiều người lại không cho đây là lí do khiến tòa cung điện cổ này không được sử dụng nữa. Họ lập luận đầy sắc bén rằng mục đích thực sự của các thầy tu khi rời khỏi nơi đây không phải là để tìm kiếm một nơi ở sạch sẽ hơn, mà là để tìm đến sự an toàn nhờ những trại lính khổng lồ nằm ở ngay bên sườn phía Đông của ngọn núi. Ý nghĩ ấy dường như cũng có lí nếu nhìn vào thực tế. Người ta nhận thấy rằng cung điện này vẫn được duy tu thường xuyên để sẵn sàng sử dụng; và khi một viên quan nhiếp chính, tướng quân, vua chúa, hay những vị khách quý từ nơi khác đặt chân đến Antioch, họ sẽ được đưa ngay tới tòa cung điện trên hòn đảo.
Vì trong câu chuyện này chúng ta chỉ cần quan tâm đến một căn nhà duy nhất trong khuôn viên cung điện, bạn đọc có thể thoải mái tưởng tượng phần còn lại của nó. Nếu muốn, bạn có thể đi lướt qua những khu vườn, nhà tắm, sảnh đường, và mê cung những căn phòng dẫn tới cái mái nhọn, tất cả đều được trang hoàng xứng đáng với một công trình nổi tiếng như vậy trong một thành phố vốn có thể được coi là gần giống nhất với “phương Đông tráng lệ” của Milton hơn bất kì thành phố nào khác.
Ngày nay gian phòng tôi muốn nói đến sẽ được gọi là một hội trường. Nó khá rộng, sàn lát bằng những viên đá cẩm thạch bóng loáng, được thắp sáng vào ban ngày bằng những ô cửa mica nhuộm màu thay cho kính. Những bức tường được trang trí bằng những bức tượng Atlas đủ mọi tư thế, mỗi bức lại đỡ lấy mái đua với những họa tiết cầu kì vô cùng thanh nhã nhờ sự kết hợp của màu xanh dương, xanh lá, tím, và vàng. Những chiếc pan dài bằng lụa Ấn Độ và len Cashmere bài trí xung quanh căn phòng. Đồ đạc trong phòng bao gồm những cái bàn và ghế đẩu chạm trổ kiểu Ai Cập. Ở chương trước, chúng ta vừa chia tay Simonides ngồi tính toán kế hoạch để phò tá vị vua kì diệu, người mà ông tin chắc sắp sửa xuất hiện. Esther thì đang ngủ. Và giờ khi đã vượt qua cây cầu, đi xuyên qua cánh cổng được trang trí hình sư tử và vô số những sảnh đường và những khoảnh sân theo kiểu Babylon, hãy cùng đi vào hội trường tráng lệ này.
Năm chiếc đèn chùm được treo bằng những sợi dây đồng gắn trên trần – mỗi đèn nằm ở một góc, một đèn nằm ở chính giữa. Chúng giống như những kim tự tháp khổng lồ, chiếu sáng thậm chí cả những gương mặt gớm ghiếc của những bức tượng Atlas và những đường nét cầu kì trên chiếc mái đua. Xung quanh những chiếc bàn, có lẽ có đến hàng trăm người đang đứng ngồi, đi lại không ngớt, và chúng ta nên dành một chút thời gian xem xét kĩ những người này.
Tất cả bọn họ đều còn trẻ, vài người chỉ vừa mới qua tuổi thiếu niên. Họ rõ ràng là người Ý và phần lớn là người La Mã. Tất cả đều nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ Latin chuẩn mực nhất, trong khi ai nấy đều bận thứ trang phục trong nhà vốn phổ biến ở thành phố vĩ đại nằm bên bờ sông Tiber; nghĩa là áo ngắn tay và một chiếc váy ngắn, kiểu y phục rất phù hợp với khí hậu ở Antioch, đặc biệt thoải mái trong không gian đông đúc nơi đây. Những chiếc khăn và áo choàng bị vứt một cách cẩu thả rải rác trên chiếc pan, một vài trong số chúng mang viền tím. Đám thanh niên nằm duỗi mình thoải mái mà ngủ cũng trên chiếc pan đó. Mặc dù vậy, chúng ta sẽ không dừng chân để tìm hiểu xem họ nằm đó vì mệt mỏi trong tiết trời nóng ẩm hay vì món quà của thần Bacchus.
Những tiếng trò chuyện xì xào vang lên không ngớt. Đôi lúc vang lên một tràng cười hay những tiếng gầm gừ giận dữ; nhưng nổi bật hơn hết là những tiếng lọc xọc hòa vào nhau khiến người không quen phải lấy làm bối rối. Nhưng khi đến gần những cái bàn, ta sẽ thấy bí mật được gợi mở. Bọn họ đang chơi cờ và xúc xắc vốn là những môn được ưa chuộng nhất, đấu tay đôi hoặc theo nhóm. Những tiếng lọc xọc đơn giản là tiếng những quân xúc xắc bằng ngà voi được lắc mạnh và tiếng di chuyển của những quân cờ.
Bọn họ là ai?
“Flavius ơi,” một tay chơi nói, tay cầm quân cờ, “Anh có nhìn thấy cái áo choàng kia không, cái nằm ngay trước mặt chúng ta trên pan ấy. Nó còn mới tinh vừa mới lấy về từ cửa hiệu và trên vai có cái khuy bằng vàng to bằng bàn tay ấy.”
“Chà,” Flavius đáp, vẫn chăm chú vào trò chơi, “Tôi đã từng nhìn thấy những chiếc áo như thế rồi. Trong khi áo của anh không lấy gì làm cũ, thề có cái đai của Venus nó cũng không còn mới nữa! Thế nhưng chiếc áo ấy có gì đáng chú ý?”
“Không có gì đâu. Tôi sẵn sàng đánh đổi nó để tìm được một người biết tuốt.”
“Ha, ha! Với cái giá rẻ hơn, tôi có thể tìm cho anh vài người đeo khăn viền tím sẵn sàng chấp nhận đề xuất ấy. Nhưng chơi tiếp đi nào.”
“Đây – chiếu!”
“Thề có thần Jupiter! Nếu tôi đánh nước này thì anh cứu làm sao? Đánh ván mới chứ?”
“Được thôi.”
“Còn tiền cược?”
“Một sestertium.”
Hai người lấy những tấm bảng sáp và bút nhọn để ghi lại. Trong khi xếp lại những quân cờ, Flavius nhắc lại lời của bạn mình khi nãy:
“Một người biết tuốt! Hercle! Thế thì những đền thờ tiên tri sẽ lụi tàn hết. Anh muốn làm gì khi tìm được một người như thế?”
“Yêu cầu hắn trả lời một câu hỏi của tôi, Flavius ạ; rồi tôi sẽ cắt cổ hắn.”
“Câu hỏi là gì?”
“Tôi sẽ bắt hắn nói cho tôi biết vào lúc mấy giờ – có phải tôi vừa nói ‘giờ’ không? Không được, phải nói chính xác Maxentius sẽ đặt chân đến đây ngày mai lúc mấy giờ bao nhiêu phút.”
“Chơi hay đấy, chơi hay đấy! Giờ thì tôi bắt thóp được anh rồi! Nhưng tại sao phải hỏi kĩ từng phút?”
“Anh chưa bao giờ đứng đầu trần dưới ánh mặt trời Syria trên bến thuyền mà ông ta sẽ cập bến hay sao? Lửa của Vesta(*) cũng không nóng đến thế; và thề trên đền thờ của tổ tiên chúng ta là Romulus, nếu một ngày phải chết thì tôi chỉ muốn chết ở Rome thôi. Chốn này chẳng khác nào Avernus(*); còn ở Rome, trên quảng trường trước Forum, tôi có thể đứng đó vươn hai tay lên tưởng như chạm tới sàn cung điện của các vị thần. Ha, thề có Venus, Flavius ạ, anh lừa được tôi rồi! Trận này tôi xin thua. Hỡi Thần May mắn!”
“Chơi lại không?”
“Tôi phải gỡ lại đồng sestertium của mình mới được.”
“Được đấy.”
Hai người chơi hết ván này đến ván khác; và khi ánh sáng ban ngày chiếu qua ô sáng trên trần bắt đầu át đi những ngọn đèn, hai người vẫn ngồi ở đúng cái bàn đó, tiếp tục chơi. Giống như phần lớn những người khác, họ là những sĩ quan bảo vệ viên quan nhiếp chính đang chờ đợi sự có mặt của ông, và trong lúc này chỉ có thể giết thời gian mà thôi.
Đúng lúc này, một nhóm nữa đi vào phòng và tiến thẳng tới cái bàn ở chính giữa. Ban đầu không ai để ý đến họ cả. Có vẻ như họ cũng vừa rời khỏi một chốn ăn chơi nào đó. Vài người lảo đảo phải cố lắm mới đi vững được. Trên vầng trán của người đi đầu là một vòng nguyệt quế cho thấy người ấy nếu không phải là người tổ chức thì cũng chính là chủ của bữa tiệc. Rượu vang dường như chẳng hề khiến người ấy nao núng mà càng tôn thêm vẻ đẹp đậm chất đàn ông La Mã với mái đầu ngẩng cao, đôi môi hồng hào và hai gò má rạng rỡ, đôi mắt sáng rực. Dù cho ẩn trong bộ áo choàng trắng không tì vết với vô số những nếp gấp, dáng đi của người ấy dường như quá vương giả đối với một kẻ chưa say rượu nhưng cũng không phải là một Caesar. Khi tiến đến chỗ cái bàn, người đó tự tạo khoảng trống cho mình, trong khi những kẻ đi sau bước tiếp không lấy gì làm trịnh trọng mà cũng chẳng xin lỗi ai. Cuối cùng, người đi đầu dừng lại nhìn tất cả mọi người, trong khi bọn họ đổ dồn ánh mắt vào hắn và reo lên.
“Messala! Messala!” Ai nấy cùng kêu lên một tiếng.
Những người ngồi ở xa khi nghe thấy tiếng reo đó cũng nhắc lại từ chỗ của mình. Ngay lập tức các nhóm bắt đầu tản ra, trò chơi tạm dừng và ai nấy cùng đổ dồn đến trung tâm căn phòng.
Messala tỏ ra thờ ơ trước tất cả những cái đó, tiếp tục thể hiện mình là người được trọng vọng như thế nào.
“Xin chúc sức khỏe anh bạn Drusus của tôi,” hắn nói với người chơi phía bên phải mình; “chúc anh sức khỏe – xin mượn tấm bảng của anh một chút.”
Hắn cầm tấm bảng sáp lên, nhìn những con số ghi tiền cược, rồi ném nó xuống.
“Denarii, các anh chỉ toàn đánh cược bằng denarii – thứ tiền dành cho bọn phu kéo xe và bán thịt!” Hắn nói với một tràng cười chế giễu. “Hỡi Semele say rượu, tương lai của Rome sẽ thế nào đây khi một ông hoàng La Mã ngồi cả đêm chực chờ Thần May mắn đem lại cho mình vài đồng denarius quèn?”
Người con của gia tộc Drusi đỏ mặt tới tận chân tóc, nhưng những người xung quanh không để cho anh ta kịp đáp lại mà dồn lại gần hơn quanh cái bàn mà hò hét, “Messala vạn tuế! Messala vạn tuế!”
“Hỡi những người con của dòng Tiber,” Messala nói tiếp, giật lấy một hộp đựng một quân xúc xắc từ tay một người gần đó, “ai là người được những vị thần sủng ái nhất? Một người La Mã. Ai khiến mọi quốc gia phải phục tùng? Cũng là một người La Mã. Và ai nhờ lưỡi kiếm của mình trở thành bá chủ của cả vũ trụ?”
Cả đám gồm toàn những thanh niên trẻ kiêu hãnh, và họ nghĩ ngay về nơi chôn rau cắt rốn của mình; để rồi trong nháy mắt họ như cướp lời Messala.
“Một người La Mã, một người La Mã!” Họ kêu lên.
“Tuy thế, tuy thế...” Hắn nói chậm rãi để thu hút sự chú ý, “vẫn còn một người còn xuất chúng hơn cả những người giỏi nhất mà Rome từng sinh ra.”
Hắn ngẩng cao cái đầu quý tộc, không nói gì thêm, cứ như thể muốn chế giễu đám người xung quanh.
“Các anh nghe chưa?” Hắn hỏi. “Một người còn xuất chúng hơn cả những người giỏi nhất ở thành Rome.”
“Hẳn là Hercules(*)!” Một người kêu lên.
“Bacchus!” Một kẻ thích châm biếm nói.
“Jove – Jove!” đám đông reo hò.
“Không,” Messala đáp, “chỉ tính người trần thôi.”
“Hãy nói tên người đó, nói đi!” Mọi người khẩn nài.
“Tôi sẽ nói,” hắn đáp, rồi dừng lại một chốc nữa. “Sự hoàn mỹ của Rome kết hợp với sự hoàn mỹ của phương Đông tạo ra hắn; người mà ngoài tài chinh phục của phương Tây còn sở hữu cả sự khéo léo cần thiết để tận hưởng thành quả của người phương Đông.”
“Trời ơi! Cùng lắm thì cuối cùng đó cũng là một người La Mã,” ai đó kêu lên khiến mọi người xung quanh cười phá lên và vỗ tay tán thưởng – một dấu hiệu cho thấy Messala là người nắm lợi thế.
“Ở phương Đông…” hắn nói tiếp, “chúng ta không có vị thần nào, chỉ có rượu vang, phụ nữ, và may mắn, trong đó may mắn là thứ quan trọng nhất; thế nên châm ngôn sống của chúng ta là ‘Ai dám làm những điều ta làm?’ là rất phù hợp với nghị viện, ngoài chiến trường, với kẻ sẵn sàng vượt qua mọi chướng ngại để đạt được những điều vĩ đại nhất.”
Giọng nói của hắn đã dịu đi và trở nên thoải mái hơn, nhưng vẫn không làm mất đi vị thế mà hắn giành được.
“Trong chiếc hòm lớn trong pháo đài, tôi có năm talent(*) tiền vàng, và đây là hóa đơn.”
Từ chiếc áo cộc, hắn lấy ra một cuộn giấy và ném nó lên bàn, tiếp tục nói trong khi những người khác nín thở chờ đợi, ai nấy đổ dồn nhìn hắn, căng tai nghe hắn.
“Số tiền ấy cũng xứng đáng với những gì mà tôi dám đánh cược. Ai trong số các anh dám đánh cược số tiền đó? Các anh im lặng. Quá nhiều với các anh à? Tôi sẽ giảm bớt một talent vậy. Sao? Vẫn im lặng? Coi nào, hãy chơi với tôi một ván với số tiền cược ba talent – chỉ ba thôi; hay hai; hay một vậy – ít nhất là một chứ – một talent vì vinh quang của dòng sông nơi chúng ta sinh ra. Rome Đông đấu với Rome Tây! Dòng Orontes man rợ đấu với dòng Tiber thiêng liêng!”
Hắn lắc cái hộp đựng viên xúc xắc trên đầu trong khi chờ đợi.
“Orontes đấu với Tiber!” Hắn nhắc lại với vẻ châm biếm ngày càng rõ rệt.
Không ai dám cựa quậy. Hắn ném cái hộp lên bàn và bật cười, cầm tờ hóa đơn lên.
“Ha, ha, ha! Thề có Jove trên đỉnh Olympus, tôi biết các anh đều có cả một gia tài cần phải kiếm hoặc cần phải tiêu, thế nên các anh mới đến Antioch. Ái chà, Cecilius!”
“Tôi đây, Messala!” Một người kêu lên từ phía sau; “tôi chỉ là một kẻ lẫn lộn trong đám đông, phải kì kèo từng đồng drachma(*) với lão lái đò rách rưới. Nhưng Pluto cứ bắt tôi đi khi tôi cam đoan rằng những người ở đây đến một obulus(*) cũng không có.”
Câu phản đối ấy làm rộ lên một tràng cười vang vọng khắp cả hội trường. Chỉ có mình Messala là vẫn giữ vẻ nghiêm nghị.
“Hãy về nơi ở của ta,” hắn nói với Cecilius, “và bảo bọn người hầu mang những bình rượu tới đây, cùng với cốc chén nữa. Nếu những đồng hương tìm kiếm vận may của ta ở đây không mang theo ví tiền, thề có thần Bacchus xứ Syria, ta sẽ thử xem dạ dày họ có chống chịu tốt hơn hay không! Đi nhanh lên!”
Rồi hắn ngoảnh lại chỗ Drusus, cười phá lên vang khắp phòng.
“Ha, ha, anh bạn của tôi! Đừng bực mình vì tôi đã hạ thấp Caesar trong anh xuống ngang với một đồng denarii. Tôi chỉ đưa ra cái tên ấy để thử lòng những chàng trai trẻ của thành Rome thôi. Tới đây nào, Drusus thân mến, tới đây nào!” Hắn lại cầm lấy cái hộp và vui vẻ lắc quân xúc xắc. “Hãy tới đây để thử vận may của mình, và đặt cược bao nhiêu cũng được.”
Hắn nói câu này với phong thái rất thành thực, thân thiện và cuốn hút. Drusus xiêu lòng.
“Thề có các Nymphae, được thôi!” Drusus vừa nói vừa cười. “Tôi sẽ chơi một ván với anh, Messala – đặt cược một denarius.”
Một chàng trai rất trẻ đang quan sát toàn bộ cảnh tượng quanh chiếc bàn đó. Bỗng nhiên Messala quay về phía anh.
“Anh là ai?” Hắn hỏi.
Người ấy lùi lại.
“Tôi không có ý gì đâu, thề có Castor! Cả anh chàng này nữa! Tôi không có ý xấu gì cả. Chỉ là trong mọi việc chứ không chỉ chơi xúc xắc, người ta cần phải ghi chép tỉ mỉ nhất khi số tiền đánh cược thấp nhất. Tôi đang cần một thư ký. Anh có thể giúp tôi chứ?”
Chàng trai trẻ rút bảng của mình, sẵn sàng ghi tỉ số: phong thái của Messala đúng là không ai cưỡng lại nổi.
“Messala ơi, từ từ đã!” Drusus kêu lên. “Tôi không biết có phải điềm gở khi trì hoãn đổ xúc xắc bằng một câu hỏi hay không; nhưng trong đầu tôi vừa mới nảy ra một thắc mắc mà tôi buộc phải nói ra dù có bị Venus lấy đai lưng mà vụt đi nữa.”
“Không, Drusus ạ, Venus mà cởi đai lưng tức là nàng đang yêu. Còn về câu hỏi của anh – tôi sẽ đổ trước để các anh thấy tôi không thể ăn gian được. Đây...”
Hắn dốc cái hộp xuống bàn và úp lên quân xúc xắc.
Drusus hỏi, “Anh đã bao giờ gặp Quintus Arrius chưa?”
“Nhị pháp quan?”
“Không, ý tôi nói con trai ông ấy.”
“Tôi không biết ông ấy có con trai cơ đấy.”
“Chà, chẳng có gì đáng kể đâu,” Drusus nói thêm với vẻ bàng quan; “Messala ạ, Arrius còn giống anh hơn là Pollux giống Castor(*) cơ đấy.”
Câu nói ấy như thể làm hiệu khiến hai mươi người cùng đồng thanh kêu lên.
“Đúng, đúng! Đôi mắt, gương mặt giống lắm,” họ nói.
“Gì thế này!” một người bực tức trả lời. “Messala là một người La Mã; còn Arrius là một tên Do Thái.”
“Anh nói đúng,” một người thứ ba nói. “Hắn là một người Do Thái, hoặc Momus(*) đã cho mẹ hắn mượn nhầm chiếc mặt nạ.”
75
Thấy một cuộc tranh cãi sắp nổ ra, Messala xen vào. “Rượu vẫn chưa được mang đến, Drusus của tôi ạ; và anh thấy tôi nắm chắc những nàng Pythia với gương mặt lốm đốm này(*) như đàn chó bị xích vậy. Còn về Arrius, tôi sẽ chấp nhận lập trường của các anh về hắn, thế nên hãy nói cho tôi biết thêm đi.”
“Dù hắn là người Do Thái hay La Mã – thề có thần Pan, tôi nói như thế này không phải để chọc tức anh đâu, Messala! – nhưng tay Arrius này quả là điển trai, dũng cảm và sắc sảo. Hoàng đế đã rất biệt đãi hắn, muốn là người bảo trợ cho hắn nhưng hắn từ chối. Hắn nổi lên một cách bí ẩn, luôn giữ khoảng cách như thể hắn cảm thấy mình thấp kém hơn hoặc cao quý hơn hẳn chúng ta. Không ai địch lại nổi hắn ở đấu trường; hắn dễ dàng đánh bại những người khổng lồ mắt xanh từ vùng sông Rhine và những con bò mộng bị cưa sừng ở Sarmatia như thể bẻ cành củi khô vậy. Viên nhị pháp quan để lại cho hắn khối tài sản khổng lồ. Hắn rất đam mê binh nghiệp và trong đầu chỉ nghĩ đến chiến trận. Maxentius đã nhận hắn vào gia đình mình, và hắn lẽ ra phải đi chung chuyến tàu với chúng ta nhưng cuối cùng lại mất hút ở Ravenna. Tuy thế, cuối cùng hắn vẫn đến nơi an toàn. Chúng tôi đã nghe tin về hắn sáng nay. Trời đất! Thay vì đi đến cung điện hay pháo đài, hắn lại bỏ hành lý ở quán trọ và lại đi đâu mất hút.”
Ban đầu Messala lắng nghe với vẻ lãnh đạm lịch thiệp, nhưng dần dần hắn tỏ ra chăm chú hơn, và khi người kia nói xong hắn nhấc tay khỏi cái hộp xúc xắc và gọi, “Caius ơi! Anh đã nghe thấy chưa?”
Một thanh niên trẻ đứng cạnh hắn – người có vai trò giống như Myrtilus hay bạn đồng hành trên trường đua – hài lòng đáp lại vì được chú ý tới, “Nếu không lắng nghe thì tôi không phải là bạn của anh nữa rồi.”
“Anh có còn nhớ kẻ đã khiến anh bị ngã hôm nay không?”
“Thề có những lọn tóc của Bacchus, chẳng phải một bên vai tôi hãy còn đang bầm tím khiến tôi không tài nào quên được chuyện đó hay sao?” Sau đó anh ta nói tiếp và rướn vai lên đến tận hai tai.
“Hãy biết ơn số mệnh – ta đã tìm thấy kẻ thù của ngươi. Hãy lắng nghe này.”
Messala quay về phía Drusus.
“Hãy nói thêm cho tôi biết về hắn – kẻ vừa là người Do Thái vừa là người La Mã – thề có Phoebus, đúng là một sự kết hợp đủ khiến một con Nhân Mã(*) trở nên đáng mến! Hắn mặc y phục như thế nào vậy, Drusus?”
“Kiểu y phục Do Thái.”
“Anh nghe thấy chưa, Caius?” Messala nói. “Thứ nhất, hắn hãy còn rất trẻ; thứ hai, hắn có gương mặt của một người La Mã; thứ ba, hắn ưa thích kiểu trang phục của người Do Thái; và thứ tư, trên đấu trường hắn nổi danh với đôi cánh tay có thể kéo một con ngựa hay đẩy nghiêng một chiếc xe. Drasus, hãy giúp tôi một lần nữa. Chắc hẳn tay Arrius này phải là người rất thông thạo ngôn ngữ, nếu không hắn đã không thể đóng vai người Do Thái hôm nay rồi đến mai lại là người La Mã được. Thế nhưng hắn có nói thứ tiếng kì diệu của Athene hay không?”
“Một cách chuẩn mực nhất, Messala ạ, đến nỗi hắn đủ sức đua tài hùng biện ở Isthmia.”
“Anh có nghe thấy không, Caius?” Messala lại nói. “Hắn ở đẳng cấp có thể chào một người phụ nữ hay thậm chí cả nàng Aristomache(*) bằng tiếng Hy Lạp và nếu tôi đếm không nhầm thì đó là điểm thứ năm. Anh muốn nói gì không?”
“Chắc chắn là anh đã tìm ra hắn, Messala ạ,” Caius trả lời; “cũng chắc chắn như tôi là Caius vậy.”
“Xin lỗi nhé, Drusus và xin tất cả thứ lỗi vì đã nói năng khó hiểu như thế,” Messala nói bằng phong thái cởi mở đặc trưng. “Thề trên tất cả những vị thần cao quý, tôi không có ý muốn thử thách sự lịch thiệp của các anh, nhưng xin hãy giúp tôi. Nhìn này!” Hắn đặt tay lên hộp xúc xắc và bật cười, “Hãy nhìn xem tôi đang giữ kín bí mật của Pythia như thế nào! Tôi thấy là các anh chưa nói gì đến sự xuất hiện bí ẩn của người con của Arrius. Hãy kể cho tôi nghe xem.”
“Không có gì đâu, Messala, không có gì đâu,” Drusus đáp, “chỉ là chuyện trẻ con thôi. Khi Arrius dong buồm truy đuổi bọn cướp biển, ông không hề có vợ con để rồi ông trở về cùng một thanh niên sau chuyến đó – chính là người chúng ta vừa nhắc đến và ngày hôm sau nhận kẻ đó làm con nuôi.”
“Nhận làm con nuôi?” Messala nhắc lại. “Thề có các vị thần, Drusus ạ, anh quả là đã khiến tôi ngạc nhiên! Ngài nhị pháp quan đã tìm thấy chàng thanh niên đó ở đâu? Và người đó là ai?”
“Ai có thể trả lời câu hỏi ấy, Messala, nếu không phải đích thân Arrius? Ngài nhị pháp quan – khi ấy hãy còn là hộ dân quan – đã mất chiến thuyền của mình trong trận chiến. Một con tàu khác tìm thấy ông cùng một người nữa – cả tàu chỉ còn hai người bọn họ sống sót – đang trôi nổi trên một tấm ván. Ở đây tôi chỉ kể lại câu chuyện theo đúng như lời của những người đã cứu được họ, ít nhất là chưa có ai nói ngược lại cả. Họ kể rằng, người bám trên tấm ván cùng với ngài nhị pháp quan là một tên Do Thái.”
“Một tên Do Thái!” Messala nhắc lại.
“Và là một nô lệ.”
“Sao lại thế, Drusus? Một nô lệ?”
“Khi hai người được cứu lên boong, Arrius đang bận áo giáp dành riêng cho hộ dân quan, trong khi người kia mang y phục của một nô lệ chèo thuyền.”
Messala từ nãy dựa vào cái bàn, giờ vụt đứng thẳng dậy.
“Chiến thuyền!” Hắn nhắc lại từ ấy và nhìn quanh, dường như vô cùng bối rối. Đúng lúc đó một toán nô lệ bước vào phòng, mang theo những bình rượu lớn, những giỏ hoa quả và bánh kẹo cùng những cốc chén phần lớn đều bằng bạc làm mọi người trong phòng phấn chấn hẳn lên. Ngay lập tức Messala leo lên một chiếc ghế.
“Hỡi những người con của dòng sông Tiber,” hắn nói lớn, “hãy biến sự chờ đợi vị chủ tướng của chúng ta thành một ngày hội vinh danh Bacchus. Các anh định chọn ai là chúa tể?”
Drusus đứng dậy.
“Ai có thể là chúa tể ngoài người chủ bữa tiệc?” anh ta nói. “Hãy trả lời đi, hỡi những người La Mã.”
Tất cả hò hét đáp lại.
Messala cầm lấy vòng nguyệt quế trên đầu đưa cho Drusus. Drusus leo lên bàn, nghiêm nghị đặt lại nó lên đầu Messala trước mặt tất cả mọi người, chứng tỏ rằng Messala là người lĩnh xướng buổi tiệc đêm nay.
“Lúc nãy có vài người bạn đi cùng tôi,” hắn nói, “và họ cũng chỉ vừa mới rời bàn tiệc ở nơi khác. Theo tục lệ thiêng liêng, để buổi tiệc thêm long trọng, hãy mang người say túy lúy nhất tới đây.”
Vài giọng nói vang lên, “Đây rồi, đây rồi!”
Một thanh niên nằm gục trên sàn được nhấc lên, đưa ra phía trước. Anh ta đẹp trai đến nỗi người ta có thể nhầm đó là vị thần rượu nho không mang vương miện và cây quyền trượng.
“Đặt anh ta lên bàn,” chủ tiệc nói.
Rõ ràng là anh ta ngồi còn không vững nữa.
76
“Hãy giúp anh ta nào, Drusus, để nàng Nyone xinh đẹp giúp đỡ anh.”
Drusus choàng tay quanh người chàng thanh niên say rượu.
Sau đó Messala nói với người say rượu mềm oặt kia trong sự im lặng uy nghiêm của cả hội trường, “Hỡi Bacchus, vị thần vĩ đại nhất! Xin hãy phù hộ cho chúng con đêm nay. Về phần con và những người dự tiệc, con xin dâng vòng nguyệt quế này.” Hắn tôn kính giơ cái vòng trên đầu lên. “Con xin thề sẽ dâng vòng nguyệt quế này lên bàn thờ của Người tại vườn cây Daphne.”
Hắn cúi mình, đặt lại vòng nguyệt quế lên mái tóc, sau đó cúi xuống mở hộp xúc xắc ra và phá lên cười, “Thấy chưa, Drusus, thề có con lừa của Silenus(*), tôi thắng rồi!”
Những tiếng hò hét khiến sàn căn phòng như rung lên, những thần Atlas nghiêm nghị trên tường như nhảy múa, và những trò thác loạn bắt đầu.