Chương II Người hủi
“Một người phụ nữ của đất Israel bị chôn vùi ở đây cùng con gái. Xin hãy cứu lấy chúng tôi nhanh lên, nếu không chúng tôi chết mất.”
Đó là lời khẩn cầu mà viên quản ngục Gesius đã nghe thấy từ phòng giam mà trên tấm bản đồ mới sửa lại được đánh số VI. Các độc giả tinh ý khi nghe câu trả lời này hẳn đã biết những người xấu số đó là ai mà thốt lên rằng: “Cuối cùng ta cũng tìm thấy mẹ của Ben-Hur, và người em gái Tirzah của anh!”
Quả thực là như vậy.
.
Vào buổi sáng khi cả gia đình bị bắt tám năm về trước, họ bị đưa tới pháo đài này, nơi Gratus ra lệnh thủ tiêu họ. Lão đã lựa chọn pháo đài này vì nó tiện dụng nhất cho mục đích của lão, và lựa chọn phòng giam số VI. Vì thứ nhất, nó dễ bị quên lãng hơn mọi phòng giam khác; và thứ hai, phòng ấy mang mầm bệnh hủi. Như vậy, những tù nhân này sẽ bị nhốt vào một nơi vô cùng kiên cố để chờ chết. Vào ban đêm, khi không ai có thể chứng kiến tội ác đó, những người này đã bị đám nô lệ lôi đi; để rồi chính những kẻ đó xây tường bịt kín cánh cửa. Cuối cùng, đám nô lệ này bị giải tán, đưa đi khắp nơi không ai hay biết. Để tránh bị buộc tội, và thậm chí ngay cả khi điều đó xảy ra thì lão vẫn có thể vin vào sự khác biệt giữa đòn trừng phạt và hành vi giết người, Gratus cố ý nhốt những nạn nhân của mình vào nơi mà cái chết tự nhiên rồi sẽ từ từ đến với họ. Vì biết họ có thể sống lay lắt thật lâu, lão đã lựa chọn một tù nhân mù lòa và bị cắt lưỡi, nhốt người ấy vào phòng giam duy nhất bên cạnh để đưa đồ ăn thức uống cho hai người phụ nữ. Lão già tội nghiệp sẽ không bao giờ có thể kể lại câu chuyện khủng khiếp hay nhận diện hai tù nhân bị ném vào đó để chết. Như vậy, bằng một kế hoạch có sự can dự của Messala, lão tỉnh trưởng La Mã đã lấy cớ trừng phạt những kẻ ám sát để dễ dàng tịch thu hết gia sản của dòng họ Hur – trong đó không có phần nào được nộp vào ngân khố cả.
Để thực hiện nốt bước cuối cùng của kế hoạch, Gratus đã cho đổi người gác ngục; không phải vì người ấy biết lão đã làm gì – sự thật là viên quản ngục không hề hay biết – mà là vì với một người thông thuộc mặt bằng khu phòng giam dưới lòng đất, lão sẽ không thể giữ bí mật phòng giam ấy. Rồi bằng sự xảo trá bậc thầy, lão tỉnh trưởng đã cho vẽ những tấm bản đồ mới rồi trao cho viên quản ngục mới, trong đó như chúng ta đã biết không hề cho thấy sự tồn tại của phòng giam số VI. Những mệnh lệnh của lão dành cho viên quản ngục cùng với tấm bản đồ đã giúp kế hoạch hoàn toàn trót lọt – cả buồng giam và những tù nhân xấu số trong đó bị lãng quên hẳn.
Để hiểu được cuộc sống của hai mẹ con trong suốt tám năm khủng khiếp đó, chúng ta cần so sánh nó với những thói quen và sự thanh nhã trong lối sống trước kia của họ. Điều kiện sống của con người dễ chịu hay khổ cực là đều là dựa trên đánh giá chủ quan của chúng ta. Không có gì quá đáng nói rằng nếu bất chợt tất cả giống người trên thế gian đều chết cả cùng một lúc, hầu hết mọi người sẽ không coi Thiên đàng như được khắc họa trong Thiên Chúa giáo là Thiên đàng với mình; mặt khác, nếu rơi xuống Địa Ngục thì họ cũng không cảm thấy khổ cực như nhau. Giáo dục cũng có mặt trái của nó. Khi trí tuệ con người phát triển hơn, khả năng tận hưởng niềm vui của linh hồn cũng tăng lên. Đó là khi người ấy được sống sung sướng! Nhưng trong hoàn cảnh đối lập, trí tuệ lại trở thành gánh nặng! Khả năng tận hưởng niềm vui trong cảnh sống này lại là thước đo khả năng chất chứa nỗi khổ cực trong cảnh sống kia. Trong khi đó sự ăn năn không chỉ đơn giản là hối hận vì những tội lỗi của mình; nó còn bao hàm cả sự thay đổi về bản chất con người để xứng đáng được lên Thiên đàng.
Chúng tôi xin nhắc lại, để hiểu được thấu đáo những nỗi khổ cực mà mẹ của Ben-Hur đã phải chịu đựng, độc giả cần phải coi tinh thần và sự nhạy cảm của bà giúp bà đủ sức chịu đựng, nếu không nói là vượt lên trên cả điều kiện sống khi bị giam giữ. Vì thế câu hỏi cốt yếu không phải điều kiện trong buồng giam của họ là như thế nào, mà là nó ảnh hưởng đến bà ra sao. Và giờ chúng tôi có thể nói rằng cảnh cuộc trò chuyện trong căn phòng nghỉ mùa hè trên mái của dinh thự gia đình nhà Hur đã được mô tả kĩ càng như vậy ở đầu Quyển hai cũng chính là để giúp bạn đọc hiểu được thấu đáo hơn những ý nghĩ này. Vì mục đích tương tự, toàn bộ dinh thự của gia đình họ Hur cũng đã được khắc họa thật chi tiết.
Hãy cùng nhớ lại cảnh sống yên bình, hạnh phúc, giàu sang trong căn dinh thự và so sánh nó với cảnh sống trong căn hầm dưới pháo đài Antonia. Sau đó, dù độc giả cố gắng mường tượng nỗi thống khổ của người phụ nữ này và để tâm nhiều đến mô tả chi tiết căn phòng này, chúng cũng sẽ không khiến cho bạn bị lạc lối; bởi lẽ nếu bạn là người biết yêu đồng loại, có trái tim nhân hậu, hẳn bạn cũng sẽ thấy mủi lòng mà cảm thông cho bà. Nhưng nếu đào sâu hơn, hẳn bạn sẽ còn nhận thấy một cảm xúc khác còn sâu sắc hơn cả sự cảm thông. Bạn có thể cảm nhận được nỗi đau đớn về tinh thần và trong linh hồn bà, và để hiểu thấu mức độ của nó, bạn chỉ cần nhớ lại những gì bà đã thuyết giảng cho con trai về Chúa, các quốc gia và những người anh hùng – trong đó bà đóng vai trò người thầy nhưng không hề quên đi vai trò của người mẹ.
Để khiến một người đàn ông đau đớn, hãy đánh vào lòng tự ái; để khiến một người phụ nữ khổ sở tột cùng, hãy nhắm tới những người mà bà yêu thương.
Sau khi đã nhớ về cảnh sống trước kia của những người xấu số này, hãy cùng đi xuống tận buồng giam để nhìn họ lúc này.
Phòng giam số VI. có hình dạng đúng như Gesius đã vẽ trên bản đồ. Người ta khó có thể biết chính xác kích thước của nó; chỉ đó là một phòng khá rộng, với nội thất sơ sài, những bức tường và sàn nhà nứt nẻ.
Ban đầu, khuôn viên lâu đài của người Macedonia được chia tách khỏi khuôn viên đền thiêng bằng một vách đá hẹp mà sâu có hình giống như cái nêm. Những người thợ khi xây nên những phòng giam này đã tiến vào từ phía Bắc của vách đá, đào sâu vào trong, để lại trần nhà bằng đá tự nhiên và tạo thành phòng giam số V., IV., III., II., I., mà không có lối nào thông với phòng giam số VI. ngoại trừ cửa qua phòng giam số V. Theo cách tương tự, họ đã xây dựng hành lang và các cầu thang dẫn lên tầng trên. Quá trình này giống hệt như để xây dựng lăng mộ của những vị vua mà ngày nay ta vẫn còn nhìn thấy nằm cách không xa Jerusalem. Khi mọi việc đã xong xuôi, phòng giam số VI. được bao quanh bên ngoài bằng một bức tường vững chắc mà trên đó để thông gió, người ta trổ những lỗ hẹp có khung giống như ô cửa bên mạn tàu hiện đại. Herod khi nắm quyền sở hữu đền thiêng và pháo đài đã cho xây một bức tường dày hơn nữa bên ngoài lớp tường này, che kín hết mọi lỗ thông hơi ngoại trừ một ô cửa để lọt một chút không khí và một tia sáng le lói chẳng đủ để xua đi bóng tối trong phòng.
Đó là cảnh sống trong phòng giam số VI.
Xin đừng giật mình!
.
Thậm chí những mô tả về tù nhân mù lòa và bị cắt lưỡi vừa được thả từ phòng giam số V. cũng không khủng khiếp bằng những gì chúng tôi sắp nói tới.
Hai người phụ nữ ngồi sát bên nhau bên lỗ hổng; một người ngồi để người kia dựa vào. Giữa họ và mặt đá trơ trọi không có gì ngăn cách. Ánh sáng chiếu xiên lên trên khiến gương mặt họ mang vẻ ma quái, và chúng ta không thể không thấy họ gần như chẳng còn quần áo gì. Cùng lúc đó, chúng ta được an ủi phần nào khi biết rằng ở đó tình yêu vẫn tồn tại, vì hai người vẫn đang ôm lấy nhau. Sự giàu sang sung sướng vốn phù du, hi vọng cũng có lúc lụi tàn, nhưng tình yêu vẫn sẽ luôn đồng hành cùng với con người. Tình yêu là Chúa.
Nền đá nơi hai người ngồi bên nhau bóng loáng. Ai mà biết được trong suốt tám năm họ đã ngồi bao nhiêu lâu bên ô cửa, nuôi dưỡng hy vọng một ngày sẽ được cứu thoát bằng tia sáng yếu ớt mà thân thuộc ấy? Khi ánh sáng chiếu vào phòng, họ biết lúc ấy là bình minh; khi nó bắt đầu tắt, họ biết thế giới đang sửa soạn chuẩn bị cho buổi tối, và không nơi đâu đêm đen lại dài và tối tăm như ở đây. Thế giới! Qua lỗ hổng đó, cứ như thể nó cao và rộng như cánh cổng của nhà vua, họ bước ra ngoài thế giới bằng ý nghĩ, chịu đựng thời gian đằng đẵng, một người nghĩ về con trai, người kia nghĩ về anh trai mình. Họ tìm kiếm anh trên mặt biển, trên những hòn đảo bên kia đại dương; ngày hôm nay anh đang ở thành phố này, ngày mai ở thị trấn nọ. Anh hiện diện ở tất cả mọi nơi, mọi lúc, giống như một người du mục không ở lâu chỗ nào; vì cũng giống như họ đang sống để chờ đợi anh, anh cũng đang sống để tìm kiếm họ. Ý nghĩ của họ đã đi ngang qua nhau bao nhiêu lần trong cuộc kiếm tìm vô tận mà ở đó anh thì đi tới còn họ thì ra đi? Họ cảm thấy một niềm vui ngọt ngào mỗi khi nói với nhau rằng, “Một khi Ben-Hur còn sống thì chúng ta vẫn chưa bị lãng quên; một khi Ben-Hur còn nhớ thì hai ta vẫn còn hi vọng!” Ai có thể hiểu được con người ta có thể nuôi dưỡng hy vọng bằng những điều nhỏ nhoi như thế nào khi chưa tự mình trải qua thử thách?
Những gì chúng ta biết về họ trước kia khiến ta phải kính cẩn; nỗi đau khổ bao trùm họ trong vầng hào quang thần thánh. Không bước đến quá gần mà đứng ở đầu kia căn phòng, chúng ta có thể thấy vẻ bề ngoài của họ đã thay đổi ghê gớm tới mức ngay cả thời gian và sự giam giữ cũng không thể giải thích nổi. Người mẹ từng xinh đẹp như một người đàn bà, người con gái từng xinh đẹp như một thiếu nữ. Thế nhưng giờ thậm chí cả những người yêu thương họ nhất cũng chẳng thể nói như vậy được nữa. Tóc họ dài, bù xù, trắng toát một cách lạ lùng; họ khiến ta phải co rúm lại, rùng mình vì một cảm giác kinh hãi khó tả. Cảm giác ấy có lẽ phần nào đến từ tia sáng lờ mờ gần như bị bóp nghẹt trong bóng tối dày đặc, mà cũng có thể là do họ đã phải chịu đòn tra tấn của sự đói khát, không có gì để ăn uống kể từ khi người tù tiếp tế cho họ ở phòng bên được thả – nghĩa là từ hôm qua.
Tirzah ngả mình dựa vào mẹ, miệng rên rỉ mười phần đáng thương.
“Im lặng nào, Tirzah. Rồi họ sẽ đến. Chúa vốn nhân từ. Chúng ta chưa một phút nào quên Người, vẫn luôn cầu nguyện sau mỗi hồi kèn vọng đến từ đền thiêng. Con có thể thấy tia sáng hãy còn rất rõ; mặt trời vẫn chưa lên đến bầu trời phía Nam, và chắc vẫn chưa tới bảy giờ. Ai đó rồi sẽ tìm đến chỗ chúng ta. Hãy giữ vững đức tin. Chúa vốn luôn nhân từ.”
Đó là những lời nói của người mẹ, vẫn giản đơn mà thấm thía, mặc dù tám năm đã trôi qua kể từ cái tuổi mười ba mà chúng ta nhìn thấy Tirzah lần cuối cùng và Tirzah không còn là một cô bé nữa.
“Con sẽ cố giữ vững niềm tin, thưa mẹ,” cô nói. “Nỗi thống khổ của mẹ cũng không khác gì con; và con muốn sống vì mẹ và vì anh trai! Nhưng lưỡi con bỏng rát, đôi môi đã nẻ toác rồi. Con tự hỏi giờ anh đang ở đâu và liệu có bao giờ anh tìm được chúng ta hay không!”
Trong giọng nói của cô có âm thanh gì đó thật lạ lùng – the thé, khô khốc, lạnh lùng như kim loại, khác hẳn tiếng nói tự nhiên.
Người mẹ ôm con gái vào ngực vào nói, “Mẹ vừa mơ về anh trai con đêm qua, và mẹ nhìn thấy anh con rõ mồn một, Tirzah ạ, cũng giống như mẹ đang nhìn thấy con lúc này vậy. Chúng ta cần phải tin vào những giấc mơ, vì cha ông ta trước kia đã từng như thế. Chúa vẫn thường trò chuyện với họ qua cách đó. Trong mơ chúng ta đang đứng ở sân Nữ giới ngay trước cổng Tráng lệ; ở đó còn rất nhiều những người phụ nữ khác, và anh con đến đứng trong bóng râm của cái cổng, nhìn hết người nọ tới người kia. Tim mẹ đập rộn ràng. Mẹ biết Ben-Hur đang tìm kiếm chúng ta, và vươn tay về phía nó, vừa chạy tới vừa gọi. Ben-Hur nghe thấy và nhìn thấy mẹ, nhưng không nhận ra. Trong chớp mắt Ben-Hur đã biến mất.”
“Liệu điều đó có xảy ra khi cuối cùng chúng ta thực sự gặp lại anh ấy? Chúng ta đã thay đổi nhiều quá rồi.”
“Cũng có thể; nhưng...” Người mẹ cúi đầu, gương mặt nhăn lại như đang phải chịu nỗi đau ghê gớm. Khi đã bình tĩnh lại, bà nói tiếp, “... nhưng chúng ta có thể giúp anh con nhận ra.”
Tirzha giơ hai cánh tay lên và kêu than một lần nữa.
“Nước, mẹ ơi, nước, dù chỉ một giọt mà thôi.”
Người mẹ nhìn quanh bất lực. Bà đã nhắc đến Chúa nhiều lần, và vẫn thường nhân danh Chúa mà hứa hẹn với cô, đến nỗi sự nhắc đi nhắc lại này đối với bà đã gần như trở thành lời chế nhạo. Một bóng đen lướt qua trước mắt bà trong ánh sáng lờ mờ, và bà chợt nghĩ cái chết đã đến rất gần, chực chờ ập tới khi bà từ bỏ đức tin. Gần như không biết mình đang làm gì mà nói một cách vô thức – bởi lẽ bà bắt buộc phải nói – bà an ủi,
“Hãy kiên nhẫn, Tirzah; họ đang đến đây – sắp tới nơi rồi.”
Bà nghĩ rằng mình vừa nghe thấy một tiếng động từ ô cửa nhỏ trên bức tường ngăn từng là lối duy nhất để họ giao tiếp với thế giới. Và bà đã không lầm. Một thoáng sau, tiếng kêu của người tù phòng bên vang vọng khắp buồng giam. Tirzah cũng nghe thấy. Cả hai đứng dậy, vẫn ôm lấy nhau.
“Xin tạ ơn Chúa vĩnh hằng!” Người mẹ thốt lên sung sướng với đức tin và niềm hi vọng mới.
“Này!” họ nghe thấy tiếng gọi, “Ai ở trong đó thế?”
Giọng nói này họ chưa nghe thấy bao giờ. Nhưng có sao đâu? Ngoại trừ tiếng nói của Tirzah, đó là những lời đầu tiên và cũng là duy nhất mà người mẹ được nghe trong suốt tám năm nay. Nó có tác động thật ghê gớm, đưa con người đi thẳng từ cõi chết trở về!
“Một người phụ nữ của đất Israel bị chôn vùi ở đây cùng con gái. Xin hãy cứu lấy chúng tôi nhanh lên, nếu không chúng tôi chết mất.”
“Hãy vui lên đi. Tôi sẽ quay lại ngay.”
Hai mẹ con bật khóc nức nở. Họ đã được tìm thấy và sắp được cứu thoát. Từ những mong ước bên trong họ, hi vọng tung cánh vụt bay như chim én. Họ đã được tìm thấy; họ sẽ được giải thoát. Rồi họ sẽ lấy lại được những gì đã mất – ngôi nhà, những người thân quen, tài sản, người con trai và anh trai! Tia sáng yếu ớt bỗng biến thành ánh nắng chứa chan. Quên đi nỗi đau, sự đói khát, và cả cái chết đang cận kề, họ ngồi sụp xuống sàn mà khóc, ôm chặt lấy nhau.
Lần này họ không phải chờ lâu. Câu chuyện của viên quản ngục Gesius dù có lê thê, nhưng rồi cuối cùng anh ta cũng kể xong. Viên pháp quan bắt tay vào hành động ngay tức khắc.
“Hỡi những tù nhân trong đó!” Ông ta nói qua ô cửa.
“Chúng tôi ở đây!” Người mẹ nói và đứng dậy.
Rồi bà nghe thấy những tiếng động vang tới từ một nơi khác, giống như tiếng búa nện vào tường – những nhát búa sắt thật nhanh vang vọng khắp nơi. Bà không nói gì, cả Tirzah cũng vậy, nhưng họ chăm chú lắng nghe và hiểu ra rằng người ta đang phá một lối để giải thoát cho họ. Họ giống như những người thợ bị chôn vùi dưới hầm mỏ nghe thấy âm thanh của sự giải thoát, tiếng những xà beng và cuốc chim, để rồi họ đáp lại đầy biết ơn bằng trái tim thổn thức, ánh mắt nhìn chăm chăm vào nơi tiếng động phát ra. Không ai có thể ngoảnh mặt đi, vì nếu âm thanh dừng lại, họ sẽ lại rơi vào tuyệt vọng.
Những người thợ bên ngoài làm việc bằng cánh tay khỏe mạnh, khéo léo, và bằng cả lòng nhân hậu. Dần dần mỗi nhát búa càng vang lên rõ rệt hơn; thỉnh thoảng một mảng tường lại rơi xuống, sự giải thoát đến gần hơn. Và rồi hạnh phúc ùa tới! Qua một khe hở lóe lên ánh đuốc đỏ rực. Trong bóng tối nó rọi sáng một đường rực rỡ như kim cương lóng lánh, đẹp đẽ như ngọn giáo của thần Mặt Trời vào buổi sáng.
“Đúng là anh rồi, mẹ ơi, đúng là anh rồi! Anh đã tìm thấy chúng ta rồi!” Tirzah thốt lên sung sướng với trí tưởng tượng của tuổi trẻ.
Nhưng người mẹ chỉ hiền hậu đáp lại, “Chúa thật nhân từ!”
Một mảng tường rơi vào bên trong, rồi một mảng nữa – cả khối đổ xuống và cánh cửa được mở ra. Một người đàn ông trên mình bám đầy bụi và vữa bước vào, dừng lại, giơ cao cây đuốc trên đầu, đứng tránh sang một bên cho viên pháp quan đi vào.
Sự tôn trọng dành cho nữ giới không chỉ là một phong tục trống rỗng mà nó là minh chứng rõ nhất cho cốt cách thực sự của họ. Viên pháp quan dừng lại, vì hai người phụ nữ rúm mình lẩn trốn – không phải vì sợ hãi, mà vì xấu hổ; hay nói thẳng ra là chỉ vì xấu hổ mà thôi! Từ nơi lẩn trốn của họ, ông nghe thấy tiếng nói – những lời buồn thảm nhất, ghê rợn nhất, tuyệt vọng nhất trong ngôn ngữ con người:
“Đừng đến gần – không sạch, không sạch!”
Những người đàn ông giơ cao cây đuốc, mắt nhìn nhau.
“Không sạch, không sạch!” Tiếng nói lại phát ra từ trong góc, tạo thành một tiếng rên rỉ đau đớn. Nghe thấy tiếng rên đó, người ta tưởng như có thể nhìn thấy một linh hồn biến mất khỏi cổng Thiên đàng, trong khi đó vẫn ngoái lại phía sau.
Người mẹ đã thực hiện nghĩa vụ của mình như vậy, và đúng lúc ấy bà nhận ra sự tự do mà bà vẫn cầu nguyện và mơ ước ấy, những trái quả chín vàng đỏ mọng khi nhìn từ xa ấy, khi đến gần hóa ra chỉ là trái táo Sodom mà thôi(*).
BÀ VÀ TIRZAH MANG BỆNH HỦI!
Có lẽ nhiều bạn đọc không hiểu hết ý nghĩa của nó. Trong bộ luật thời đó đã ghi rõ.
“Có bốn loại người được coi như đã chết – người mù, người hủi, người nghèo, và người không thể có con.” – trích sách Talmud.
Như vậy có nghĩa là người bị bệnh hủi được coi như đã chết rồi – bị loại bỏ khỏi xã hội không khác gì một xác sống; chỉ có những người thân yêu nhất mới dám đứng từ xa mà nói chuyện; chỉ có thể sống cùng với những người bị bệnh hủi như mình; bị tước bỏ hoàn toàn mọi quyền lợi; bị chối bỏ các nghi lễ trong đền thiêng và nhà thờ Do Thái; phải mặc quần áo đi thuê, luôn luôn phải che miệng ngoại trừ khi muốn kêu lên, “Không sạch, không sạch!” phải sống ở nơi hoang vu hoặc những nấm mộ bỏ hoang; trở thành một bóng ma trong thung lũng Hinnom và Gehenna; luôn luôn là gánh nặng với bản thân còn hơn là mối đe dọa với những người xung quanh; dù sợ chết nhưng có sống cũng chẳng còn hi vọng gì.
.
Từng có một lần – bà không thể biết là ngày tháng năm nào, vì ở chốn địa ngục này thời gian bị quên lãng – người mẹ cảm thấy một chỗ vảy khô trên bàn tay phải. Dù bà đã cố gột rửa nó đi, nó vẫn bám chắc. Thế nhưng bà vẫn không hề để tâm tới nó cho tới khi Tirzah nói rằng cô cũng gặp phải tình trạng tương tự. Họ được cung cấp rất ít nước, và vì vậy đành phải nhịn uống để rửa vết đó. Dần dần, nó lan ra cả bàn tay; làn da họ nứt toác ra, các móng tay rời khỏi thịt. Họ không cảm thấy quá đau đớn, mà chỉ thấy một cảm giác ngày càng khó chịu mà thôi. Sau đó, môi họ bắt đầu nứt nẻ. Cho tới một ngày, người mẹ vốn có thói quen vô cùng sạch sẽ – và bà đã chiến đấu với sự bẩn thỉu của chốn lao tù bằng những phương kế thiên tài – cho rằng chứng bệnh đó đã lan đến gương mặt của Tirzah. Bà dẫn cô ra chỗ anh sáng, và kinh hãi nhận thấy lông mày của cô gái trẻ trắng như tuyết.
Ôi, khám phá ấy mới đau đớn làm sao!
Người mẹ ngồi thừ ra một lúc không nói được gì, không cử động, linh hồn tê liệt, chỉ có thể nghĩ tới một điều – bệnh hủi!
Khi bà bắt đầu suy nghĩ, theo bản năng của người mẹ bà không hề nghĩ về mình mà về con gái mình, để rồi sự hiền dịu tự nhiên trong bà biến thành lòng dũng cảm, và bà chuẩn bị tinh thần để thực hiện một sự hi sinh anh dũng cuối cùng. Bà chôn giấu bí mật đó trong trái tim mình. Dù chính mình cũng tuyệt vọng, bà càng tận tụy với Tirzah hơn, và bằng những cách khéo léo – điều kì diệu là bà không ngừng nghĩ ra những cách mới – bà đã giấu khiến cô gái không hề biết gì về chứng bệnh họ mắc phải, và thậm chí còn hi vọng rằng nó chẳng có gì nghiêm trọng. Bà chơi với cô, kể lại cho cô những câu chuyện cũ, và nghĩ ra những câu chuyện mới, đồng thời sung sướng lắng nghe những bài hát của Tirzah, trong khi trên đôi môi nứt nẻ của bà lẩm nhẩm những câu thơ về vị vua ca hát và dân tộc của Người. Nhờ thế họ có thể quên đi thực tại, giữ vững những hồi ức về vị Chúa và thế giới dường như đã bỏ rơi họ.
Từ từ mà chắc chắn một cách ghê gớm, chứng bệnh đó lan ra, để rồi một thời gian sau mái đầu họ đã bạc trắng, mi mắt và đôi môi thủng lỗ chỗ, thân thể đầy những cái vảy; giọng nói của họ trở nên the thé, gân cốt dần cứng lại – người mẹ biết rõ rằng bệnh tình của họ đã không còn cứu chữa được nữa, và rồi nó sẽ lan đến phổi, mạch máu và xương, dần dần khiến người bệnh càng trở nên ghê tởm hơn; nó sẽ tiếp diễn cho tới khi họ chết dần chết mòn sau nhiều năm nữa.
Một ngày khủng khiếp nữa cuối cùng cũng tới – cái ngày mà người mẹ vì nghĩa vụ đã phải nói cho Tirzah biết chứng bệnh mà họ gặp phải; và hai người đã đau khổ cùng nhau cầu nguyện để cái chết giải thoát cho họ sớm hơn.
Thế nhưng giống như sức mạnh của thói quen, những người mắc bệnh dần dần nói về chứng bệnh đó một cách bình thản; họ nhìn nhận sự biến đổi khủng khiếp của mình như một điều tất nhiên, và bất chấp tất cả vẫn cố bám trụ lấy sự sống. Họ vẫn còn một mối dây gắn chặt với cuộc đời này. Quên đi sự cô độc của chính mình, họ cố động viên nhau bằng cách trò chuyện và mơ về Ben-Hur. Người mẹ hứa hẹn rằng rồi sẽ có ngày họ được gặp lại anh, trong khi người con gái thì khẳng định anh vẫn chưa hề quên họ, và anh sẽ hạnh phúc như thế nào trong ngày đoàn tụ. Bằng cách xe mãi sợi chỉ mong manh này, họ tìm thấy niềm vui để khỏi chết. Như chúng ta đã thấy, hai người đang an ủi nhau như vậy đúng lúc Gesius gọi họ, sau mười hai giờ không ăn không uống.
Những ngọn đuốc tỏa ánh sáng đỏ rực trong phòng giam, và sự giải thoát cuối cùng cũng tới. “Chúa thật nhân từ,” người mẹ thốt lên không phải vì những gì đã xảy ra trong quá khứ, mà vì những gì đang đến ở hiện tại. Nhờ lòng biết ơn lòng vị tha của Chúa, người ta có thể quên bẵng đi những bệnh tật trước kia.
Viên pháp quan tiến đến. Trong góc phòng mà họ lẩn trốn, nhận thức về nghĩa vụ chợt đến với người mẹ, và bà thốt lên lời cảnh báo khủng khiếp”.
“Không sạch, không sạch!”
Người mẹ đã phải đau đớn thế nào khi buộc phải nói như vậy? Dù niềm vui được tự do có ích kỉ đến thế nào thì nó cũng không khiến bà trở nên mù quáng trước những hậu quả nó gây ra. Họ không bao giờ lấy lại được cuộc sống hạnh phúc xưa kia nữa. Dù có tìm đến nơi mà trước đây bà từng gọi là nhà, bà cũng chỉ có thể đứng ở cổng mà kêu, “Không sạch, không sạch!” Bà phải tiếp tục sống với niềm khao khát tình yêu trong lồng ngực mà thậm chí giờ đây còn dữ dội hơn khi nó không thể được đáp lại nữa. Người con trai mà bà luôn luôn nghĩ tới, con người với tương lai xán lạn vốn là nguồn vui thuần khiết nhất của người mẹ, khi gặp lại bà cũng sẽ buộc phải đứng cách xa. Nếu anh đưa bàn tay cho bà và gọi, “Mẹ ơi, mẹ ơi,” thì vì tình yêu dành cho anh, bà buộc phải trả lời, “Không sạch, không sạch!” Và còn cả người con thứ hai của bà khi ấy để che cơ thể của mình đang phải kéo những lọn tóc dài rối bù, trắng như cước. Ôi! Cô gái ấy sẽ phải sống nốt phần đời còn lại của mình trong cô độc. Thế nhưng, người đàn bà dũng cảm ấy vẫn chấp nhận tất cả để thốt lên cái câu mà xưa nay vẫn là dấu hiệu khủng khiếp của bệnh hủi, cái câu mà từ giờ sẽ là lời chào đầu tiên của bà dành cho bất kì ai. “Không sạch, không sạch!”
Viên pháp quan rùng mình khi nghe câu đó, nhưng vẫn đứng tại chỗ.
“Hai người là ai?” Ông hỏi.
“Hai người phụ nữ đang chết dần chết mòn vì đói khát.” Người mẹ không nao núng. “Thế nhưng xin ngài đừng đến gần chúng tôi, và cũng đừng chạm vào sàn hay tường nhà. Không sạch, không sạch!”
“Hãy kể lại cho tôi những gì đã xảy ra với bà – tên của bà, bà bị nhốt vào đây từ bao giờ, bởi tay ai, vì tội trạng gì.”
“Ở Jerusalem từng có một nhà quý tộc là Ben-Hur vốn là người bạn của những người La Mã hào phóng, và ông thậm chí còn thân thiết cả với Caesar. Tôi chính là người vợ góa của ông, còn đây là con gái tôi. Làm sao tôi có thể kể cho ngài tại sao chúng tôi bị ném vào đây, khi chính tôi cũng không biết, trừ khi lí do là vì chúng tôi giàu có? Valerius Gratus có thể cho ngài biết kẻ thù của chúng tôi là ai và chúng tôi đã bị cầm tù từ bao giờ. Còn tôi thì không. Hãy nhìn xem chúng tôi đã trở thành như thế nào – ôi hãy nhìn để tỏ lòng thương xót chúng tôi!”
Bầu không khí trong phòng ngột ngạt vì khói của những cây đuốc, thế nhưng viên pháp quan vẫn gọi một người cầm đuốc tới bên cạnh mình, ghi lại tường tận câu trả lời của bà. Những lời nói của bà rất súc tích, chứa đựng trong đó cả quá khứ, lời buộc tội, và lời khẩn cầu. Không một kẻ tầm thường nào có thể nói ra những lời như vậy, khiến ông không thể không tin tưởng và rủ lòng thương.
“Bà sẽ được trả tự do,” ông nói sau khi đóng cuốn sổ lại. “Tôi sẽ cho mang nước và thức ăn tới.”
“Xin hãy mang cả y phục và nước tẩy rửa nữa, hỡi người La Mã hào phóng!”
“Tôi sẽ thực hiện,” ông đáp.
“Chúa thật nhân từ,” người mẹ nói và khóc nấc lên. “Cầu mong phước lành sẽ luôn ở bên ngài!”
“Còn một điều nữa,” ông nói thêm, “tôi không thể gặp lại bà lần nữa. Hãy chuẩn bị để tối nay tôi sẽ cho đưa bà tới cổng pháo đài và trả tự do cho bà. Bà đã biết luật lệ rồi. Tạm biệt.”
Ông ra lệnh cho những người đi cùng, và họ rời khỏi phòng.
Một lúc sau, vài nô lệ bước vào phòng giam mang theo một bình nước lớn, một bồn rửa và vài tấm khăn, một cái khay đựng bánh mỳ và thịt, vài thứ y phục dành cho đàn bà. Họ đặt những thứ đó trong tầm tay của hai người tù rồi chạy đi.
Tới giữa phiên gác thứ nhất, hai người được dẫn ra tới cổng và thả ra phố. Vị pháp quan người La Mã đã rũ bỏ họ như vậy, và trong chính thành phố của tổ tiên mình, họ đã lại được tự do.
Họ nhìn lên những vì sao lấp lánh như từ ngàn xưa vẫn vậy và tự hỏi,
“Giờ thì sao? Ta đi về đâu đây?”