← Quay lại trang sách

QUYỂN VI - Chương 1 Pháo đài Antonia – buồng giam số VI

“Đó có phải người Chết, đang đồng hành cùng một người khác nữa?

Cái Chết là bạn của người phụ nữ kia?

*

Da cô trắng như bị hủi,

Cô sống mà như chết trong ác mộng,

Thứ khiến dòng máu con người đóng băng.”

COLERIDGE.

*

.

CHƯƠNG I:

Pháo đài Antonia – buồng giam số VI

Câu chuyện của chúng ta tiếp diễn ba mươi ngày sau khi Ben-Hur rời Antioch tới chỗ tộc trưởng Ilderim trên sa mạc.

Một thay đổi lớn vừa diễn ra, ít nhất là trong số những chuyện liên quan tới người hùng của chúng ta. VALERIUS GRAUS ĐÃ ĐƯỢC THAY THẾ BẰNG PONTIUS PILATE!

Cũng cần phải nói rằng sự thay thế này đã khiến Simonides mất đúng năm talent tiền La Mã đút lót cho Sejanus – người khi ấy đang ở đỉnh cao quyền lực là sủng thần của Hoàng đế – với mục đích để giữ bí mật cho Ben-Hur khi anh tìm gia đình mình ở Jerusalem. Vị thương gia trung thành đã sử dụng số tiền thắng cược của Drusus và đồng bọn vào mục đích thiêng liêng như vậy. Bọn La Mã sau khi đã trả tiền thua cược ngay lập tức trở thành kẻ thù của Messala, kẻ mà ở Rome người ta đồn đại rằng vẫn đang thoái thác nhất định không thanh toán khoản bị thua.

Chỉ trong một thời gian ngắn, những người Do Thái đã hiểu rằng người cai trị mới không đem lại điều gì tốt đẹp.

Binh đoàn được cử đến thay thế cho lực lượng ở pháo đài Antonia tiến vào thành phố ban đêm; sáng hôm sau cảnh tượng đầu tiên mà mọi người nhìn thấy là những bức tường của pháo đài cũ được trang trí bằng các phù hiệu của quân đội, nhưng không may hình của Hoàng đế lại được bày lẫn lộn với những con đại bàng và quả địa cầu. Một đoàn người đông đảo giận dữ đi tới Caesarea nơi Pilate đang ở để yêu cầu lão dỡ bỏ những hình ảnh đó. Suốt năm ngày đêm họ chầu chực ở cổng dinh thự, để rồi cuối cùng lão ta giao hẹn sẽ gặp mặt họ trong đấu trường. Khi tất cả đã tụ họp ở đó, lão ra lệnh cho quân lính bao vây; và thay vì chống cự, những người này chấp nhận hi sinh mạng sống, để rồi cuối cùng lại chiến thắng. Pilate phải cho thu hồi hết các phù hiệu về Caesarea, nơi Gratus đã sáng suốt cất đi hết những thứ đó trong suốt mười một năm cầm quyền.

Ngay cả những kẻ xấu xa nhất đôi khi cũng làm những điều tử tế, và Pilate cũng vậy. Lão ta cho khám xét tất cả các nhà tù ở Judea, thu thập danh sách những người đang bị giam cùng với cáo trạng của họ. Hiển nhiên, động cơ chính của lão cũng là điều rất phổ biến với những quan chức vừa mới được bổ nhiệm – nỗi sợ hãi trách nhiệm. Tuy thế, dân chúng thì tin rằng những việc làm này là có ý tốt, khen ngợi lão, và trong một khoảng thời gian tỏ ra ngoan ngoãn. Quả thực, người ta đã phát hiện ra những việc động trời. Hàng trăm người được thả vì không hề có cáo trạng; nhiều người khác dù đã bị coi là chết từ lâu nhưng hóa ra vẫn còn sống; thế nhưng khó tin hơn, có cả những phòng giam mà người dân không biết nhưng đến bọn quản lý nhà tù cũng đã lãng quên. Chúng ta sẽ được chứng kiến một vụ việc như thế ngay sau đây, và kì lạ thay nó lại diễn ra ở Jerusalem.

Pháo đài Antonia mà chúng ta còn nhớ choán hai phần ba vùng đất thiêng liêng trên núi Moriah vốn là một lâu đài nhỏ do người Macedonia xây nên. Sau này, John Hyrcanus dựng thành một pháo đài lớn để bảo vệ đền thiêng. Khi ấy, người ta coi nó là bất khả xâm phạm, nhưng khi Herod lên ngôi, ông đã cho gia cố các bức tường và mở rộng chúng ra, tạo thành một khối nhà khổng lồ chứa tất cả những gì cần thiết dành cho pháo đài mà ông coi là vĩnh cửu: những văn phòng, trại lính, kho vũ khí, lương thảo, bể chứa nước, và cuối cùng là cả những phòng giam đủ loại. Ông đã cho san bằng những tảng đá, đào móng sâu xuống bên dưới rồi xây dựng chồng lên trên; nối cả khối công trình lớn này với đền thiêng thông qua một hành lang tuyệt đẹp mà từ trên mái của nó người ta có thể nhìn toàn cảnh khuôn viên ngôi đền. Sau này tòa tháp rơi vào tay người La Mã, và họ mau chóng nhận ra những ưu điểm của nó, sử dụng nó vào đủ các mục đích khác nhau. Trong suốt thời kì cai trị của Gratus, đó là một trại lính và cũng là một nhà giam khủng khiếp nằm dưới mặt đất để nhốt những kẻ nổi loạn. Thật là một cảnh tượng kinh khủng khi những binh đoàn ùa ra khỏi cánh cổng của nó để dẹp loạn! Trong khi đó, nơi đây cũng kinh khủng không kém đối với một người Do Thái bị bắt dẫn vào qua cùng cánh cổng đó!

.

Sau khi đã tìm hiểu những điều trên, hãy cùng trở lại với câu chuyện.

Lệnh của viên tỉnh trưởng mới yêu cầu thống kê các tù nhân bị giam giữ được chuyển tới pháo đài Antonia, và được thực thi ngay lập tức. Hai ngày đã trôi qua kể từ khi tù nhân xấu số cuối cùng được dẫn lên để thẩm tra. Bản ghi lời khai nằm trên bàn của viên pháp quan, sẵn sàng để được gửi đi; trong năm phút nữa, người đưa thư sẽ lên đường mang nó tới chỗ Pilate khi ấy đang ở trong dinh thự trên núi Zion.

Văn phòng của viên pháp quan rất rộng rãi và mát mẻ, bày đồ đạc theo kiểu cách phù hợp với vị thế của một người quan trọng như vậy. Tới giờ thứ bảy trong ngày hôm đó, viên pháp quan đã tỏ ra mệt mỏi và sốt ruột. Khi báo cáo này được gửi đi, ông sẽ leo lên mái của hành lang để hút thở không khí trong lành và tập thể dục, trong khi lại được tận hưởng cái thú vui nhìn ngắm những người Do Thái trong sân đền thiêng. Đám người dưới quyền ông cũng sốt ruột y như ông vậy.

Trong lúc họ chờ đợi, một người đàn ông xuất hiện ở ngưỡng cửa dẫn đến phòng bên. Anh ta cầm theo một chùm chìa khóa, mỗi chiếc lại nặng như cái búa, và viên pháp quan nhìn ngay thấy anh.

“À, Gesius đấy à! Vào đi,” viên pháp quan nói.

Người mới tới tiến đến chỗ cái bàn mà viên pháp quan đang ngồi ngả mình trên ghế, trong khi tất cả những người khác nhìn anh. Khi nhìn thấy nét mặt nghiêm trọng của anh, ai nấy đều im lặng để nghe xem người ấy muốn nói gì.

“Thưa pháp quan!” Anh nói và cúi mình thật thấp, “Tôi lấy làm sợ hãi phải thông báo tin này cho ngài.”

“Lại một lỗi lầm gì nữa hay sao, Gesius?”

“Nếu tôi có thể tự thuyết phục mình rằng đó là một lầm lẫn thì đã chẳng có gì phải sợ hãi.”

“Vậy thì đó là một tội ác – hay tồi tệ hơn là phạm vào nghĩa vụ. Anh có thể cười nhạo Caesar hoặc báng bổ thần thánh mà vẫn được sống; nhưng nếu phạm tội với biểu tượng đại bàng thì... anh biết rồi đấy, Gesius. Nói tiếp đi!”

“Đã tám năm trôi qua kể từ khi Valerius Gratus chọn tôi làm người gác ngục trong pháo đài này,” người ấy chậm rãi nói. “Tôi còn nhớ buổi sáng đầu tiên bắt đầu đảm nhận công việc. Hôm trước đó đã có một vụ nổi loạn và đánh lộn trên phố. Chúng tôi đã tiêu diệt vô số bọn Do Thái và cũng chịu thiệt hại không ít. Người ta nói rằng chuyện đó là do có kẻ đã ra tay ám hại Gratus. Vị tỉnh trưởng đã bị ngã ngựa vì một viên ngói ném từ trên nóc nhà xuống. Ngài tỉnh trưởng hôm đó ngồi ở đúng chỗ của ngài pháp quan bây giờ, đầu quấn băng kín mít. Ngài ấy lựa chọn tôi, đưa cho tôi những chìa khóa được đánh số tương ứng với số buồng giam. Ngài tỉnh trưởng còn nói chúng giống như phù hiệu chức vụ của tôi vậy, thế nên từ đó chúng trở thành vật bất li thân với tôi. Trên mặt bàn hôm đó có một cuộn giấy. Ngài ấy gọi tôi tới mở cuộn giấy ấy ra và nói: ‘Đây là bản đồ buồng giam.’ Có ba buồng giam cả thảy. ‘Khi nhìn vào bản đồ này,’ ngài ấy nói tiếp, ‘anh có thể thấy cách bài trí tầng trên cùng; phần này vẽ mặt bằng tầng hai; và đây là tầng dưới. Ta rất tin tưởng mới trao cho anh bản đồ này đấy.’ Tôi nhận lấy nó, rồi ngài ấy lại nói, ‘Giờ thì anh đã có chìa khóa và bản đồ, hãy đi ngay để làm quen với toàn bộ khu nhà tù; hãy đi vào thăm từng buồng một, xem xét tình trạng của chúng. Khi cần gì để đảm bảo chắc chắn, hãy cứ ra lệnh cho người ta thực hiện theo ý anh, vì từ giờ anh có quyền cao nhất ở đây, chỉ dưới mình ta mà thôi.’

“Tôi cúi chào và xoay người chuẩn bị đi; nhưng ngài tỉnh trưởng gọi tôi lại. ‘À, ta quên mất,’ ngài nói. ‘Hãy đưa cho ta bản đồ tầng ba.’” Tôi đưa nó ra và ngài ấy trải rộng nó trên bàn. “Đây, Gesius,” ngài tỉnh trưởng nói ‘hãy để ý buồng giam này.’ Ngài Gratus đặt tay lên phòng giam đánh số V. ‘Trong phòng này có ba người đàn ông, toàn là những kẻ vô cùng nguy hiểm mà bằng cách nào đó đã nắm được bí mật quốc gia và giờ sẽ phải trả giá cho sự tò mò của chúng,’ nói tới đây ngài nhìn tôi nghiêm khắc, ‘Sự tò mò ấy trong trường hợp này còn tồi tệ hơn cả những tội ác kinh khủng nhất. Vì thế chúng bị chọc mù mắt và cắt lưỡi, giam trong đó suốt phần đời còn lại. Chúng chỉ được cung cấp đồ ăn thức uống qua một cái lỗ mà anh có thể tìm thấy trên bức tường bên ngoài có cửa trượt. Anh nghe rõ chưa, Gesius?’ Tôi đáp là đã rõ. ‘Được rồi,’ ngài tỉnh trưởng nói. ‘Còn một điều nữa mà anh không được quên, nếu không thì...’ ngài lại nhìn tôi đe dọa ‘Cửa của phòng giam của chúng phòng số V. Chính là cửa này, sẽ không bao giờ được mở ra vì bất kì mục đích gì, nội bất xuất ngoại bất nhập, ngay cả chính anh cũng không được vào.’ ‘Nhưng nếu chúng chết thì sao?’ Tôi hỏi. ‘Nếu chúng chết,’ ngài ấy nói, ‘phòng giam ấy sẽ trở thành nấm mộ của chúng. Chúng bị giam trong đó để chết và để bị lãng quên. Phòng giam đó mang bệnh hủi. Anh hiểu chưa?’ Nói xong ngài ấy cho tôi lui ra.”

.

Gesius ngừng lời, lấy ra từ trong áo cộc ba cuộn giấy đã ngả vàng vì thời gian và do sử dụng nhiều. Lựa một cuộn trong số chúng, anh mở nó ra trên bàn trước mặt viên pháp quan, sau đó nói, “Đây là sơ đồ tầng dưới cùng.”

Tất cả cùng nhìn lên bản đồ.

“Thưa pháp quan, đây chính là bản đồ mà tôi đã nhận được từ tay Gratus. Ngài có thể nhìn thấy phòng giam số V.,” Gesius nói.

“Ta hiểu,” viên pháp quan đáp lại. “Anh kể tiếp đi. Ngài ấy nói rằng phòng giam ấy mang bệnh hủi.”

“Tôi muốn hỏi ngài một việc,” viên quản ngục khiêm tốn nói.

Viên pháp quan chuẩn y.

“Trong hoàn cảnh đó liệu tôi có buộc phải tin rằng bản đồ này là chính xác hay không?”

“Anh nghĩ gì thế?”

“Rằng bản đồ này không đúng.”

Vị pháp quan kinh ngạc ngẩng lên.

“Bản đồ này không đúng,” viên quản ngục nhắc lại. “Nó chỉ vẽ có năm phòng giam ở tầng đó, trong khi thực chất là có sáu.”

“Anh vừa nói là sáu?”

“Tôi sẽ vẽ cho ngài thấy nó nằm ở đâu – hay đúng hơn là vị trí mà tôi phỏng đoán.”

Trên một trang giấy, Gesius vẽ lại sơ đồ mặt bằng tầng dưới và đưa nó cho viên pháp quan.

“Tốt lắm,” viên pháp quan nói sau khi nhìn sơ đồ, tưởng rằng câu chuyện tới đây là kết thúc rồi. “Ta sẽ cho người vẽ lại bản đồ đó, hay đúng hơn ta sẽ cho vẽ một bản đồ mới và trao nó cho anh. Hãy quay lại lấy vào sáng mai nhé.”

Nói xong ông đứng lên.

“Nhưng thưa ngài pháp quan, xin hãy nghe tôi nói hết.”

“Ngày mai đi, Gesius, để mai đi.”

“Điều mà tôi cần nói với ngài quả thực không thể trì hoãn được.”

Viên pháp quan nhượng bộ ngồi xuống.

“Tôi xin nói ngắn gọn,” viên quản ngục nói, “nhưng xin ngài cho phép tôi hỏi thêm một câu nữa thôi. Liệu tôi có nên tin vào những điều Gratus đã nói về các tù nhân trong phòng giam số V.?”

“Có, anh có nghĩa vụ phải tin rằng trong phòng giam đó có ba tù nhân phạm tội thoán nghịch – bị chọc mù mắt và cắt lưỡi.”

“Nhưng điều đó cũng không đúng,” viên quản ngục đáp.

“Không thể nào!” Viên pháp quan thốt lên, tỏ vẻ quan tâm rõ rệt.

“Xin ngài hãy lắng nghe và tự mình phán xét, thưa ngài pháp quan. Theo đúng mệnh lệnh, tôi đã tới thăm hết các phòng giam, bắt đầu từ tầng một và sau đó kết thúc ở những buồng giam dưới lòng đất. Tôi cũng đã không hề mở cửa phòng giam số V.; mặc dù trong suốt tám năm, đồ ăn thức uống dành cho ba người đàn ông vẫn được chuyển vào qua cái lỗ trên tường. Tôi tới trước cánh cửa đó ngày hôm qua và bỗng thấy tò mò muốn được nhìn thấy những tên vô lại đã sống lâu đến khó tin trong đó. Ổ khóa rít không mở được bằng chìa. Chúng tôi giật mạnh một chút, khiến cánh cửa đổ ập xuống vì đã bản lề đã rỉ hết. Bên trong tôi chỉ tìm thấy một lão già mù lòa, không có lưỡi, thân thể trần truồng. Tóc lão ta buông xuống thành những lọn cứng dài quá hông. Lớp da của lão không khác gì cuộn giấy da này vậy. Lão vươn tay ra, các móng tay cong lại và vặn xoán như của loài chim. Tôi hỏi lão các bạn tù của lão đâu. Lão chỉ lắc đầu. Để tìm những tên còn lại, chúng tôi lục soát phòng giam. Sàn nhà khô ráo; những bức tường cũng vậy. Nếu ba tên bị nhốt ở đây và hai tên đã chết, vậy thì ít nhất phải còn lại xương.”

“Vì thế anh mới nghĩ rằng…”

“Thưa pháp quan, tôi nghĩ rằng trong suốt tám năm chỉ có một tù nhân trong phòng đó mà thôi.”

Viên pháp quan nghiêm nghị nhìn viên quản ngục và nói, “Cẩn thận đấy; những lời anh nói không khác nào buộc tội Gratus nói dối.”

Gesius cúi mình và nói, “Có thể ngài ấy đã lầm lẫn.”

“Không, ngài ấy đã đúng,” viên pháp quan vui vẻ nói. “Theo đúng lời anh, ta cho rằng ngài ấy đã đúng. Chẳng phải anh đã nói rằng suốt tám năm đồ ăn thức uống đủ cho ba người được đưa vào buồng giam?”

Những người xung quanh đồng tình với nhận xét sắc sảo của viên pháp quan; nhưng Gesius có vẻ không nao núng chút nào.

“Những gì tôi kể mới chỉ là một nửa câu chuyện, thưa ngài pháp quan. Khi thấu hiểu hết tất cả, hẳn ngài sẽ đồng tình với tôi. Chắc ngài biết tôi đã làm gì với lão già đó: tôi cho lão ta đi tắm, cắt tóc, trao cho quần áo, đưa đến cổng pháo đài và thả cho lão đi. Tôi tưởng mình đã rũ bỏ hẳn lão ta rồi. Thế mà hôm nay lão quay lại và được dẫn tới chỗ tôi. Bằng cử chỉ và những giọt nước mắt, cuối cùng lão ta cũng khiến tôi hiểu được rằng lão muốn trở lại buồng giam – điều mà tôi đã chấp thuận. Khi binh lính dẫn lão đi, lão lại còn quỳ sụp xuống hôn chân tôi, sau đó rên rỉ như van xin tôi đi cùng lão. Thế là tôi đi. Bí ẩn về ba tù nhân trong phòng giam ấy vẫn ám ảnh tôi. Tôi không thể hài lòng khi chuyện ấy vẫn chưa được làm sáng tỏ. Nhưng giờ thì tôi lấy làm sung sướng vì đã chấp thuận khẩn cầu của lão.”

Ai nấy trong phòng im lặng, nín thở chờ đợi.

“Chúng tôi trở lại buồng giam, và lão nhận ra nó ngay. Rồi lão vội vã cầm lấy tay tôi, kéo tôi tới một cái lỗ khác giống hệt như cái lỗ mà bình thường chúng tôi vẫn quen đưa đồ ăn vào cho lão. Mặc dù đủ lớn để nhét cả chiếc mũ trụ qua, không hiểu tại sao hôm trước tôi lại không để ý đến nó. Vẫn cầm lấy tay tôi, lão thò đầu qua cái lỗ và kêu lên một tiếng như của loài vật. Có tiếng người yếu ớt đáp lại. Tôi kinh ngạc, kéo lão ra và gọi, “Này!” Ban đầu không có tiếng trả lời. Tôi gọi lần nữa và nghe được lời đáp, ‘Xin cảm tạ Chúa!’ Đáng kinh ngạc hơn nữa, thưa trưởng quan, giọng nói ấy là của một người phụ nữ. Tôi hỏi, ‘Các ngươi là ai?’ và người ấy đáp lại, ‘Một người phụ nữ của đất Israel bị chôn vùi ở đây cùng con gái. Xin hãy cứu lấy chúng tôi nhanh lên, nếu không chúng tôi chết mất.’ Tôi bảo họ hãy vui lên, và vội vã chạy tới đây hỏi ý kiến ngài.”

Viên pháp quan vội vã đứng dậy.

“Anh đã làm đúng, Gesius,” ông nói, “và giờ thì ta đã hiểu. Tấm bản đồ và câu chuyện về ba người đàn ông trong buồng giam chỉ là dối trá. Valerius Gratus quả là kẻ xấu xa nhất La Mã.”

“Vâng,” viên quản ngục nói. “Tôi đã hỏi lão già và được biết lão vẫn đưa đồ ăn thức uống mình nhận được cho hai người phụ nữ đó.”

“Như vậy là đã rõ,” viên pháp quan nói, và khi nhìn gương mặt của những người xung quanh để rồi chợt nhận ra mình cũng cần có nhân chứng ông nói thêm, “Hãy cùng đi cứu những người đó ra nào.”

Gesius lấy làm hài lòng.

‘Chúng ta sẽ phải đục tường,” anh nói. “Tôi đã tìm thấy nơi từng có cánh cửa, nhưng nó đã được lấp kín bằng đá và vữa.”

Viên pháp quan ở lại để ra lệnh cho một thư ký, “Hãy cho gọi thợ mang dụng cụ tới đây. Nhanh chân lên, và khoan hãy gửi bản báo cáo này đi, vì ta muốn nó phải được sửa lại cho chính xác.”

Tất cả cùng bước ra ngoài.