← Quay lại trang sách

Chương VI Mánh khóe của Pilate – cuộc giao tranh

Buổi sáng đầu tiên của tháng thứ bảy – Tishri trong tiếng Hebrew, tháng Mười theo cách nói thông thường – Ben-Hur tỉnh giấc trên chiếc ghế dài trong quán trọ, cảm thấy chán nản với cả thế giới.

.

Anh đã không hề bỏ phí chút thời gian nào từ khi Malluch tới nơi. Malluch đã bắt đầu tìm kiếm ở pháo đài Antonia một cách liều lĩnh khi hỏi thẳng viên pháp quan. Anh ta đã kể lại cho ông nghe câu chuyện về gia đình nhà Hur cùng các chi tiết liên quan tới tai nạn xảy ra với Gratus, mô tả sao cho người nghe cảm thấy nó hoàn toàn không có động cơ bất lương nào. Malluch còn nói rằng mục tiêu của cuộc tìm kiếm giờ đây là để nếu tìm thấy những thành viên còn sót lại của gia đình xấu số ấy, họ có thể gửi khiếu nại lên Hoàng đế để xin được trả lại tài sản và quyền công dân. Anh khẳng định khiếu nại ấy sẽ khiến người ta buộc phải tiến hành điều tra theo lệnh của triều đình – một việc mà những người thân thuộc với gia đình ấy không có gì phải sợ hãi cả.

Viên pháp quan kể lại cho anh biết mình đã phát hiện ra hai người phụ nữ trong pháo đài như thế nào, đồng thời cho phép anh đọc những ghi chép lời khai của họ, thậm chí còn cho anh sao chép lại tài liệu đó nữa.

Malluch vội vã trở về gặp Ben-Hur.

Không lời nào tả nổi tác động khủng khiếp của câu chuyện ấy lên chàng trai trẻ. Dù anh có khóc hay gào thét cỡ nào thì cũng chẳng thể làm vơi đi nỗi đau; nó quá sâu sắc đến nỗi mọi biểu hiện đều bất lực. Anh ngồi thừ ra một lúc lâu, mặt tái nhợt, tim đập đồn. Thỉnh thoảng, anh lại lẩm bẩm như để nói lên những suy nghĩ đang nhức nhối trong tâm trí,

“Người hủi, người hủi! Mẹ và Tirzah – họ giờ là người hủi! Đã từ bao lâu, bao lâu, lạy Chúa!”

Có những lúc anh bị giằng xé bởi sự phẫn nộ bắt nguồn từ nỗi buồn ghê gớm trong lòng, lúc khác anh lại khao khát sự trả thù mà ta cần phải thừa nhận cũng không kém phần cao quý.

Cuối cùng anh đứng dậy.

“Tôi phải đi tìm họ. Có lẽ lúc này họ đang chết dần chết mòn rồi.”

“Anh sẽ đi tìm ở đâu đây?” Malluch hỏi.

“Chỉ còn một nơi họ có thể đi đến mà thôi.”

Malluch xen vào, và cuối cùng cũng thuyết phục được Ben-Hur giao trọng trách ấy cho mình. Cùng nhau, họ đi tới cổng thành đối diện đồi Quỷ họp vốn từ xa xưa đã là nơi những người hủi cầu xin bố thí. Họ nán lại đó cả ngày, cho tiền bố thí, hỏi han về hai người phụ nữ, treo phần thưởng lớn cho bất kì ai tìm thấy. Họ cứ làm như vậy hết ngày này đến ngày khác trong phần còn lại của tháng thứ năm, và sang cả tháng thứ sáu. Đã có cả những người liều mạng đến tìm kiếm ở cái thành phố dành cho người hủi mà cả xã hội vẫn kinh hãi, vì phần thưởng quá là hấp dẫn và những người kia chỉ được coi là đã chết theo luật pháp mà thôi. Không biết bao nhiêu người đã đi qua cửa hầm mộ toang hoác đó và hỏi những người sống bên trong; nhưng hai mẹ con vẫn giữ kín bí mật của mình. Vì vậy cuộc tìm kiếm đi vào ngõ cụt. Cho tới buổi sáng đầu tiên của tháng thứ bảy, Ben-Hur mới chỉ được biết thêm rằng hai người đàn bà mang bệnh hủi đã bị ném đá xua đuổi ra khỏi cổng Cá. Sau khi hỏi gặng và so sánh ngày tháng, anh lấy làm buồn rầu khi nhận ra rằng đó chính là hai mẹ con nhà Hur, và vì thế những câu hỏi trước kia trở lại đen tối hơn bao giờ hết. Họ đang ở đâu? Số phận họ giờ ra sao?

“Bọn chúng thấy rằng để mẹ và em gái ta mắc bệnh hủi hãy còn chưa đủ,” anh nhắc đi nhắc lại với sự cay đắng mà độc giả hẳn có thể mường tượng ra; “như thế hãy còn chưa đủ. Ồ không! Chúng còn ném đá xua đuổi họ ra khỏi chính thành phố quê hương! Mẹ đã chết rồi! Bà đã phải dãi dầu biết bao nhiêu lâu ở nơi hoang vu vô định! Mẹ đã chết rồi! Tirzah cũng chết rồi! Trên đời chỉ còn lại mình ta mà thôi. Để làm gì? Hỡi đức Chúa của tổ tiên con, thành Rome sẽ còn tồn tại được bao lâu nữa?”

Giận dữ, vô vọng, khao khát trả thù, anh bước vào sân quán trọ và nhận thấy ở đó đông đặc những người vừa mới tới trong đêm. Trong khi ăn sáng, anh lắng nghe bọn họ nói chuyện. Có một nhóm khiến anh đặc biệt chú ý, gồm chủ yếu những thanh niên trẻ, khỏe mạnh, can đảm, phong thái và ngôn ngữ giống như là dân tỉnh. Vẻ ngoài, điệu bộ, mái đầu ngẩng cao và ánh mắt họ đều cho họ khác hẳn với những người thuộc đẳng cấp thấp hèn ở Jerusalem. Ngược lại, người ta thấy ở họ một tinh thần đặc trưng cho lối sống ở vùng núi, là minh chứng của một cuộc sống tự do lành mạnh. Không bao lâu sau anh biết được họ là những người từ Galilee, đến thành phố này vì nhiều mục đích khác nhau nhưng chủ yếu là để dự Tiệc Kèn được tổ chức trong ngày hôm đó. Anh ngay lập tức chú ý đến họ, bởi lẽ đây chính là vùng đất mà anh mong muốn có thể kêu gọi lực lượng phục vụ cho lí tưởng mà mình đang hướng đến.

Trong khi quan sát, tâm trí anh đã mường tượng ra những chiến công mình có thể giành được khi kết hợp một binh đoàn có tinh thần phóng khoáng ấy với kỷ luật thép của quân đội La Mã. Đúng lúc ấy một người đàn ông bước vào trong sân, mặt ửng đỏ, đôi mắt sáng lên vì vui sướng.

“Tại sao các anh lại đến đây?” Anh ta nói với những người Galilee. “Các rabbi và những trưởng lão đang lên đường tới đền thiêng để gặp Pilate. Hãy nhanh chân đến đó cùng với họ nào.”

Những người kia vây quanh anh.

“Đến gặp Pilate! Để làm gì?”

“Người ta vừa mới phát hiện ra một âm mưu gian xảo. Pilate định dùng tiền của đền thiêng để xây dựng đường dẫn nước mới.”

“Gì cơ? Lão ta dám động đến kho báu thiêng liêng sao?”

Họ nhắc đi nhắc lại câu hỏi đó, mắt tóe lửa.

“Đó là Corban – tiền của Chúa. Sao hắn dám động tới dù chỉ một đồng!”

“Đi thôi,” người mới tới nói. “Lúc này đoàn người đã đi qua cầu rồi. Cả thành phố đang đổ tới đó. Họ có thể sẽ cần chúng ta giúp đỡ đấy. Nhanh chân lên nào!”

Cứ như thể ý nghĩ và hành động của họ đã hoàn toàn hợp nhất, mọi người nhanh chóng vứt bỏ những thứ y phục vướng víu không cần thiết, để đầu trần, trên mình bận những chiếc áo ngắn không tay mà họ vẫn thường mặc khi lao động trên cánh đồng hay chèo thuyền trên mặt nước – y phục họ mặc khi leo lên những ngọn đồi theo sau đàn cừu, ngắt những chùm nho chín mà không e sợ cái nắng chói chang. Họ chỉ nán lại vừa đủ lâu để thắt chặt đai lưng và nói, “Chúng tôi đã sẵn sàng.”

Ben-Hur nói với họ.

“Hỡi những chàng trai Galilee,” anh nói, “Tôi là một người con của Judah. Các anh có thể cho tôi theo cùng được không?”

“Có thể sẽ phải đánh nhau đấy,” họ đáp.

“Tôi sẽ không bỏ chạy trước tiên đâu!”

Những người kia tỏ ra vui vẻ khi nghe anh đáp lại như vậy, còn người đưa tin nọ thì nói, “Nhìn anh cũng khỏe mạnh đấy. Đi nào.”

Ben-Hur cởi bỏ bộ y phục bên ngoài.

“Các anh nghĩ rằng sẽ phải đánh nhau?” Anh hỏi nhỏ khi thắt chặt đai lưng.

“Đúng.”

“Với ai?”

“Bọn lính.”

“Lê dương?”

“Bọn La Mã còn tin tưởng ai khác được nữa?”

“Chúng ta sẽ chiến đấu bằng gì?”

Ai nấy im lặng nhìn anh.

“Chà,” anh nói tiếp, “Chúng ta sẽ phải chiến đấu hết sức, nhưng sao không chọn ra một người lãnh đạo nhỉ? Những binh đoàn lê dương luôn có người chỉ huy để có thể hành động sao cho thống nhất.”

Những người Galilee nhìn anh một cách tò mò, cứ như thể đây là lần đầu họ được nghe có người nói như vậy.

“Ít nhất ta hãy thống nhất là sẽ luôn đi cùng với nhau,” anh nói. “Tôi sẵn sàng rồi, chỉ còn chờ các anh thôi.”

“Được, đi nào.”

Đừng quên rằng quán trọ ấy nằm ở thị trấn mới Bezetha, và để đến được cung điện của Herod trên núi Zion mà người La Mã gọi là Praetorium, cả đoàn phải vượt qua vùng đất trũng ở phía Bắc và phía Tây của đền thiêng. Qua những con phố – nếu người ta có thể gọi chúng bằng cái tên đó – chạy dọc theo hướng Bắc Nam, với những đoạn giao cắt không xứng với những thung lũng này, họ nhanh chóng đi qua quận Akra để tới tháp Mariamne, và từ đó tới cổng lớn của bức tường thành bao quanh ngọn núi chỉ còn một quãng ngắn. Trên đường họ bắt gặp nhiều người cũng đang có cùng đích đến với mình do lòng phẫn nộ đối với sự mạo phạm của Pilate. Khi cuối cùng họ cũng đến cổng lớn, những trưởng lão và rabbi đã đi qua từ trước cùng một đoàn người đông đảo phía sau, và bên ngoài người ta tụ tập còn đông hơn nữa.

Một bách binh trưởng giữ cổng vào cùng một đội lính đầy đủ giáp trụ dưới vòm cổng bằng đá cẩm thạch. Ánh mặt trời chiếu lên những mũ và khiên của đám lính; nhưng họ vẫn đứng đó im lìm đối mặt với đám đông ồn ào. Qua cánh cổng bằng đồng mở rộng, một dòng thác người đi vào bên trong, còn đi theo hướng ngược lại thì ít hơn nhiều.

“Có chuyện gì thế?” Một người Galilee hỏi một người đang đi ra ngoài.

“Không có gì cả,” người kia đáp lại. “Các rabbi đang đứng trước cửa cung điện yêu cầu được gặp Pilate. Lão ấy không chịu ra. Người ta phải cử một người vào bảo với lão rằng họ sẽ không rời đi cho tới khi lão chịu nghe đề xuất của họ. Giờ tất cả đều đang chờ đợi.”

“Đi vào bên trong thôi,” Ben-Hur nói bằng phong thái điềm tĩnh đặc biệt của anh, nhìn ra điều cốt lõi mà những người đi cùng anh không hề nhận ra là đây không đơn giản là một bất đồng giữa người dân và viên tỉnh trưởng, mà giống như một cuộc nổi dậy, không ai chịu nhượng bộ bên nào.

Đi qua cánh cổng là một hàng cây với những ghế ngồi đặt bên dưới. Những người đến và đi đều cẩn thận tránh bóng râm tỏa xuống nhẹ nhàng trên nền đường trắng sạch bong; vì dù nghe có vẻ lạ lùng nhưng theo chỉ thị của các rabbi – vốn được cho là rút ra từ giới luật thiêng liêng – không một loại cây xanh nào được phép trồng trong phạm vi bên trong tường thành Jerusalem. Thậm chí ngay cả vị vua thông thái khi muốn xây dựng một khu vườn dành cho cô dâu người Ai Cập của mình cũng bị buộc phải đặt tại nơi các thung lũng giao nhau ở En-rogel.

Mặt tiền của cung điện hiện ra qua những ngọn cây. Rẽ về phía phải, đoàn người đi tiếp một quãng ngắn tới một quảng trường rộng, về phía Tây của nó là nơi ở của viên tỉnh trưởng. Trên quảng trường là một nhóm người đông đảo và kích động. Mọi gương mặt đều nhìn về phía cái cổng vòm xây trên một lối đi rộng đóng kín. Dưới cổng vòm là một toán lính lê dương nữa.

Đoàn người dày đặc đến nỗi những người Galilee không thể tiến lên được nữa; vì thế họ buộc phải đứng ở phía sau mà quan sát những gì đang diễn ra. Gần cổng vòm, họ có thể thấy những chiếc mũ cao của các rabbi – sự sốt ruột của các rabbi cũng lan ra tới đám đông phía sau. Người ta có thể nghe thấy những tiếng hò hét, “Pilate, nếu ông coi mình đáng mặt làm tỉnh trưởng thì ra đây đi!”

Một người rẽ đám đông bước ra, mặt đỏ bừng giận dữ.

“Israel chẳng là cái thá gì ở đây,” anh ta nói lớn. “Trên mảnh đất thiêng liêng này chúng ta chẳng hơn gì lũ chó của Rome.”

“Anh cho rằng lão ta sẽ nhất quyết không ra à?”

“Ra à? Lão đã từ chối ba lần mà các vị thấy vẫn chưa đủ sao?”

“Các rabbi sẽ làm gì đây?”

“Giống như ở Caesarea thôi – tức là đóng trại ở đây cho tới khi lão chịu nghe lời chúng ta.”

“Lão sẽ không dám động đến kho báu chứ?” Một người Galilee hỏi.

“Ai mà biết được? Chẳng phải một tên La Mã đã sỉ nhục cả nơi thiêng liêng nhất hay sao? Đối với bọn La Mã thì có gì là bất khả xâm phạm đâu?”

Một giờ trôi qua, và mặc dù Pilate không đáp lại, những rabbi và đám đông vẫn nán lại ở đó. Buổi sáng chuyển sang trưa, đem tới một trận mưa từ phía Tây, nhưng mọi thứ vẫn không hề thay đổi ngoại trừ việc đám người tụ tập càng đông hơn và ồn ào hơn. Ai nấy rõ ràng đều đang vô cùng giận dữ. Những tiếng hò hét hòa vào nhau tưởng như không dứt, “Ra đi, ra đi!” Những tiếng kêu gọi đôi khi còn đi kèm với chửi bới nữa. Trong khi đó Ben-Hur vẫn tập trung những người Galilee lại một chỗ. Anh đoán rằng sự kiêu ngạo của lão tỉnh trưởng La Mã rồi sẽ vượt qua sự thận trọng của lão, và mọi chuyện sắp kết thúc. Pilate chỉ đang chờ đợi đám đông cho lão cái cớ để dùng đến vũ lực.

Cuối cùng điều gì phải đến cũng đến. Giữa đám đông phát ra những tiếng gậy vun vút, sau đó là những tiếng kêu đau đớn giận dữ, trong khi đoàn người trở nên hỗn loạn. Những con người đáng kính đứng ngay trước cổng vòm giờ ngoảnh mặt ra ngoài hoảng hốt. Những người ở phía sau thoạt đầu cố xô đẩy về phía trước, trong khi những người ở giữa thì cố thoát ra, vì thế trong một chốc áp lực từ hai hướng ngược nhau thật là khủng khiếp. Hàng nghìn giọng nói vang lên, không ai có thời gian đáp lại, sự kinh ngạc đã biến thành hoảng loạn.

Ben-Hur vẫn bình tĩnh.

“Anh không thấy gì sao?” Anh nói với một người Galilee.

“Không.”

“Tôi sẽ nâng anh lên mà nhìn.”

Anh ôm lấy hông người ấy và nâng bổng lên.

“Có chuyện gì thế?”

“Giờ thì tôi thấy rồi,” người kia đáp. “Một nhóm người dùng dùi cui vụt những người khác. Chúng ăn mặc giống hệt như người Do Thái.”

“Chúng là ai?”

“Bọn La Mã, cũng rõ ràng như Chúa đang tồn tại vậy! Đó là bọn La Mã cải trang. Chúng vung dùi cui bất kể là với ai! Kìa, tôi thấy một rabbi bị đánh ngã – một ông già! Chúng không tha cho ai cả!”

Ben-Hur đặt người đó xuống.

“Hỡi những thanh niên Galilee,” anh nói, “đây chỉ là một trò lừa bịp của Pilate mà thôi. Giờ thì nếu các anh làm theo lệnh tôi, chúng ta sẽ đánh bại đám người mang dùi cui đó.”

Những người Galilee nhao nhao hưởng ứng.

“Vâng, vâng!” Họ đáp lại.

“Hãy cùng trở lại rặng cây bên cổng, và dù chúng ta có cảm thấy hàng cây ấy thật là trái lẽ đi nữa, hãy tận dụng nó cho mục đích của mình. Đi thôi!”

Tất cả cùng chạy ngược trở lại nhanh hết mức có thể, và bằng cách dồn tất cả trọng lượng vào những cành cây, cuối cùng họ cũng bẻ gãy được chúng. Như vậy là chỉ trong chốc lát, họ đã được vũ trang đầy đủ. Trở lại góc quảng trường, họ bắt gặp đám đông cuồng loạn chạy ùa về phía cổng. Phía sau họ những tiếng ồn ào vẫn tiếp diễn – những tiếng thét, tiếng rên, và chửi rủa.

“Bám vào tường!” Ben-Hur nói lớn. “Bám vào tường – để đám đông đi qua đã!”

Nhờ nhảy lên bám vào bờ tường bên phải, họ kịp tránh khỏi bị đám đông giẫm đạp, và từ từ tiến lên cho tới khi cuối cùng cũng đến được quảng trường.

“Tập hợp lại và đi theo tôi!”

Tới lúc này, tất cả đã hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Ben-Hur; và trong khi anh cố đi ngược lại với đoàn người, cả nhóm theo sát ngay phía sau anh. Khi bọn La Mã cuối cùng cũng đối mặt với những người Galilee cường tráng đang bừng bừng lửa giận và được vũ trang tốt, chúng hoàn toàn bị bất ngờ. Sau đó là những tiếng hò hét vang lên thật gần và dữ dội; những cây gậy vun vút giáng xuống; những bước chân phẫn nộ tiến lên. Không ai chiến đấu mạnh mẽ như Ben-Hur – những gì anh đã tập luyện giờ trở nên rất hữu ích; bởi lẽ anh không chỉ biết cách ra đòn và đỡ đòn, mà đôi cánh tay dài với sức mạnh vô song còn giúp anh đánh bại mọi đối thủ. Cùng một lúc, anh vừa là chiến binh vừa là người lãnh đạo. Cây gậy anh cầm vừa dài vừa nặng, vì thế với mỗi đối thủ anh chỉ cần giáng một đòn là đủ. Dường như anh để tâm tới những người bạn đồng hành với mình nhiều hơn, và vì thế luôn luôn xuất hiện đúng lúc ở nơi họ cần anh nhất. Tiếng thét xung trận của anh tiếp thêm dũng khí cho đồng đội và khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. Vừa bị bất ngờ, vừa gặp phải đối thủ cứng cựa, bọn La Mã ban đầu chỉ rút lui cầm chừng, nhưng cuối cùng đã phải quay lưng bỏ chạy về phía cổng vòm. Những người Galilee hẳn đã truy sát chúng đến tận cùng nếu Ben-Hur không sáng suốt ngăn lại.

“Dừng lại đã, các bạn! Anh nói. “Viên bách binh trưởng đằng kia đang dẫn lính tới đây. Chúng mang gươm và khiên; thế nên ta không thể đánh lại chúng được. Các bạn đã chiến đấu rất dũng cảm; hãy cùng rút lui ra phía cổng khi vẫn còn có thể.”

Tất cả làm theo lời anh, mặc dù không thể đi nhanh vì họ thường phải tránh những đồng bào của mình đang nằm trên mặt đất – người thì lăn lộn rên rỉ, người cầu xin cứu giúp, những người khác thì im lìm như chết rồi. Nhưng không phải tất cả những người đang nằm trên mặt đất đều là dân Do Thái. Ít ra họ có thể lấy làm an ủi vì điều đó.

Viên bách binh trưởng thét lên khi họ rút lui; Ben-Hur cười nhạo hắn, đáp lại bằng tiếng La Mã, “Nếu chúng ta là lũ chó của đất Israel thì các ngươi chỉ là đàn sói của Rome mà thôi. Nếu các ngươi vẫn đóng lại đây, rồi sẽ có ngày chúng ta gặp lại nhau.”

Những người Galilee reo lên, những tràng cười cứ thế nối tiếp nhau.

Ben-Hur chưa từng thấy đoàn người nào đông đảo đến như thế khi ra đến ngoài cổng, thậm chí còn ghê gớm hơn cả trong đấu trường ở Antioch. Tất cả những mái nhà, những con phố, những sườn đồi đều phủ kín những người đang than khóc và cầu nguyện. Trong không trung vang vọng tiếng khóc và tiếng cầu khẩn.

Đám lính bên ngoài để họ đi ra mà không cản trở. Nhưng họ chỉ vừa mới kịp ra tới ngoài thì viên bách binh trưởng xuất hiện, đứng ở cổng gọi tên Ben-Hur.

“Đồ hỗn xược! Ngươi là người La Mã hay Do Thái?”

Ben-Hur đáp, “Ta sinh ra là một người con của Judah. Ngươi muốn nói gì với ta?”

“Hãy ở lại mà chiến đấu.”

“Tay đôi?”

“Được!”

Ben-Hur bật cười khinh bỉ.

“Một tên La Mã can trường đấy! Thật xứng đáng là con của Jove vô lại của đất La Mã! Ta không có vũ khí.”

“Hãy dùng vũ khí của ta,” viên bách binh trưởng đáp. “Còn ta sẽ mượn của một người lính ở đây.”

Những người xung quanh nghe thấy vậy liền im bặt; chỉ còn những tiếng rì rầm lan ra. Nhưng vừa mới đây thôi Ben-Hur đã đánh bại một người La Mã ngay trước mắt toàn thể Antioch và phương Đông; giờ nếu anh có thể chiến thắng một tên khác ngay trước mắt người dân Jerusalem, vinh quang mà anh giành được hẳn sẽ rất hữu ích để phục vụ cho nhà vua mới. Anh không do dự. Tiến thẳng tới chỗ viên bách binh trưởng, anh nói, “Ta sẵn lòng. Hãy đưa gươm và khiên của ngươi ra đây.”

“Cả mũ trụ và áo giáp chứ?” Người La Mã hỏi.

“Hãy giữ lấy. Chúng không vừa với ta.”

Những món vũ khí được đưa ra một cách sòng phẳng, và một lúc sau viên bách binh trưởng đã sẵn sàng. Trong suốt quãng thời gian đó, những người lính đứng trong hàng ngũ cạnh cổng như không hề cử động; họ chỉ lắng nghe mà thôi. Còn với đám đông, khi hai chiến bính tiến lại gần nhau, ai nấy đều hỏi, “Anh ta là ai?” Không ai có câu trả lời cả.

Sự vượt trội của quân đội La Mã trong chiến trận đến từ ba yếu tố – tính kỉ luật, đội hình chiến đấu, và phương thức chiến đấu rất đặc biệt bằng kiếm ngắn. Khi giáp trận, họ không bao giờ chém mà từ đầu đến cuối lúc nào cũng đâm – họ đâm khi tiến lên, đâm khi lùi lại; gần như lúc nào cũng nhắm vào mặt của địch thủ. Ben-Hur biết rõ tất cả những điều này. Khi hai người sắp sửa lao vào giao chiến, anh nói,

“Ta đã nói với ngươi ra là một người con của Judah; nhưng chưa nói rằng ta cũng từng được huấn luyện như một đấu sĩ. Hãy thủ thế!”

Nói xong Ben-Hur áp lại gần đối thủ. Hai người trừng mắt nhìn nhau qua rìa của chiếc khiên; rồi người La Mã lao về phía trước, giả bộ đâm bên dưới. Chàng trai Do Thái bật cười chế nhạo. Sau đó là một cú đâm thẳng vào mặt. Ben-Hur nhẹ nhàng bước sang trái. Dù cú đâm rất nhanh, bước chân của anh còn nhanh hơn. Anh luồn khiên của mình dưới cánh tay đang nâng lên của đối thủ cho tới khi cả thanh kiếm và bên tay cầm kiếm bị chặn ở mặt trên tấm khiên; thêm một bước nữa tiến lên sang bên trái, và toàn bộ sườn bên phải của đối thủ lộ ra trước lưỡi kiếm của anh. Viên bách binh trưởng ngã sấp xuống, tấm áo giáp loảng xoảng trên mặt đường. Ben-Hur đã giành chiến thắng. Một chân đặt lên lưng đối thủ, anh giơ chiếc khiên lên trời theo tục lệ của các đấu sĩ, chào những người lính bên cổng đang không nén nổi sự kinh ngạc.

Khi mọi người nhận ra chiến thắng của anh, họ như phát cuồng. Từ những ngôi nhà từ xa tận Xystus, lan đi với tốc độ nhanh nhất mà người này có thể nói với người kia, những tấm khăn choàng bay phấp phới cùng những tiếng reo mừng. Và nếu anh chấp thuận thì hẳn những người Galilee đã nhấc bổng Ben-Hur lên vai rồi.

Anh nói với một hạ sĩ quan tiến tới từ phía cổng, “Đồng đội của anh đã hi sinh đúng như một người lính. Tôi sẽ không làm nhục thi hài của anh ta mà chỉ giữ lại thanh kiếm và tấm khiên thôi.”

Nói xong, anh bước đi. Sau đó anh nói với những người Galilee.

“Những người anh em đã chiến đấu vô cùng dũng cảm. Chúng ta hãy chia tay nhau ở đây để tránh bị truy đuổi. Hãy tới gặp tôi tối nay ở quán trọ ở Bethany. Tôi có một việc muốn đề xuất với anh em vì sự tồn vong của Israel.”

“Anh là ai?” Họ hỏi.

“Một người con của Judah,” Anh đáp.

Một nhóm nữa rất mong mỏi được nhìn thấy anh ùa tới bao quanh.

“Các anh sẽ tới Bethany chứ?” anh hỏi.

“Chắc chắn chúng tôi sẽ tới.”

“Vậy thì hãy mang theo thanh kiếm và chiếc khiên này để tôi biết đó chính là các anh.”

Vội vã rẽ đoàn người bước đi, anh vụt biến mất.

Theo lệnh Pilate, những người dân trong thành phố tới mang đi những người chết hay bị thương. Hiển nhiên họ lấy làm đau xót cho những người chết, nhưng điều đó được xoa dịu rất nhiều nhờ chiến công của một người mà họ chưa từng biết tới mà giờ đây ở đâu đâu người ta cũng đang kháo nhau và đổ đi tìm. Ý chí của cả quốc gia vốn đang yếu ớt bỗng dưng trỗi dậy nhờ một hành động dũng cảm duy nhất; đến nỗi khắp các con phố và thậm chí cả ở đền thiêng, giữa sự nghiêm trang của buổi tiệc, người ta lại kể cho nhau nghe những câu chuyện cổ về anh em nhà Maccabee, và hàng nghìn người lắc đầu thì thầm,

“Hãy dằn lòng chờ ít lâu nữa thôi, người anh em ạ và Israel sẽ được giải phóng. Hãy cùng tin tưởng ở Chúa và kiên nhẫn chờ đợi.”

Nhờ vậy Ben-Hur đã tạo dựng được tiếng vang với những người Galilee, nhờ thế tạo điều kiện thuận lợi để tập hợp lực lượng phục vụ cho Nhà Vua sắp xuất hiện.

Chúng ta sẽ được nhìn thấy kết quả của việc ấy ngay sau đây.