← Quay lại trang sách

Chương III Cuộc sống của một linh hồn

Căn lều được dựng lên dưới một tán cây, nơi người ta có thể nghe thấy tiếng róc rách của dòng suối. Bên trên, những chiếc lá to bản im lìm gắn với cành cây; những thân cây sậy mỏng manh vươn thẳng lên trong màn sương mờ; thỉnh thoảng một con ong trở về tổ bay vo ve trong bóng râm, trong khi một con gà rừng ló ra từ đám cây sậy cất tiếng gọi bạn tình rồi chạy vụt đi. Vẻ thanh bình của thung lũng, không khí trong lành, nét đẹp của khu vườn tự nhiên, sự yên tĩnh như trong lễ Sabbath, tất cả dường như tác động mạnh mẽ tới tâm trí của ông già người Ai Cập. Giọng nói, cử chỉ, và tất cả phong thái của ông trở nên nhẹ nhàng khác thường. Đôi mắt ông khi nhìn Ben-Hur trò chuyện với Iras luôn toát ra vẻ thương cảm hiền từ.

.

“Khi chúng tôi bắt gặp anh trên sa mạc, hỡi người con của Hur,” ông nói sau khi họ dùng bữa xong, “có vẻ như anh hướng về Jerusalem. Xin mạn phép được hỏi đó có phải đích đến của anh?”

“Tôi đang trên đường về Thành phố Thiêng liêng.”

“Vì tuổi già buộc tôi phải tìm kiếm con đường nhanh chóng nhất, xin được hỏi liệu còn đường nào ngắn hơn là qua lối Rabbath-Ammon không?”

“Còn một con đường ngắn hơn nhưng hiểm trở hơn đi qua Gerasa và Rabbath-Gilead. Đó là lối mà chính tôi định đi qua.”

“Lúc này tôi không được kiên nhẫn cho lắm,” Balthasar đáp. “Gần đây mỗi khi đặt lưng xuống tôi thường gặp phải những giấc mơ, hay đúng hơn là một giấc mơ cứ lặp đi lặp lại. Một giọng nói – nhưng không thấy ai – đến và nó với tôi rằng, ‘Hãy thức giấc nhanh nào! Người mà con đã chờ đợi bấy lâu đã xuất hiện rồi.’”

“Ý ngài muốn nói đến người sẽ là vua của dân Do Thái?” Ben-Hur hỏi, kinh ngạc nhìn ông già người Ai Cập.

“Có lẽ thế.”

“Vậy nghĩa là chính ngài cũng chưa biết tin tức gì về Người?”

“Không gì cả, ngoại trừ giọng nói mà tôi nghe thấy trong giấc mơ.”

“Vậy thì mong rằng lá thư này cũng sẽ đem lại cho ngài niềm vui giống như nó đã đem tới cho tôi.”

Từ chiếc áo dài, Ben-Hur lấy ra lá thư của Malluch. Bàn tay của ông già Ai Cập đưa ra run run. Ông đọc to lá thư, và trong lúc đọc những cảm xúc của ông trở nên mãnh liệt hơn; những mạch máu mềm oặt trên cổ ông giờ căng ra phập phồng. Khi đọc xong, ông ngước đôi mắt sùng kính để tỏ vẻ biết ơn và cầu nguyện. Ông không hỏi câu nào, nhưng không còn gì phải thắc mắc nữa.

“Chúa quả thực đã rất tốt với con,” ông nói. “Xin hãy cho con được nhìn thấy Đấng Cứu thế một lần nữa để thờ phụng Người, và sau đó kẻ bề tôi của Người có thể ra đi thanh thản.”

Lời nói, phong thái, cốt cách trong lời cầu nguyện giản đơn làm dấy lên trong Ben-Hur những cảm giác mới lạ mà sâu sắc. Chúa dường như chưa bao giờ thật và ở gần họ đến thế; cứ như thể Người đang cúi mình nhìn xuống họ hay ngồi cạnh họ – một người bạn sẵn sàng giúp đáp lại những lời khẩn cầu giản dị nhất – người cha yêu thương mọi đứa con của mình như nhau – người cha của cả người Do Thái và Gentile – người cha của cả thế gian, không cần đến trung gian, các rabbi, thầy tu, hay các học giả phục vụ mình. Ý niệm rằng vị Chúa ấy sẽ trao cho loài người một Đấng Cứu thế thay vì một vị vua đến với Ben-Hur trong một ánh sáng hoàn toàn mới và rực rỡ đến nỗi anh có thể hiểu được cả ý nghĩa của món quà và sự nhất quán của nó với bản chất của Chúa. Anh không thể không hỏi lại.

“Giờ khi Người đã xuất hiện, hỡi Balthasar, hẳn ngài vẫn coi đó là Đấng Cứu thế chứ không phải một vị vua?”

Balthasar nhìn anh bằng ánh mắt vừa trầm ngâm, vừa hiền hậu.

“Tôi nên hiểu câu hỏi của anh như thế nào đây?” ông hỏi lại. “Linh hồn và vì sao dẫn lối cho tôi xưa kia không trở lại lần nào nữa kể từ khi tôi gặp anh trong căn lều của vị tộc trưởng hào phóng; tức là tôi chưa hề nhìn thấy hay nghe về nó mãi cho tới tận bây giờ. Tôi tin rằng giọng nói đã thúc giục tôi trong giấc mơ chính là nó; nhưng ngoài cái đó ra tôi không biết thêm điều gì khác.”

“Tôi sẽ nhắc lại cho ngài nhớ về sự khác biệt quan điểm giữa hai chúng ta,” Ben-Hur khiêm nhường nói. “Ngài cho rằng đó sẽ là một vị vua nhưng không giống như Caesar mà vương quốc của Người sẽ là vương quốc của tâm hồn.”

“Ồ phải,” người Ai Cập trả lời; “và giờ tôi vẫn nghĩ như vậy. Tôi có thể hiểu được sự khác biệt về đức tin giữa hai chúng ta. Anh thì muốn tìm kiếm một vị vua để lãnh đạo con người, con tôi tìm kiếm Đấng Cứu rỗi linh hồn.”

Ông ngừng lại và nhìn anh bằng ánh mắt thường thấy ở những người đang bối rối không biết làm thế nào để diễn tả thành lời một ý nghĩ quá lớn lao, quá tinh tế.

“Tôi sẽ cố gắng giúp anh hiểu rõ đức tin của tôi, hỡi người con của Hur,” ông nói thẳng thắn, “và sau đó khi thấy rằng vương quốc tinh thần mà tôi kì vọng Đấng Cứu thế sẽ tạo nên là vĩ đại hơn rất nhiều so với bất kì thứ gì mà một Caesar có thể gây dựng được, hẳn anh sẽ hiểu rõ hơn lý do tại sao tôi quan tâm đến vậy tới con người bí ẩn mà chúng ta sắp đón mừng.

“Tôi không thể nói cho anh biết ý niệm về linh hồn trong mỗi con người bắt nguồn từ bao giờ. Có lẽ người đàn ông và đàn bà đầu tiên của loài người đã mang nó theo mình khi rời khỏi vườn địa đàng. Tuy thế, tất cả chúng ta đều biết rằng ý niệm ấy chưa bao giờ lụi tàn trong tâm trí con người. Dù bị một số người quên lãng, nó không bao giờ biến mất hẳn; trong một số thời kì ý niệm ấy mờ nhạt đi, có thời điểm người ta nghi ngờ nó; nhưng Chúa vĩ đại luôn trao cho loài người những nhân vật kiệt xuất để nhắc nhở chúng ta tiếp tục duy trì đức tin và hy vọng.

“Tại sao trong mỗi con người phải có một linh hồn? Hãy nghĩ đi, hỡi người con của Hur – trong một khoảnh khắc, hãy suy nghĩ xem nó là cần thiết như thế nào với loài người. Con người chưa bao giờ chấp nhận nằm xuống và chết đi để rơi vào hư không mãi mãi và mỗi người đang sống trong thâm tâm đều tự hứa hẹn với mình rằng cái kết của cuộc đời mình sẽ tốt đẹp hơn thế. Những lăng mộ của các dân tộc đều là minh chứng phản kháng lại sự hư không sau khi chết; các tượng đài và những dòng chữ chạm khắc cũng vậy, đó là điểm chung trong lịch sử loài người. Vị vua Ai Cập vĩ đại nhất trong lịch sử từng cho khắc hình tượng mình lên núi đá. Từ ngày này sang ngày khác, nhà vua đi cùng một đoàn hộ tống trên xe ngựa để theo dõi tiến độ công việc. Cuối cùng, khi công trình được hoàn thành, ai cũng phải thừa nhận trên đời chưa từng có tác phẩm nào đồ sộ, có thể tồn tại mãi mãi với thời gian như vậy: nhìn nó giống hệt nhà vua, thậm chí đến từng nét mặt cũng giống. Trong khoảnh khắc tự hào đó chắc hẳn chẳng ai ngờ nổi nhà vua đã nói, ‘Thần Chết hãy đến đây đi; để ta tiếp tục một kiếp sống khác sau khi chết!’ Ông đã đạt được ước nguyện của mình rồi. Tượng đài đã được hoàn thành.

“Nhưng kiếp sống sau khi chết mà ông có được là gì? Chỉ là những gì mà người khác nhớ về ông mà thôi – một thứ hư vinh mơ hồ giống như ánh trăng chiếu trên vầng trán của bức tượng vĩ đại. Thực chất nó chỉ như một câu chuyện được khắc vào núi đá, không hơn không kém. Trong khi đó thì số phận nhà vua ấy ra sao? Trong lăng mộ hoàng gia có thêm một xác ướp mà xưa kia từng là vị vua đó – một hình tượng không lấy gì làm đẹp đẽ để ngắm nhìn như bức tượng đài ngoài sa mạc. Nhưng hỡi người con của dòng họ Hur, nhà vua ấy giờ ở đâu? Có phải ông ấy đã rơi vào hư không? Hai nghìn năm đã trôi qua kể từ cái ngày mà vị vua ấy sống trên cõi đời giống như anh và tôi đây. Liệu ông ta có tan biến vào hư vô khi trút hơi thở cuối cùng?

“Nếu nói rằng có tức là buộc tội Chúa; thay vào đó, ta hãy cứ áp dụng phương kế của ông để có được kiếp sống sau khi chết – ý tôi nói đến sự sống thực sự – chứ không đơn thuần là tạo nên một công trình ghi dấu đời đời. Cuộc sống ấy vẫn chuyển động, với những cảm giác, tri thức, quyền lực và sự trân trọng; cuộc sống vĩnh hằng dù điều kiện sống có đổi khác.

“Anh hẳn muốn hỏi mục đích của Chúa là gì? Món quà linh hồn cho mỗi chúng ta ngay từ khi mới ra đời, với một giới luật giản đơn duy nhất – con người sẽ không thể bất tử ngoại trừ thông qua linh hồn. Hẳn anh có thể nhìn thấy điều quan trọng mà tôi đã nói tới.

“Thế nhưng hãy tạm thời gạt nó sang một bên. Ý niệm trong mỗi con người đều có một linh hồn mới đẹp đẽ làm sao. Thứ nhất, nó xóa tan sự ghê rợn của cái chết khi biến cái chết trở thành một bước ngoặt để đi tới những điều tốt đẹp hơn, việc chôn cất trở thành giống như gieo xuống một hạt giống mà từ đó sẽ nảy nở mầm sống mới. Thứ hai, hãy nhìn tôi đây – chỉ là một ông già yếu ớt, thân thể nhỏ bé dần, trở nên thô kệch; hãy nhìn vào gương mặt nhăn nheo của tôi và nghĩ đến các giác quan đang mất dần, lắng nghe giọng nói the thé của tôi. Ôi! Tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc như thế nào khi biết rằng khi hầm mộ mở ra – điều có lẽ sẽ xảy đến sớm thôi – để đón nhận thân thể tàn tạ mà tôi vẫn gọi là bản thân mình, những cánh cửa của vũ trụ xưa nay tôi không nhận thấy dẫn tới nơi ngự trị của Chúa sẽ mở toang trước mặt tôi, một linh hồn tự do bất tử!

“Tôi ước gì mình có thể kể cho anh biết những điều sung sướng mà tôi sắp được đón nhận trong cuộc sống đó! Thế nhưng như thế không có nghĩa là tôi không biết gì về nó. Tôi biết rằng nó là đủ với tôi rồi – sự tồn tại của linh hồn cũng cho thấy tính thiêng liêng vượt trội của nó. Trong sự tồn tại ấy không có bất cứ thứ gì bẩn thỉu có thể làm vẩn đục được; nó nhẹ hơn cả không khí, khó đụng chạm hơn cả ánh sáng, tinh khiết hơn cả dầu thơm – đó là cuộc sống thuần túy nhất.

“Giờ thì sao, hỡi người con của dòng họ Hur? Khi đã biết được những điều đó, liệu tôi có còn cần phải tự tranh luận với mình hay với anh về những điều không mấy quan trọng – về dạng thức của linh hồn tôi? Nơi nó sẽ sống? Liệu nó có ăn hay uống? Liệu nó có cánh hay mang y phục gì? Không. Điều quan trọng là niềm tin vào Chúa. Tất cả những gì đẹp đẽ của thế giới này đều khởi nguồn từ bàn tay của Người, thể hiện thị hiếu hoàn hảo; Chúa là người sáng tạo ra tất cả mọi dạng thức; Người trao y phục cho đóa hoa ly, tô màu cho bông hồng, chưng cất những hạt sương, tạo ra âm nhạc cho thiên nhiên. Nói tóm lại, Chúa đã tạo ra cuộc sống này cho chúng ta, đặt ra những quy tắc cho nó; và với tôi chúng là sự đảm bảo chắc chắn đến độ giống như một đứa trẻ ngây thơ, tôi phó mặc cho Chúa định đoạt linh hồn mình cũng như mọi thứ dành cho nó trong cõi sống sau cái chết. Tôi biết rằng Chúa tin yêu mình.”

Ông già thông thái ngừng lời và uống một hớp nước, bàn tay cầm cốc run run. Cả Iras và Ben-Hur đều im lặng chia sẻ những cảm xúc của ông. Với Ben-Hur, một vầng sáng như vừa lóe lên trước mắt anh. Lần đầu anh hiểu được rằng có tồn tại một vương quốc dành cho linh hồn mà với loài người nó còn quan trọng hơn bất kì vương quốc trần thế nào; và cuối cùng Đấng Cứu thế có lẽ quả thực là món quà thiêng liêng hơn rất nhiều so với ngay cả một vị vua vĩ đại nhất.

“Giờ tôi muốn hỏi anh,” Balthasar nói tiếp, “liệu cuộc sống trần tục đầy khổ đau và ngắn ngủi này có quý giá hơn cuộc sống hoàn hảo vĩnh hằng dành cho linh hồn? Hãy lắng nghe câu hỏi đó và tự mình suy nghĩ: Giả sử nếu cùng sung sướng như nhau thì một giờ có đáng quý hơn một năm hay không? Từ đó hãy đi đến câu hỏi cuối cùng, rằng một trăm năm trên cõi trần có là gì với cuộc sống vĩnh hằng bên Chúa? Khi suy nghĩ như vậy, hỡi người con của Hur, anh sẽ hiểu được ý nghĩa của điều mà tôi sắp nói với anh ngay sau đây, thứ mà với tôi là sự kiện kì diệu nhất mặc dù cũng đáng buồn nhất. Đó là khái niệm cuộc sống gắn liền với linh hồn giờ gần như đã bị cả nhân loại lãng quên. Hẳn là đây đó vẫn có những nhà triết học nói với anh về khái niệm linh hồn, ví von nó với một nguyên lí nào đó; nhưng vì những nhà triết học không coi trọng đức tin, họ không bao giờ dám thừa nhận Linh hồn là một bản ngã, và vì thế họ không thể hiểu mục đích của nó.

“Mọi vật trên đời đều có tinh thần được đong đếm bằng những mong muốn của nó. Không lẽ anh không nhận ra ẩn ý của việc chỉ riêng con người mới có khả năng xét đoán tương lai của mình? Dựa trên những dấu hiệu mà tôi nhìn thấy, Chúa muốn chúng ta hiểu rằng ta được tạo ra cho một kiếp sống khác tốt đẹp hơn, và sự tồn tại ấy thực tế chính là nhu cầu bức thiết nhất của bản chất con người. Thế nhưng hỡi ôi! Các quốc gia trên thế giới đã sa đọa đến thế nào? Người ta chỉ biết sống cho ngày hôm nay, như thể hiện tại là tất cả, và người ta sẵn sàng nói, ‘Sau cái chết không còn gì nữa; hay nếu có đi nữa thì ta cũng chẳng biết gì về nó và vì vậy chẳng cần quan tâm làm gì.’ Thế nên khi cái chết gọi tên họ, họ không thể nhận lấy cuộc sống vinh quang sau khi chết vì bản thân họ không phù hợp với nó. Nói như thế nghĩa là niềm hạnh phúc tối thượng của con người chính là cuộc sống vĩnh hằng bên Chúa. Than ôi, hỡi người con của Hur, tôi buộc phải nói ra điều này, rằng ngay cả con lạc đà đang ngủ đằng kia trong cõi sống đó cũng sẽ trung thành không kém gì ngay cả những vị thầy tu thiêng liêng nhất đang ngày ngày nguyện cầu bên bàn thờ của những đền thờ lừng danh. Con người đã bị gắn chặt với cuộc sống thấp kém trên cõi trần này mất rồi! Họ đã gần như lãng quên kiếp sống sau này của mình!

“Giờ thì tôi mong rằng anh đã hiểu ra chúng ta cần được cứu rỗi như thế nào.

“Về phần tôi, khi hiểu được sự thật thiêng liêng này, tôi sẽ không đánh đổi một giờ cuộc sống của linh hồn lấy một nghìn năm cuộc sống trên trần thế.”

Tới đây ông già Ai Cập dường như đã quên hẳn những người xung quanh mà chỉ nói với bản thân mình mà thôi.

“Cuộc sống hiện tại của chúng ta có những vấn đề của riêng nó,” ông nói, “và có những người dành ra biết bao ngày tháng để giải quyết chúng nhưng đó có là gì nếu so với những vấn đề của cuộc sống vĩnh hằng? Có gì sánh nổi với việc thấu hiểu được Chúa? Những điều bí ẩn sẽ không phải những thứ vô hồn trên trang giấy nữa, mà khi ấy tự chúng sẽ hé lộ trước mắt tôi; thậm chí ngay cả thứ ghê gớm và sâu sắc nhất – quyền năng mà giờ chúng ta không dám nghĩ tới – đã tạo thành bờ cát bao quanh nơi vô định và thắp sáng bóng tối, từ hư không sinh ra cả vũ trụ. Tất cả mọi thứ sẽ được hé lộ. Tôi sẽ thu nhận hết những hiểu biết thần thánh đó, nhìn thấy hết mọi vinh quang nếm trải mọi sự sung sướng, để rồi tôi say mê trong sự tồn tại của mình. Và nếu vào thời khắc cuối cùng Chúa muốn nói với tôi rằng, Ta sẽ để con được phụng sự ta mãi mãi, khi ấy mọi giới hạn của ngưỡng vọng sẽ bị vượt qua; và sau đó mọi tham vọng của cuộc sống hay những niềm vui của nó sẽ chỉ giống như tiếng leng keng của những chiếc chuông nhỏ mà thôi.”

Balthasar ngừng lại như để lấy lại bình tĩnh sau cơn xúc động. Ben-Hur tưởng như đang được nghe lời nói từ chính linh hồn.

“Xin thứ lỗi, hỡi người con của Hur,” ông già nói tiếp và cúi mình, nhưng cử chỉ trịnh trọng ấy được xoa dịu phần nào bởi ánh mắt hiền hậu của ông, “Tôi đã định sẽ để cuộc sống của linh hồn, những điều kiện của nó, những điều sung sướng và sự vượt trội của nó cho anh tự mình ngẫm nghĩ mà khám phá ra. Niềm vui từ ý nghĩ ấy đã khiến tôi nói quá nhiều. Tôi chỉ muốn nói, dù có phần mơ hồ, về lí do cho đức tin của tôi. Tôi lấy làm tiếc rằng ngôn từ quả thực là yếu ớt. Nhưng hãy cố gắng nhìn ra sự thật. Trước tiên hãy nghĩ đến sự kì diệu của cuộc sống dành cho chúng ta sau khi chết, sau đó lắng nghe những cảm xúc và phản xạ tự nhiên mà ý nghĩ ấy khơi dậy trong anh – hãy lắng nghe chúng, vì chúng bắt nguồn từ chính linh hồn anh, làm mọi điều có thể để đưa anh vào con đường đúng đắn. Tiếp theo, hãy nghĩ đến việc cuộc sống sau cái chết giờ gần đã hoàn toàn bị người đời quên lãng. Nếu anh tìm được nó, hãy vui mừng, hỡi người con của Hur – hãy vui mừng giống như tôi, dù không thể mô tả nó thành lời. Đó là vì bên cạnh món quà kì diệu dành cho chúng ta, anh sẽ nhận thấy loài người cần một Đấng Cứu thế hơn là một vị vua; và trong tâm trí anh, người mà chúng ta sắp được gặp sẽ không còn là một chiến binh mang vũ khí hay một Hoàng đế đội vương miện.

“Một câu hỏi nữa nảy sinh – Làm sao chúng ta có thể nhận ra Người? Nếu đi theo niềm tin của anh về người ấy – rằng đó sẽ là một vị vua giống như Herod trước kia – chắc chắn anh sẽ tìm mãi cho tới khi gặp được một người mặc y phục tím mang theo cây quyền trượng. Ngược lại, người mà tôi tìm kiếm sẽ là một người nghèo khó, khiêm tốn, không có gì nổi bật – một người có vẻ bề ngoài giống như bao người khác; và những dấu hiệu giúp tôi nhận ra Người sẽ không thể đơn giản hơn. Người sẽ chỉ đường cho tôi và cả loài người tìm đến cuộc sống vĩnh hằng; cuộc sống kì diệu thanh khiết của linh hồn.”

Cả ba người trong căn lều im lặng, cho tới khi cuối cùng Balthasar nói.

“Hãy cùng đứng lên nào,” ông nói, “hãy cùng đứng lên và tiếp tục cuộc hành trình. Những gì tôi vừa nói đã khiến tôi càng sốt ruột muốn được gặp người luôn luôn đau đáu trong từng ý nghĩ của tôi; và nếu có vẻ như tôi đang vội vã quá thì xin thứ lỗi, hỡi người con của Hur và cả con gái của cha.”

Theo hiệu lệnh của ông, người nô lệ mang tới một bao da đựng rượu vang. Họ rót ra uống cùng nhau, sau đó giữ tấm khăn phủ trên đùi và đứng dậy.

Trong khi người nô lệ gấp căn lều và cất những món đồ vào chiếc hộp dưới chỗ ngồi trên lưng con lạc đà, còn người Arab dẫn những con ngựa tới, ba còn lại rửa mặt bên hồ.

Một lúc sau họ đi ngược trở lại con đường mà mình đã dùng để tiến vào thung lũng này, định bụng sẽ lại cố gắng bắt kịp đoàn xe nếu nó đã đi ngang qua từ trước.