← Quay lại trang sách

Chương VI Con rắn sông Nile

Ben-Hur xuống ngựa trước cửa quán trọ mà ba nhà thông thái cách đây hơn ba mươi năm đã rời đi để tới Bethlehem. Anh để lại ngựa của mình ở đó cho những người Arab trông coi, để rồi không lâu sau đó đã về tới nhà của cha mình, đứng trong phòng khách lớn. Trước tiên anh gọi Malluch, nhưng không thấy ai đáp lại. Anh định gửi lời chào thương gia và ông già người Ai Cập, nhưng cả họ cũng đã được đưa ra ngoài để dự lễ hội. Qua một gia nhân, anh được biết rằng ông già Ai Cập giờ đã rất yếu và đang trong tâm trạng cực kì buồn bã.

.

Những người trẻ tuổi thời đó khi chưa hiểu rõ mình muốn gì cũng thường ngượng ngập lẩn tránh không dám hỏi thẳng trực tiếp, hệt như người trẻ thời nay vậy; thế nên khi Ben-Hur đầy lịch thiệp hỏi xem Balthasar liệu có sẵn lòng gặp anh không, thực tế anh đang báo cho Iras biết rằng mình đã đến. Khi người gia nhân đang trả lời câu hỏi của anh về người cha rèm cửa bỗng mở ra, và cô gái người Ai Cập bước vào – hay đúng hơn là lướt đi giữa một làn mây trắng những lớp vải trong suốt mà cô vốn ưa thích – tới tận giữa căn phòng nơi ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn chùm bảy nhánh là rực rỡ nhất. Cô chưa bao giờ là người sợ ánh sáng cả.

Người gia nhân lui ra ngoài.

Trong cảm giác phấn khích bởi những sự kiện diễn ra mấy ngày gần đây, Ben-Hur gần như đã quên bằng cô gái Ai cập xinh đẹp. Nếu hình ảnh cô có hiện ra trong tâm trí anh đi nữa, nó chỉ đem lại một cảm giác sung sướng cực kì ngắn ngủi, giống như một thú vui mà anh có thể trì hoãn.

Nhưng ngay khi vừa nhìn thấy cô, Ben-Hur đã lại bị cô gái xinh đẹp làm cho mê mẩn. Anh mừng rỡ tiến lại với cô, nhưng bỗng đứng khựng lại. Ở cô có nét gì thay đổi mà anh không thể ngờ tới!

Từ trước tới giờ, anh luôn coi cô như một người tình nồng nhiệt, cố gắng chinh phục anh bằng mọi cách – bằng những cử chỉ trìu mến, những ánh nhìn yêu thương, và mỗi hành động đều như một lời thề chung thủy. Cô luôn trao cho anh những lời khen ngợi ngọt ngào. Mỗi khi anh có mặt, cô luôn khiến anh phải cảm động vì lòng tận tụy mà cô dành cho anh, để rồi khi ra đi, cảm giác ấy vẫn vương vấn trong lòng anh, khiến anh luôn mong ngóng ngày trở về. Đôi mắt được trang điểm tuyệt mỹ với hàng mi cụp xuống dịu dàng kia là dành cho anh; những câu chuyện tình vẫn được các nghệ sĩ ở Alexandria truyền miệng được cô kể lại vô cùng thi vị là để dành cho anh; những lời âu yếm, những nụ cười, những nét đẹp tinh tế của bàn tay, mái tóc, gò má và đôi môi, cùng với những bài ca sông Nile, những trang sức, những tấm voan, khăn choàng và vô số những thứ y phục điệu đà bằng thứ lụa quý từ Ấn Độ cũng là để dành cả cho anh. Ý niệm có từ thời hồng hoang của loài người rằng một người con gái đẹp là phần thưởng xứng đáng cho người anh hùng chưa bao giờ lại hiện hữu rõ ràng như những gì cô dành cho anh; đến nỗi anh không hề mảy may nghi ngờ việc mình chính là người hùng của cô, và cô cũng nhắc nhở anh về điều đó bằng hàng ngàn phương cách khéo léo mà tự nhiên như chính vẻ đẹp của cô – những phương cách khiến người ta không thể cưỡng lại mà dường như trí tuệ thiên tài của đất Ai Cập đã dành riêng cho người con gái này.

Cô gái Ai Cập đã đối xử với Ben-Hur như vậy kể từ cái đêm hai người du ngoạn trên mặt hồ ở vườn Cọ. Nhưng giờ thì sao?

Trong cuốn sách này có lúc độc giả đã đọc thấy một cụm từ có nghĩa rất rộng và được sử dụng để mô tả những mối kết giao thần thánh; nhưng giờ chúng tôi xin được nhắc lại nó với tầng nghĩa khái quát hơn. Trên thế gian có những người mang hai bản ngã: bản chất bẩm sinh và bản ngã họ tìm đến sau này. Dạng bản ngã thứ hai là kết quả của sự giáo dục, và dần dần nó thường gắn liền với con người đó một cách bền chặt không kém gì bản ngã thứ nhất. Trong khi bạn đọc có thể thỏa sức suy nghĩ về điều này, chúng tôi chỉ muốn nói thêm rằng bản ngã thật của cô gái người Ai Cập bây giờ mới phát lộ.

Nếu trước mặt cô có là một người không quen biết đi nữa thì cô cũng khó mà đón tiếp người ấy một cách lạnh lùng hơn. Lúc này, cô đứng đó như một pho tượng, chỉ có cái đầu nhỏ hơi nghiêng, lỗ mũi hơi phập phồng, đôi môi xinh đẹp hơi cong lên so với đường nét tự nhiên của nó.

Cô là người đầu tiên lên tiếng.

“Anh đến đúng lúc lắm, hỡi người con của Hur,” cô nói với giọng lạnh lùng. “Tôi muốn cảm ơn lòng hiếu khách của anh; vì sau ngày mai có lẽ tôi sẽ không còn cơ hội để làm vậy nữa.”

Ben-Hur hơi cúi mình mà không rời mắt khỏi cô.

“Tôi từng được biết có một thông lệ mà những người đánh bạc thường tuân thủ rất nghiêm ngặt,” cô nói tiếp. “Khi cuộc chơi kết thúc, họ giở những tấm bảng để tính toán tiền thắng thua; sau đó họ ngợi ca những vị thần và trao vương miện cho người chiến thắng. Chúng ta đã cùng chơi với nhau một canh bạc – nó đã kéo dài biết bao ngày tháng. Vậy thì giờ khi nó kết thúc, tại sao chúng ta không xem vòng nguyệt quế thuộc về ai?”

Ben-Hur vui vẻ trả lời, dù trong lòng vô cùng cẩn trọng, “Một người đàn ông không bao giờ có thể ngăn cản một người phụ nữ đã quyết tâm làm điều gì cho bằng được.”

“Vậy thì hãy nói cho tôi biết,” Cô nói tiếp, hơi nghiêng đầu, rõ ràng là tỏ ý khinh bỉ, “hãy nói cho tôi biết, hỡi ông hoàng Jerusalem, người con của người thợ mộc đất Nazareth, và cũng là người con của Chúa mà người ta kì vọng sẽ đem lại những điều kì diệu giờ đang ở đâu?”

Anh sốt ruột xua tay và trả lời, “Tôi không phải kẻ hầu người hạ của người ấy.”

Cái đầu xinh đẹp càng cúi sâu hơn về phía trước.

“Người ấy đã hủy diệt thành Rome chưa?”

Một lần nữa, nhưng với vẻ giận dữ, Ben-Hur xua tay.

“Người ấy sẽ đóng đô ở đâu?” Cô hỏi tiếp. “Tôi không thể tới nhìn ngai vàng và những con sư tử bằng đồng của nhà vua ấy hay sao? Và cả cung điện của nhà vua – người ấy đã dựng cả người chết sống lại, thế thì có lẽ nào lại không thể dựng nên một cung điện bằng vàng? Người ấy chỉ cần giậm chân và đọc câu thần chú, và thế là một cung điện với những hàng cột tráng lệ như Karnak sẽ hiện ra, vậy mà vẫn tỏ ra không hề đoái hoài?”

.

Tới lúc này thì không còn nghi ngờ gì về thái độ thực sự của cô nữa, những câu hỏi được đặt ra một cách thù địch, và dáng điệu của cô cũng rất lạnh lùng. Tất cả khiến anh càng cẩn trọng hơn, thế nhưng anh vẫn cố ra vẻ hồ hởi đáp lại, “Ôi Ai Cập, hãy cứ chờ đợi thêm một ngày nữa, hoặc có lẽ là một tuần nữa, và Người sẽ dựng nên những con sư tử và cả cung điện cho mà xem.”

Cô nói tiếp mà không để tâm tới hàm ý của anh.

“Và tại sao tôi lại thấy anh bước vào đây trong bộ y phục đó? Đó không phải là thứ y phục xứng đáng cho những thống đốc ở Ấn Độ hay những vị tể tướng ở những vương quốc khác. Có một lần tôi từng được nhìn thấy vị tỉnh trưởng Teheran. Ông ấy đội chiếc mũ turban bằng lụa cùng với tấm áo choàng dát vàng, bao đeo gươm và chuôi kiếm khiến tôi phải lóa mắt vì những viên đá quý. Tôi tưởng rằng Osiris đã cho ông mượn vầng hào quang của mặt trời. Tôi e rằng anh vẫn chưa đặt chân tới vương quốc của mình – vương quốc mà tôi muốn chia sẻ cùng anh.”

“Người con gái của vị khách thông thái của tôi còn tốt bụng hơn là chính cô vẫn nghĩ; cô đang dạy cho tôi biết rằng Isis có thể hôn lên trái tim một người nhưng không làm cho nó tốt đẹp hơn.”

Ben-Hur nói với vẻ lịch thiệp lạnh lùng, còn Iras sau khi mân mê chiếc vòng cổ xâu bằng những đồng vàng đáp lại, “Người con của Hur quả là thông minh dù mang gốc gác Do Thái. Tôi đã từng thấy anh mơ tưởng một vị Hoàng đế sẽ tiến vào Jerusalem. Anh đã nói với chúng tôi rằng ngày hôm đó người ấy sẽ tự xưng mình là vua của người Do Thái từ những bậc thang của đền thiêng. Tôi đã nhìn đoàn rước đưa người ấy từ trên núi xuống. Tôi đã nghe tiếng hát của họ. Nhìn họ thật đẹp đẽ với những cành cọ. Tôi đã tìm trong khắp cả đoàn người đó để thấy một bóng người có dáng vẻ vương giả nhất – một kị sĩ mặc y phục tím, một người đi trên xe ngựa với tay xà ích mặc áo giáp đồng, một chiến binh oai vệ sau tấm khiên tròn, thân mình cao lớn không kém gì cây giáo. Tôi đã cố tìm kiếm những binh lính bảo vệ cho nhà vua. Sẽ thật vui biết bao khi nhìn thấy một ông hoàng của đất Jerusalem được một binh đoàn Galilee hộ tống.”

Cô ném cho Ben-Hur cái nhìn khinh bỉ, sau đó cười phá lên cứ như thể hình ảnh vừa hiện ra trong tâm trí cô là ngu xuẩn tới mức không thể bào chữa nổi.

“Thay vì một Sesostris chiến thắng trở về hay một Caesar đội mũ trụ và đeo gươm ha, ha, ha! Tôi lại thấy một gã đàn ông với bộ mặt và mái tóc như đàn bà, cưỡi trên lưng một con lừa, mắt ngấn lệ. Thế mà người ta gọi đó là vị vua! Người con của Chúa! Người cứu rỗi cả thế gian! Ha, ha, ha!”

Dù đã cố gắng bình tĩnh, Ben-Hur cũng phải cau mày.

“Tôi vẫn không rời khỏi vị trí quan sát của mình, ông hoàng Jerusalem ạ,” cô nói trước khi anh lấy lại được bình tĩnh. “Tôi không cười mà tự nhủ, ‘Chờ đã. Có lẽ trong đền thiêng người ấy sẽ cho thấy mình thực sự là một người hùng có thể làm xoay chuyển cả thế giới.’ Tôi đã nhìn thấy người ấy đi vào qua cổng Shushan và sân Nữ giới. Tôi đã thấy người ấy dừng lại đứng trước cổng Tráng lệ. Bên cạnh tôi người ta đứng chật kín cả cổng vòm và các quảng trường, nhiều người khác thì đứng trên những bậc thềm của đền thiêng – tôi nghĩ có đến cả triệu người đang nín thở chờ đợi nghe lời tuyên bố của người ấy. Đến nỗi chúng tôi đứng bất động không khác gì những cây cột vậy. Ha, ha ha! Tôi tưởng rằng mình sắp được nghe tiếng những chiếc trục của cỗ máy La Mã thần thánh sắp vỡ vụn. Ha, ha, ha! Ôi, thề trên linh hồn của Solomon, vị vua của thế gian của anh quấn chiếc áo dài quanh mình và đi bộ ra ngoài theo cánh cổng ở xa nhất, không nói một lời; và cỗ máy La Mã vẫn vận hành trơn tru!”

Ben-Hur cảm thấy hi vọng của mình bỗng tan biến trong chỉ trong một khoảnh khắc, và anh bất giác nhìn xuống như để dõi theo nó.

Trước đây, ngay cả khi Balthasar có đưa ra những lập luận để thuyết phục anh hay khi những phép màu được thực hiện ngay trước mắt anh, sự khiêm nhường của người Nazareth ấy chưa bao giờ được nói ra thẳng thừng đến như vậy. Suy cho cùng, cách tốt nhất để hiểu được Chúa là thông qua thấu hiểu con người. Trong những điều cao quý hơn bản chất con người, chúng ta có thể tìm thấy Chúa. Vậy nên với hình ảnh mà cô gái Ai Cập vừa mô tả lại, khi người Nazareth rời khỏi cổng Tráng lệ, anh cảm thấy đó là một hành động vượt xa khả năng của một người phàm tục. Một hành động ẩn dụ dành cho một dân tộc vốn ưa những câu chuyện ngụ ngôn, nó dạy cho chúng ta hiểu chính cái điều mà Đấng Christ vẫn thường khẳng định – rằng sứ mệnh của Người không liên quan gì tới chính trị. Tất cả những ý nghĩ này nảy ra trong tâm trí Ben-Hur nhanh như một hơi thở, thế nhưng ý niệm này lại chiếm trọn lấy anh, và ngay tức khắc anh nhận thấy khao khát trả thù của mình bỗng biến mất, trong khi người đàn ông với gương mặt và mái tóc như phụ nữ cùng đôi mắt ngấn lệ ấy lại như đang đến thật gần – đủ gần để ban cho anh phần nào linh hồn của Người.

“Hỡi người con gái của Balthasar,” anh kiêu hãnh nói, “nếu đây chính là canh bạc mà cô muốn nói với tôi, xin hãy nhận lấy vòng nguyệt quế – tôi sẵn lòng trao nó cho cô. Nhưng tôi mong rằng chúng ta sẽ kết thúc mọi chuyện ở đây. Tôi biết cô có những tham vọng riêng của mình. Tôi tôn trọng chúng, và sẽ đáp lại cô; và sau đó hai ta hãy đường ai nấy đi mà quên hẳn chúng ta từng gặp mặt. Xin cô hãy nói tiếp, và tôi sẽ lắng nghe, nhưng xin đừng nói thêm về những gì mà cô đã kể cho tôi nghe vừa rồi.”

Cô nhìn anh chăm chú một thoáng như thể để tính toán xem nên làm gì – có lẽ cô đang muốn ướm thử sự kiên quyết trong anh – nhưng rồi cô lạnh lùng nói, “Vậy thì chúng ta hãy chia tay nhau. Anh đi đi.”

“Chúc cô được bình an,” anh đáp và bước đi.

Khi anh chuẩn bị bước ra cửa, cô gọi.

“Tôi còn một lời muốn nói.”

Anh dừng chân, ngoái lại phía sau.

“Hãy nghĩ đến tất cả những điều tôi biết về anh.”

“Ôi, cô gái Ai Cập xinh đẹp,” anh nói và quay trở lại, “cô biết gì về tôi?”

Cô nhìn anh bằng ánh mắt trống rỗng.

“Anh giống một người La Mã hơn là một người Do Thái đấy, hỡi người con của Hur.”

“Tôi khác biệt với những đồng bào của mình đến vậy hay sao?” Anh lạnh lùng hỏi.

“Tất cả những vị bán thần giờ đều là của La Mã,” cô đáp lại.

“Và vì thế cô sẽ nói ra cô còn biết gì nữa về tôi?”

“Tôi nhìn ra ở anh những nét giống với những vị bán thần đó và nó khiến tôi muốn cứu anh.”

“Cứu tôi!”

Những ngón tay hồng của cô cứ mân mê mãi chiếc vòng tuyệt đẹp đeo trên cổ. Giọng cô vang lên thật khẽ; chỉ có tiếng đôi dép lụa gõ trên sàn nhà khiến anh phải cẩn trọng mà thôi.

“Một người Do Thái, kẻ trước kia từng là nô lệ chèo chiến thuyền, đã giết chết một người trong dinh thự Idernee,” cô chậm rãi bắt đầu.

Ben-Hur giật mình.

“Chính người Do Thái đó cũng đã giết một chiến binh La Mã ngay ở khu chợ tại Jerusalem; người ấy đã huấn luyện ba binh đoàn Galilee để bắt viên tỉnh trưởng La Mã tối nay; người ấy đã lập ra những liên minh để chiến đấu chống lại Rome, trong đó có mặt cả tộc trưởng Ilderim.”

Tiến sát lại gần anh, cô gần như chỉ còn thì thầm,

“Anh đã từng sống ở Rome. Hãy thử nghĩ xem nếu còn ai biết được những điều này thì sao? Ồ! Mặt anh biến sắc rồi kìa.”

Anh giật lùi lại với nét mặt của một người tưởng chỉ đang chơi đùa với mèo con bỗng bắt gặp một con hổ. Cô nói tiếp:

“Anh vốn quen biết những người quyền lực nhất của Đế chế La Mã, và hẳn cũng biết đến Sejanus. Giả sử tôi nói lại với ông ta với đầy đủ chứng cứ – hoặc thậm chí không cần chứng cứ – rằng chính người Do Thái đó cũng là người giàu có nhất phương Đông – không, phải nói là giàu có nhất cả Đế chế mới đúng. Những con cá ở sông Tiber sẽ được một bữa chén ra trò làm sao, đúng không? Và khi chúng đang xâu xé – ha! Hỡi người con của Hur! Người ta sẽ được chứng kiến những cảnh tượng ngoạn mục nào ngoài Đấu trường? Mua vui cho người dân La Mã là một môn nghệ thuật tinh tế; kiếm được nguồn tiền để mua vui cho họ là một nghệ thuật còn tinh tế hơn nữa; và trên đời làm gì có nghệ sĩ nào tài ba hơn là Sejanus đây?”

Ben-Hur không lấy làm ngạc nhiên vì sự trâng tráo của cô gái trước mặt anh. Khi mọi giác quan tê dại, những hình ảnh trong trí nhớ của chúng ta thường lại ùa về rõ ràng nhất. Anh chợt nhớ đến những gì diễn ra bên dòng suối trên con đường đến Jordan, và lúc đó anh tưởng Esther là người đã phản bội mình. Anh đáp lại bình tĩnh hết mức có thể,

“Nếu điều này khiến cô vui lòng, hỡi cô gái Ai Cập, tôi thừa nhận cô đã rất cao tay và giờ số phận của tôi nằm trong tay cô. Có lẽ cô cũng sẽ thấy vui lòng khi biết rằng tôi không muốn xin xỏ gì cô cả. Tôi có thể giết cô, nhưng cô chỉ là một người phụ nữ. Chốn sa mạc luôn mở rộng vòng tay đón chào tôi; và mặc dù Rome vốn rất giỏi săn đuổi bất kì ai, nó sẽ phải bám theo tôi thật lâu và thật xa mới bắt được tôi, vì giữa chốn sa mạc hoang vu ấy không chỉ đầy gươm giáo mà còn đầy cát nữa – những thứ vốn rất thân thiết với dân tộc Parthia mà tới giờ Rome vẫn chưa thể chinh phục. Dù đã bị cô lừa gạt, dắt mũi không thương tiếc, có một điều tôi vẫn muốn hỏi cô: ai đã kể cho cô những điều đó về tôi? Trong cảnh trốn chạy hoặc giam cầm, thậm chí cả khi đang hấp hối, tôi vẫn còn một niềm an ủi được giáng xuống kẻ phản bội lời nguyền của một người mà cả đời đã phải chịu biết bao đau thương. Ai đã cho cô biết những điều đó?”

Không rõ là giả dối hay thực lòng, trên gương mặt của cô gái Ai Cập lộ rõ vẻ thương cảm.

“Hỡi người con của Hur,” cô nói, “ở đất nước tôi có những người tạo ra những bức họa bằng cách đi nhặt những vỏ ốc đủ màu sắc nằm rải rác trên bờ biển sau cơn bão, cắt nhỏ chúng ra, sau đó khảm lên những tấm đá cẩm thạch. Anh không thấy việc làm đó cũng giống với những gì ta phải làm để khám phá ra bất kì bí mật nào hay sao? Từ người này tôi nhặt nhạnh chi tiết này, từ người kia tôi nghe được đầu mối nọ, và sau đó khi ghép chúng lại với nhau, tôi cảm thấy trong mình niềm vui của một người đã nắm chặt gia sản và cả mạng sống của một người đàn ông mà...” Cô dừng lại, chân vẫn đập nhẹ trên sàn, ngoảnh đi như để giấu kín cảm xúc của mình; cố gắng lắm mới nói được hết câu – “... người đàn ông mà giờ tôi không biết phải đối xử như thế nào nữa.”

“Không, như vậy là chưa đủ,” Ben-Hur nói, không mủi lòng trước những gì cô thể hiện – “như vậy là chưa đủ. Ngày mai, cô phải định đoạt sẽ làm gì với tôi. Có thể tôi sẽ chết.”

“Đúng thế,” cô đáp lại, “Tôi đã nghe được từ tộc trưởng Ilderim khi ông ta nằm nghỉ cùng cha tôi trong vườn cây ngoài sa mạc. Đêm hôm đó rất yên tĩnh, trong khi vách lều chẳng thể ngăn nổi những đôi tại bên ngoài đang lắng nghe… tiếng chim và những con côn trùng bay trong không khí.”

Cô mỉm cười trước hình ảnh đó, rồi nói tiếp:

“Một số chi tiết khác – những mảnh vỏ sò khác của bức tranh – tôi có được từ...”

“Từ ai?”

“Từ chính người con của Hur.”

“Không còn ai khác sao?”

“Không.”

Hur thở dài một tiếng nhẹ nhõm, sau đó vui vẻ nói, “Cảm ơn cô. Tôi thật không phải khi đã bắt Sejanus phải chờ cô lâu đến thế. Những người sống trên sa mạc vốn không được khéo léo cho lắm. Xin cáo từ, Ai Cập!”

Từ nãy tới giờ anh để đầu trần. Giờ anh lấy tấm khăn treo trên cánh tay đội lên đầu, sau đó xoay người chuẩn bị ra đi. Nhưng đúng lúc ấy cô vươn một bàn tay về phía anh mà nói.

“Khoan đã,” cô nói.

Anh ngoảnh lại nhìn cô nhưng không nắm lấy bàn tay đeo đầy trang sức; và nhìn vào dáng điệu của cô, anh có thể biết bước ngoặt của tấn kịch khiến anh kinh ngạc này cuối cùng cũng đến.

“Xin hãy ở lại, và hãy tin lời tôi, hỡi người con của Hur, nếu tôi nói tôi biết tại sao Arrius chọn anh làm người thừa kế. Thề có Isis và tất cả các vị thần Ai Cập! Tôi thề rằng mình vẫn run rẩy khi nghĩ rằng anh, một con người dũng cảm và vô cùng hào phóng, lại phải lụn bại dưới bàn tay lão phán quan tàn ác đó. Anh đã bỏ lại một phần tuổi trẻ ở thành phố vĩ đại ấy, và giống như tôi, hãy thử nghĩ xem cuộc sống ở chốn sa mạc sẽ trái ngược với nó đến thế nào. Ôi, tôi thương hại... thương hại anh! Và nếu anh làm theo những điều tôi nói, tôi sẽ có thể cứu mạng anh. Tôi xin thề trên Isis thiêng liêng.”

Những lời khẩn cầu này tuôn ra một cách vô cùng thành thật, và tác động của nó lại càng to lớn khi kết hợp với sắc đẹp vô song của cô.

“Tôi suýt nữa đã tin cô,” Ben-Hur thấp nói giọng có phần ngập ngừng, bởi lẽ trong anh vẫn còn một nỗi hoài nghi về bản chất của con người thiêng liêng đó – một nỗi hoài nghi cực kì ngoan cố, vì nó đã từng cứu lấy tính mạng và gia sản của anh.

“Cuộc đời hoàn hảo của một người phụ nữ là được sống trong tình yêu; niềm hạnh phúc lớn nhất của một người đàn ông là chiến thắng được chính bản thân mình; và đó chính là điều tôi đang yêu cầu ở anh.”

Cô nói thật nhanh với vẻ xúc động. Quả thực, anh chưa bao giờ nhìn thấy cô với vẻ quyến rũ đến thế.

“Trước đây anh từng có một người bạn thân,” cô nói tiếp. “Khi ấy anh vẫn còn là một thiếu niên. Một cuộc cãi vã đã xảy ra, từ đó anh và người ấy bỗng trở thành kẻ thù. Người ấy đã làm những điều sai trái với anh. Và bao nhiêu năm sau, anh đã gặp lại người ấy trên trường đua ở Antioch.”

“Messala!”

“Phải, Messala. Anh là chủ nợ của người ấy. Hãy quên đi quá khứ, và nối lại tình bạn với người ấy; hãy trả lại khối gia tài mà anh ta đã thua cược; hãy cứu lấy anh ta. Sáu talent với anh chẳng là gì, chẳng khác nào một nụ hoa rụng xuống từ một cái cây cành lá xum xuê; nhưng với người ấy – ôi, giờ thì anh ta chỉ còn là một kẻ tàn phế, và mỗi khi gặp lại anh, người ấy buộc phải ngước nhìn từ mặt đất lên. Ôi Ben-Hur, hỡi ông hoàng cao quý! Với một người La Mã dòng dõi như vậy, phải đi ăn mày cũng chẳng khác nào cái chết khủng khiếp nhất. Hãy cứu anh ta khỏi kiếp sống đó!”

Cô cố ý nói thật nhanh để khiến anh không có đủ thời gian để suy nghĩ, có lẽ vì cô không biết hoặc đã quên rằng có những lời buộc tội xuất hiện trong tâm trí con người một cách tự nhiên chứ không đến từ suy nghĩ. Khi im lặng ngẫm nghĩ nên trả lời ra sao, anh tưởng như đang nhìn thấy chính Messala đang liếc mắt nhìn anh qua vai cô gái ấy; gương mặt của người La Mã vẫn không giống như một kẻ ăn mày hay một người bạn ánh mắt chế giễu vẫn vương giả như ngày nào, trong khi cái vẻ kiêu ngạo của hắn vẫn nguyên vẹn và khiến người ta khó chịu.

“Tôi sẽ giữ nguyên quyết định của mình, và lần này Messala sẽ chẳng nhận được gì cả. Hẳn tôi sẽ phải ghi lại sự việc này trong cuốn sổ chuyên ghi chép những chuyện kì lạ trên đời mới được – phán xét của một người La Mã dành cho một người La Mã khác! Nhưng có phải hắn – có phải Messala đã phái cô tới đây để yêu cầu tôi hay không?”

“Người ấy có bản chất hào phóng và tin rằng anh cũng là người như vậy.”

Ben-Hur cầm lấy bàn tay cô đang đặt trên cánh tay mình.

“Nếu cô đã thân thiết với hắn ta như vậy, hỡi cô gái Ai Cập xinh đẹp, hãy nói với tôi liệu hắn có làm như vậy nếu ở vào vị thế của tôi không? Trả lời đi, thề có Isis! Hãy trả lời trung thực!”

Trong cái nắm tay và ánh mắt anh đều chất chứa sự kiên định.

“Ồ!” cô bắt đầu nói, “anh ấy...”

“Là một người La Mã, có phải cô định nói như thế không? Thế có nghĩa là tôi, một người Do Thái, không được phép đáp trả hắn theo đúng cái cách mà hắn đã hãm hại tôi; là một người Do Thái, tôi phải tha không thu tiền mình thắng cược vì hắn là một người La Mã? Nếu cô còn điều gì nữa để nói với tôi, hỡi con gái của Balthasar, hãy nói nhanh lên, nhanh lên vì thề có vị Chúa của đất Israel, khi dòng máu trong tôi ngày càng nóng lên cho tới đỉnh điểm, có thể tôi sẽ không thể coi cô như một người đàn bà xinh đẹp nữa đâu! Tôi có thể coi cô là tay sai của một kẻ mà tôi càng căm thù hơn vì hắn là người La Mã. Muốn nói gì thì nói đi.”

Cô rút tay lại và bước ra ngoài ánh sáng, bản chất độc ác của cô giờ hiện nguyên hình qua ánh mắt và giọng nói.

“Đồ cặn bã Do Thái! Ngươi thật ngu ngốc khi tưởng rằng ta có thể đem lòng yêu ngươi khi đã nhìn thấy Messala! Giống người như ngươi được sinh ra chỉ để hầu hạ người ấy mà thôi. Người ấy có thể sẽ hài lòng nếu ngươi trả lại sáu talent; nhưng ta thì muốn ngươi phải trả thêm hai mươi – hai mươi, ngươi đã nghe thấy chưa? Nụ hôn lên những ngón tay ta mà ngươi đã giành lấy của người ấy dù được ta cho phép, giờ ngươi sẽ phải thanh toán sòng phẳng. Việc ta đã phải đồng hành cùng ngươi, tỏ ra yêu thương ngươi, chịu đựng ngươi suốt bao lâu, tất cả cũng phải được thanh toán mặc dù ta làm thế là để phục vụ cho Messala. Lão thương gia ở đây là người giữ tất cả tiền của ngươi. Nếu tới trưa mai lão ta chưa thanh toán cho Messala hai mươi sáu talent hãy nhớ lấy số tiền đó! Mọi việc sẽ được giao lại cho Sejanus giải quyết. Hãy suy nghĩ cẩn thận, và xin chào tạm biệt.”

Khi cô đi ra phía cửa, anh tiến lại chặn đường cô.

“Bản chất của dân Ai Cập vẫn còn sống trong cô,” anh nói. “Dù cô định gặp Messala vào ngay mai hay ngày kia, ở đây hay ở Rome, hãy chuyển cho tôi một thông điệp dành cho hắn. Hãy nói rằng tôi đã giành lại được tất cả số tiền, trong đó có cả sáu talent, mà hắn đã cướp đi của tôi khi tịch thu gia sản của cha tôi; hãy nói rằng tôi đã sống sót trở về từ những chiến thuyền, và giờ tôi hoàn toàn khỏe mạnh, lấy làm sung sướng khi thấy hắn phải chịu nhục nhã trong kiếp ăn mày; hãy nói với hắn rằng cơ thể tàn tạ của hắn sau cuộc đối đầu với tôi chính là lời nguyền của vị Chúa của đất Israel còn ghê gớm hơn cả cái chết vì những tội ác mà hắn đã gây ra với những người yếu thế; hãy nói với hắn rằng người mẹ và em gái của tôi mà hắn đã ném vào ngục ở Antonia để chết dần chết mòn vì bệnh hủi giờ đã giành lại được sự sống, khỏe mạnh như xưa nhờ có phép màu của người Nazareth mà cô khinh rẻ; hãy nói với hắn rằng họ đã trở lại với tôi và tôi sẽ tìm đến tình yêu thương của họ, coi điều đó là đủ bù đắp cho những điểu xấu xa mà cô sẽ mang tới cho hắn; hãy nói với hắn – điều này là để cô có thể cảm thấy dễ chịu hơn, hỡi hiện thân của sự gian xảo, một kẻ cũng giống hệt như Messala – hãy nói với hắn rằng khi Sejanus tới để giành lấy tài sản của tôi, lão sẽ không tìm được gì cả đâu, vì khối tài sản mà tôi được thừa kế từ viên nhị pháp quan, kể cả tòa dinh thự ở Misenum đều đã được bán, và khoản tiền đó giờ không ai có thể chiếm đoạt được bởi nó đang trôi nổi khắp thế giới dưới dạng tín phiếu trao đổi; ngôi nhà này cùng các hàng hóa, những đoàn tàu và đoàn xe buôn bán mà Simonides đã sử dụng để buôn bán vô cùng phát đạt thì lại đã được triều đình bảo đảm – một con người thông thái đã sẵn sàng bỏ ra không biết bao nhiêu tiền để có được bảo đảm đó, và Sejanus thì lại vốn là người ưa thích kiếm chác từ ăn hối lộ hơn là nhờ đổ máu và những điều sai trái; hãy nói với hắn rằng ngay cả khi giả sử tất cả tiền bạc và gia sản này đang thuộc sở hữu của tôi đi nữa, hắn cũng sẽ không nhận được một đồng nào cả đâu, vì dù hắn có tìm thấy hết những tín phiếu của người Do Thái và ép buộc họ thanh toán cho mình, tôi vẫn còn một phương kế nữa – một cam kết cống nạp tất cả cho Caesar. Vậy đó, hỡi Ai Cập, đó là những điều tôi đã học được ở thành Rome vĩ đại. Hãy nói với hắn rằng vì lòng căm hận không đội trời chung của mình, tôi sẽ không nguyền rủa hắn mà để trả thù, tôi sẽ phái đến cho hắn hiện thân của mọi lời nguyền; và khi hắn chứng kiến cô nhắc lại thông điệp của tôi, hỡi con gái của Balthasar, sự sắc sảo đặc trưng La Mã của hắn sẽ giúp hắn hiểu hết hàm ý của tôi. Cút đi – và tôi cũng sẽ rời khỏi đây.”

Anh dẫn cô ra cửa, và với vẻ lịch thiệp trang trọng kéo tấm rèm để cô bước ra.

“Chúc cô được an lành,” anh nói khi cô đi khuất.