CHƯƠNG 5 MELANIE-New York, 1986
“Khi dừng lại vào tuần trước,” bác sĩ Robinson nói, “chúng ta đang nói về luận án tiến sĩ của cô liên quan đến những chiếc máy bay biến mất trên Tam giác Quỷ Bermuda.”
Tôi cố gắng không đảo mắt, bởi sau một tuần suy ngẫm về mọi thứ chúng tôi đã nói, tôi tin bác sĩ trị liệu của tôi chỉ đang xoa dịu tôi khi vờ như coi trọng dự án của tôi.
Lẩn tránh ánh nhìn của anh, tôi ngắm nghía chiếc đèn đứng ở góc phòng có viền rủ ở chụp đèn. Trời lại mưa, giống như tuần trước, và tôi cảm thấy ớn lạnh dưới lớp quần áo ẩm ướt.
“Lại một ngày ảm đạm,” tôi nói, lảng tránh câu hỏi của anh. “Chúng ta ở đây, ngồi bên nhau giữa trưa mà vẫn phải bật đèn.”
“Lạc quan mà nói thì ngày mai sẽ là một ngày nắng đấy.” Anh ấy mỉm cười ấm áp với tôi.
“Anh có thích công việc của mình không?” Tôi hỏi.
“Có chứ,” anh đáp.
“Anh thật may mắn. Tôi còn không chắc mình sẽ phải làm gì với tấm bằng này sau khi tốt nghiệp. Đấy là nếu tôi tốt nghiệp được.”
“Điều đó có khiến cô phiền lòng không?” Anh ấy hỏi, hơi dịch người về phía trước. “Việc cô sẽ không kết thúc thứ mà mình đã bắt đầu ấy.”
“Tôi không chắc nữa.”
Khi tôi còn chưa rõ thì anh đã hỏi một câu khác. “Tuần trước cô từng đề cập rằng cô cảm thấy dự án của mình quá mang tính cá nhân. Cô có thể cho tôi biết tại sao không?”
Tôi cởi bỏ đôi giày ướt, co chân lên ghế sofa và ôm lấy một trong những chiếc gối trang trí có tua rua. Tôi mất một lúc để chuẩn bị câu trả lời trong khi những giọt mưa vẫn đang đập vào ô kính cửa sổ như những viên sỏi.
“Khi còn là một bé gái,” tôi nói, “thỉnh thoảng tôi sẽ ở lại qua đêm trong ngôi nhà xe kéo ấm cúng của bà tôi, nơi đó như căn phòng này vậy. Nơi đó tràn ngập sách, chất thành đống lớn, và cũng có một chiếc đèn đứng cao, giống như chiếc đèn của anh ở đằng kia.”
Tôi dừng lại, và bác sĩ Robinson đã rất kiên nhẫn chờ đợi tôi nói tiếp.
“Bà treo bức ảnh đen trắng chụp ông tôi trên tường phòng khách. Tôi chưa từng được gặp ông vì ông mất trước khi tôi chào đời, nhưng trông ông rất đẹp trai và mạnh mẽ trong bức ảnh đó. Ông tôi là phi công trong Thế chiến II. Trong bức ảnh, ông mặc một chiếc áo khoác bomber bằng da và đội một chiếc mũ lưỡi trai trông rất bảnh bao khi đứng trên cánh máy bay với nụ cười tự tin. Tôi từng ngắm bức ảnh đó hàng giờ liền và cảm thấy ông như đang mỉm cười với tôi.”
“Bà cô có bao giờ kể chuyện về ông không?”
“Ồ có chứ, lúc nào cũng kể. Bà sẽ nói với tôi rằng ông là một người đàn ông tuyệt vời: đúng đắn và đáng kính trọng, một quý ông đích thực. Bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ bà đang cố dạy cho tôi thế nào là một người chồng và một người bố thật sự. Bà biết tôi đang phải chứng kiến những gì ở nhà - những kẻ thua cuộc mà mẹ tôi luôn dành tình cảm, những gã thất nghiệp suốt ngày nhưng mở miệng ra là chê bôi những món bà nấu. Hoặc mạt sát bà vô dụng và cuối cùng đánh đập bà khắp nơi.” Tôi thở dài và nhìn thẳng vào bác sĩ Robinson. “Bà không muốn tôi trở thành người giống mẹ tôi, ám ảnh với ngoại hình, chuyển vào sống cùng một gã đàn ông chỉ bởi gã ta huýt sáo với mình ở quán bar. Bà muốn tôi theo đuổi giấc mơ của riêng mình.”
Bác sĩ Robinson gật đầu. “Cô có nghĩ mình đang theo đuổi nó không?”
Tôi nghiêng đầu về phía anh. “Không phải đó là lý do chúng ta ở đây sao? Để tìm ra điều đó.”
Hai tay anh đan vào nhau trước mặt, nhưng anh lại mở chúng ra như muốn nói, Tôi không biết. Đó có phải là lý do chúng ta ở đây không?
Tôi lại nhìn anh rồi nói, “Tốt thôi. Nếu anh muốn ép tôi phải trả lời mọi câu hỏi được đưa ra...”
Bác sĩ vội ngắt lời. “Tôi không ép buộc cô làm bất cứ điều gì, Melanie. Nơi này an toàn, không có bài kiểm tra hay điểm số gì ở đây. Chúng ta có thể nói về bất cứ điều gì mà cô muốn. Không áp lực. Không mong chờ. Không phán xét.”
Tôi cân nhắc và nhận ra rằng mình cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe điều đó, bởi gần đây tôi đã tự đặt cho mình quá nhiều áp lực - thực ra thì tôi đã như vậy cả đời rồi - để không trở thành người giống mẹ.
“Hãy cùng quay trở lại với bức ảnh của ông cô,” bác sĩ Robinson nói. “Cô nói ông ấy là một phi công.”
Tôi bắt đầu nhận ra mình khá thích những buổi trị liệu. Còn nơi nào khác mà bạn có thể nói về bản thân trong cả giờ với một người luôn lắng nghe từng lời của bạn đây?
“Đúng. Khi chuyện xảy ra, người ông mà tôi chưa một lần gặp mặt đã mất tích ngoài khơi bờ biển Florida vào năm 1945. Đó là một cuộc tập trận thường kỳ với hải quân và là một câu chuyện thời sự lớn vào thời điểm đó. Họ gọi nó là Chuyến bay 19. Năm chiếc máy bay đã biến mất không một dấu vết. Anh nên tìm hiểu về nó.”
“Tôi đã làm vậy rồi,” anh trả lời.
Lông mày tôi nhướng lên. “Anh đã tìm hiểu rồi ư?”
“Đúng. Sau khi được nghe về luận án của cô vào tuần trước, tôi đã rất tò mò. Tôi luôn có hứng thú với ngành hàng không.” Anh dừng lại ở đó, và tôi đã rất thất vọng. Tôi muốn hiểu thêm về anh, nhưng như thường lệ, anh lại chuyển cuộc trò chuyện về phía tôi. “Thật không thể tin nổi khi ông cô lại là một trong số năm phi công đó.”
“Người ta biết đến tôi vì thế đấy,” tôi tự hào nói, như thể đây là một chiêu trò trong bữa tiệc.
Bác sĩ Robinson cầm bút lên và ghi gì đó vào sổ tay, rồi quay lại nhìn tôi. “Vậy là cô đam mê tìm hiểu về những chiếc máy bay mất tích từ khi còn nhỏ, và dành toàn bộ những năm tháng qua cho một lĩnh vực khoa học có khả năng giải quyết một bí ẩn nổi tiếng, một chuyện cá nhân đối với cô. Nó được kết nối theo một cách nào đó với gia đình cô. Đặc biệt là bà cô, người mà cô rất kính trọng. Nhưng gần đây, vì một số lý do, cô mất dần hứng thú. Các giáo sư của cô thì nghĩ đó là do cái chết của mẹ cô và nỗi đau buồn mà cô đang trải qua. Hãy nói về điều đó.”
“Chúng ta thực sự phải làm thế ư?” Tôi hỏi.
“Cô không muốn?” Anh chăm chú quan sát biểu cảm của tôi. Bất cứ khi nào anh làm thế, tôi lại có cảm giác râm ran trong bụng, như thể tôi đang ở trên đỉnh tàu lượn siêu tốc, rồi đột ngột rơi xuống.
Tôi xoay tua gối quanh ngón tay. “Tôi đã kể cho anh nghe cảm giác lớn lên bên mẹ tôi cùng tất cả những người tình đến rồi đi của bà ấy. Hẳn anh đang nghĩ trường hợp của tôi nhan nhản ngoài kia, một cô gái có vấn đề với mẹ, người cần đối mặt với quá khứ và nhận ra tôi không phải là phiên bản mở rộng của mẹ, và tôi nên học cách tách cảm xúc của tôi về cái chết của bà ấy ra khỏi công việc của mình.”
Anh ngả người ra sau và nhìn tôi với một vẻ đầy lòng trắc ẩn. “Mọi thứ thường phức tạp hơn thế. Nhưng có vẻ cô đã phát hiện ra toàn bộ chiêu trò trị liệu của tôi rồi.”
Tôi bật cười. “Thật sao?” Tôi thầm hãnh diện và vui mừng vì anh nói vậy. “Tôi có thể nói gì đây? Tôi luôn xuất sắc trong học tập nếu không tôi sẽ phải trở lại Oklahoma. Hoặc có lẽ tôi sẽ đi trên con đường lát gạch màu vàng với Dorothy và Toto.” Tôi khúc khích cười nhưng lo là tôi nói thế thì nghe có vẻ giống như đang tán tỉnh anh. “Chỉ là đùa vui một chút về cơn lốc xoáy thôi,” tôi giải thích.
Anh gật đầu và giơ một tay lên. “Tôi hiểu mà.”
Anh không nói gì nữa, tôi nghĩ anh muốn nới lỏng dây cương một chút và cho phép tôi thoải mái nói về bất cứ điều gì tôi muốn, và đó không nhất thiết phải là về mẹ tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy thả lỏng và không còn sợ hãi khi mở lòng, một trải nghiệm vô cùng mới mẻ với tôi. Bình thường tôi là người khép kín, rất khó gần gũi với mọi người. Hầu hết bạn bè của tôi chỉ là người quen hoặc đồng nghiệp từ dự án vật lý. Đó là lý do tại sao tôi sống một mình.
Tôi vẫn đang ngồi trong tư thế co chân trên sofa, bàn chân phải của tôi đã gần như mất cảm giác. Tôi cựa người và đặt chân xuống sàn, xỏ giày trở lại. Sau đó, tôi liếc nhìn về phía giá sách của bác sĩ Robinson.
“Tôi xem sách của anh được không?” Tôi hỏi. “Tôi cần co giãn gân cốt một chút.”
“Cô cứ thoải mái,” anh thân thiện trả lời với một cái phẩy tay, như muốn nói, Chào mừng cô đến khám phá thế giới của tôi.
Anh vẫn ngồi yên, quan sát tôi khi tôi tiến đến giá sách, lướt qua gáy các cuốn sách và rờ các ngón tay dọc theo từng cuốn. Có một số là sách giáo khoa tâm lý nhưng cũng có một bộ sưu tập toàn sách kỹ năng ấn tượng với những tựa như The Gifted Child (Bi kịch của những đứa trẻ tài năng), Children of Alcoholic Parents (tạm dịch: Những đứa con của cha mẹ nghiện rượu), và Surviving the Death of a Spouse (tạm dịch: Phục hồi sau cái chết của bạn đời).
“Anh có bao giờ chỉ đọc sách để giải trí không?” Tôi hỏi, liếc qua vai nhìn anh.
Anh khẽ cười, rồi đưa tay vào cái giỏ bên cạnh ghế và lấy ra một cuốn The Talented Mr. Ripley (Quý ngài tài năng). Trong thâm tâm, tôi cảm thấy trào dâng niềm vui khi khám phá ra rằng bác sĩ trị liệu của tôi thực sự vẫn là một con người và anh cũng có cuộc sống riêng bên ngoài căn phòng này. Tuần trước, tôi để ý thấy anh không đeo nhẫn cưới, và tôi tự hỏi liệu anh đã có người yêu chưa. Hay anh cũng giống tôi? Một người cô độc chỉ mải học hành nghiên cứu.
“Mỗi bệnh nhân đến đây hẳn đều giống như một nghiên cứu mới đối với anh,” tôi nói. “Một câu đố cần giải đáp. Chắc hẳn anh sẽ cảm thấy nó đầy thách thức nhưng đáng giá.”
“Đúng thế, nhưng chỉ khi mọi việc suôn sẻ thôi.”
Tôi nghiên cứu qua tủ sách của anh và quay trở lại ghế sofa. “Chúng ta đến đâu rồi nhỉ?” Tôi hỏi.
Anh xem xét cuốn sổ ghi chú trên đùi, và mân mê cây bút trên tay, giống như đang xoay một chiếc dùi cui nhỏ xíu giữa các ngón tay. “Chúng ta đang nói về người ông phi công của cô, và tôi đã hấp tấp khi cố giải câu đố về cô quá nhanh, trong khi rõ ràng là vẫn còn nhiều điều mà tôi cần tìm hiểu.”
Những lời của anh khiến tôi vui, vì nói như vậy tức là anh tin tôi có những chiều sâu ẩn giấu thú vị. Trước đây chưa từng có ai muốn khám phá tâm hồn tôi. Ngoại trừ bà tôi, nhưng bà đã ra đi từ rất lâu rồi.
“Anh chắc hẳn sẽ cực kỳ thành công,” tôi cười nói, “nếu anh sẵn sàng đương đầu với những vấn đề của người khác?”
Anh ấy nhìn tôi ẩn ý rằng tôi đã đúng, nhưng anh là bác sĩ trị liệu của tôi, và chúng tôi không ở đây để nói về anh. Vì vậy anh tiếp tục dẫn dắt tôi trở lại với vấn đề của mình.
“Cô đã nói rằng cô không muốn đề cập đến mẹ của mình vào hôm nay,” anh nói. “Thế cô muốn nói về chuyện gì?”
“Chúa ơi,” tôi trả lời. “Tôi không biết. Tôi có thể nói về bất cứ điều gì ư?”
“Bất cứ điều gì cô thích.”
“Được rồi.” Tôi nghĩ về nó. “Hãy nói về luận án của tôi đi.”
“Tuyệt vời.”
“Anh muốn biết điều gì? Bởi thành thật mà nói, tôi không biết phải bắt đầu từ đâu.”
Anh ra hiệu về phía tôi. “Cô có thể cho tôi biết về giả thuyết của cô. Cơ sở khoa học của những gì cô đang cố gắng chứng minh.”
“Được rồi. Tôi hiểu anh đang làm gì ở đây, bác sĩ ạ. Anh đang cố gắng khơi dậy lại niềm đam mê của tôi. Tốt thôi. Tôi hiểu. Mục tiêu của anh là giúp tôi có động lực trở lại, và Trưởng khoa Vật lý là người tài trợ cho các buổi trị liệu này.”
“Mục tiêu của tôi là gì có quan trọng với cô không?” Bác sĩ Robinson hỏi.
“Một chút,” tôi đáp. “Tôi đoán tôi chỉ muốn hiểu ý định của anh trong khi anh đang đào sâu về tôi thôi?”
Anh khúc khích cười. “Tôi chỉ đang cố hoàn thành công việc của mình thôi. Giúp cô nhìn vào bên trong, tự nhận thức về mình hết mức có thể. Cuộc sống sẽ dễ dàng hơn khi cô hiểu bản thân, chấp nhận quá khứ cũng như giới hạn và nhận ra sức mạnh cùng khao khát. Khi cô thực sự biết mình là ai và muốn gì, và không còn cố gắng trở thành thứ không phải là cô.”
Tôi thở ra một hơi. “Nghe thật truyền cảm hứng.” Tôi cảm thấy lông mày của mình nhíu lại vì tò mò. “Anh bao nhiêu tuổi rồi, nếu anh không phiền? Anh có vẻ... tôi không biết nữa... anh có vẻ trưởng thành qua những lời mà anh nói, nhưng anh trông không già đến vậy.”
Anh ngập ngừng, và tôi cảm thấy trong anh có một thoáng khó chịu.
“Tôi xin lỗi. Như vậy có phạm quy không?” Tôi hỏi. “Tôi không nên hỏi anh câu đó hả?”
Vai anh hơi thả lỏng. “Không sao đâu. Tôi hai mươi tám.”
Tôi gần như ngã khỏi ghế sofa. “Anh mới hai mươi tám thôi à?”
“Cô ngạc nhiên lắm ư?”
“Vâng, anh có vẻ trưởng thành hơn rất nhiều. Có lẽ là do cách anh ngồi bắt tréo chân trên chiếc ghế bành lớn đó, rồi đưa ra lời khuyên giống như một ông bố.”
“Việc tôi còn trẻ có khiến cô không thoải mái không?”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Cô chắc chứ?”
Tôi nghĩ ngợi vài giây. “Không, thật đấy, không sao đâu. Anh có bằng tiến sĩ mà. Rõ ràng, anh là người có trình độ. Và cho tôi xin lỗi vì đã nói anh trông có vẻ già dặn. Tôi không có ý xúc phạm gì đâu, tôi chắc rằng nếu tôi gặp anh trên phố, đang đá bóng chạy vòng quanh, tôi sẽ nhìn nhận anh khác đi.”
Anh nhìn xuống cuốn sổ ghi chú và viết nguệch ngoạc vài dòng.
“Tôi ước gì mình được biết những điều mà anh đang viết về tôi,” tôi nói.
“Thực sự chẳng có gì đâu. Tôi chỉ muốn ghi nhớ những điều mà chúng ta đã nói trong các phiên trị liệu thôi.”
Tôi cười và nhìn đi chỗ khác, hơi bẽn lẽn. “Bây giờ tôi lại thấy xấu hổ.”
“Tại sao vậy?”
“Bởi tôi nói rằng anh trông giống như một ông bố đang ngồi trên chiếc ghế bành. Tôi có thể đoán được chẩn đoán hiện tại của anh. Bệnh nhân cần bóng dáng người cha đến tuyệt vọng. Đó có phải là những gì anh đã viết ra không?”
Anh đặt bút xuống và chắp tay lại. “Không, Melanie, không phải đâu. Tôi chỉ viết cô đã rất ngạc nhiên khi biết tuổi của tôi. Nhưng hãy nói về điều đó đi, nếu cô không phiền. Đây không phải là lần đầu tiên cô cố đoán xem tôi đang nhìn nhận cô như thế nào. Việc đó gần giống như cô đang muốn đi trước tôi một bước.”
“Có lẽ tôi đã để lỡ khao khát thật sự của mình,” tôi nói. “Có lẽ tôi nên trở thành một bác sĩ trị liệu thay vì một nhà vật lý học.”
Khi anh không trả lời, tôi lại rên rỉ. “Chúa ơi, tôi thật sáo rỗng. Tôi muốn hình dung ra bóng dáng của bố mình, tôi đã xem bức ảnh đó của ông tôi và ước mình có thể mang ông trở về từ cõi chết. Và đây chính là lý do tại sao tôi làm thế.”
“Chậm lại nào,” bác sĩ Robinson nói, giơ một tay lên. “Cô định cho tôi nghỉ việc đấy à?”
Tôi bật cười. “Chúng ta lại quay trở lại đây một lần nữa. Có lẽ tôi thực sự đã bỏ lỡ đam mê của mình rồi.”
“Cô nghĩ thế thật đấy à?”
Tôi lắc đầu. “Tôi không biết. Có lẽ tôi chỉ cần hoàn thành những gì tôi đã bắt đầu, lấy bằng tiến sĩ rồi đánh giá lại. Tôi mới hai mươi tư. Tôi có thể giải mã bí ẩn Tam giác Quỷ Bermuda đã luôn ám ảnh tôi suốt thời thơ ấu và thiếu niên. Ý tôi là, tôi sẽ không bao giờ nhận được học bổng nếu không có niềm đam mê điên cuồng với khoa học ở trường. Đó là thứ đã giúp tôi có thể tham gia chương trình dành cho sinh viên tài năng, nơi tất cả các giáo viên nhìn vào cuộc sống bất hạnh, buồn bã của tôi và muốn giúp tôi thành công. Tôi đang ở đây, sống ở New York và sắp trở thành một tiến sĩ vật lý hạt cơ bản. Thật ấn tượng phải không? Hồi bắt đầu học đại học, tôi mới mười sáu. Tôi nên tự hào về bản thân.”
“Đúng, cô nên cảm thấy vậy,” anh đáp, mắt ánh lên tia kính trọng và ngưỡng mộ. Tôi hoàn toàn bị khuất phục bởi nó. Chưa từng có ai nhìn tôi như vậy trước đây.
Bác sĩ Robinson liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Thời gian của chúng ta đã hết,” anh nói với vẻ có lỗi. “Tôi sẽ ghi lại điểm chúng ta đã dừng lại, và chúng ta có thể tiếp tục vào tuần tới.”
“Nghe hay đấy.” Tôi cầm ví lên, và anh hộ tống tôi ra cửa, tại đây tôi đã dừng lại một lúc. “Tôi biết đây mới chỉ là buổi thứ hai, nhưng tôi cảm thấy nó rất có ích. Tôi chỉ muốn anh biết điều đó thôi. Tôi hy vọng mình sẽ tìm ra lối thoát cho tình trạng sa sút này và hoàn thành luận án.”
“Tôi rất vui khi nghe điều đó. Có lẽ những phi công tương lai qua Bermuda cũng sẽ biết ơn vì điều đó,” anh nói và tiễn tôi ra về.
Tôi đi xuống cầu thang đến khu vực lễ tân và lấy chiếc ô của mình ở tiền sảnh. Khi rời khỏi phòng khám nằm trong một khu nhà bằng đá nâu xinh đẹp ở Upper West Side, tôi định xòe ô che đầu, nhưng cơn mưa đã đi qua, và những tia nắng mờ ảo đang rọi qua tán lá, phản chiếu lấp lánh lên những vũng nước trên đường phố. Rồi tôi nhìn lên. Màn sương bồng bềnh lấp lánh trong những tia sáng sau cơn mưa thật khó tin. Nó làm tôi nhớ đến đám mây trắng xám được mô tả trong một báo cáo chuyến bay mà tôi đã nghiên cứu trước đây. Người phi công đã đề cập đến những đường ngang dài trong một “màn sương mù tĩnh điện”, thứ đã tạo thành một cơn lốc khiến anh ta bay với tốc độ không tưởng. Anh ta cũng đề cập đến cảm giác không trọng lực khi bước ra khỏi thứ được gọi là đường hầm đó.
Tôi dừng lại trên vỉa hè và nghĩ về điều này. Có khi nào những đám mây đó chứa các hạt tích điện từ một cơn bão địa từ không? Trong trường hợp giả thuyết đó đúng, liệu nó có thể gây ra hiện tượng siêu gia tốc và lực g[1] đủ để khiến một chiếc máy bay vỡ thành từng mảnh không? Hoặc thậm chí đẩy nó qua một lỗ sâu vũ trụ[2]? Có lẽ là vào một chiều thời gian khác?
Cảm thấy phấn chấn, tôi tăng tốc và bước thật nhanh để bắt chuyến tàu điện ngầm trở lại phòng thí nghiệm.
Chú thích:
[1]Lực g hay lực G (tiếng Anh: g-force) là một lực ảo dạng quán tính dùng để giải thích gia tốc tương đối của một vật khi đổi hướng hoặc thay đổi tốc độ so với khi rơi tự do. Đơn vị đo lực g ký hiệu là g (hoặc G).
[2]Wormhole: Trong vật lý, một lỗ sâu hay lỗ giun vũ trụ là một không thời gian được giả định có cấu trúc tô pô đặc biệt tạo nên đường đi tắt trong không thời gian. Chúng nối thông từ một vùng không-thời gian này đến vùng kia và đôi khi, vật chất đi từ vùng này sang vùng kia bằng cách chui qua lỗ này.