Chương 14 DEAN-New York, 1986
Năm tháng sau khi tôi bắt đầu yêu đương với Melanie Brown, sếp của tôi, Tiến sĩ Caroline Weaver, đã gõ cửa văn phòng tôi. Bà cầm ly cà phê trên tay, cặp da đeo bên hông. Đó là một ngày thứ Tư, 8 giờ 45 phút sáng, và phòng khám vẫn chưa mở cửa. Tôi đang ngồi ở bàn làm việc đọc báo cáo của một nhân viên công tác xã hội về một bệnh nhân mới mà tôi sắp sửa gặp vào sáng hôm đó - một thanh niên gây rối trong trại trẻ mồ côi. Tòa án yêu cầu phân tích tâm lý của người này liên quan đến tội bạo lực mà cậu ta đã phạm phải vào mùa xuân.
“Hôm nay cậu đến sớm,” Caroline nói.
Thông thường, tôi sẽ bắt đầu các buổi trị liệu vào lúc 10 giờ sáng thứ Tư và nhận các buổi trị liệu ban tối.
Tôi gõ nhẹ vào tập hồ sơ đang mờe trên bản. “Tôi muốn chuẩn bị cho buổi trị liệu của mình với cậu Abbott.”
“Hôm nay ư?”
“Đúng vậy. Mười lăm phút nữa.”
Bà ngập ngừng ở ngưỡng cửa, rồi bước vài bước vào văn phòng của tôi, nhìn chiếc ghế sofa, tủ sách cùng chiếc đồng hồ quả lắc. Bà mím môi, và tôi cảm thấy bà đang không hài lòng về điều gì đó.
“Tôi muốn gặp cậu trong văn phòng của tôi khi cậu rảnh,” bà nói. “Có chuyện này tôi cần nói với cậu.”
Tôi ngả người ra sau ghế nhưng trong lòng thầm run rẩy. “Được ạ.”
Sếp của tôi nhìn quanh một lần nữa, như thể bà ấy đang trang trí lại văn phòng của tôi trong tâm trí, tôi đột nhiên lo sợ về chuyện có thể bà đã biết về hành vi vi phạm của tôi và sắp sa thải tôi hoặc tệ hơn là truy tố hình sự. Bà không nói gì nữa và xoay người bước ra ngoài.
*Tôi đã mất tập trung suốt cả buổi sáng hôm đó. Tôi không chắc liệu bệnh nhân của tôi có biết tôi đã mất tập trung hay không, nhưng có lúc, tôi đã phải cáo lỗi và rời khỏi phòng, nhốt mình trong phòng tắm và hít thở sâu vài lần để giảm bớt căng thẳng. Khi tôi trở lại ghế và bệnh nhân của tôi tiếp tục nói về người anh trai quá cố của cậu ta, tôi đã ngồi trong tâm trạng vô cùng kinh hoàng khi nghĩ rằng mối quan hệ của tôi với Melanie đã bị phát hiện.
Ôi Chúa ơi, tôi đã nghĩ gì khi dính dáng đến một bệnh nhân thế này? Một sự lạm dụng quyền hạn vô lương tâm, và tôi biết làm như vậy là sai trái vào thời điểm đó - dĩ nhiên là tôi biết - nhưng tôi quá yếu đuối, cô đơn và vỡ vụn trong lòng sau cái chết của dì Lynn. Lẽ ra tôi nên gọi cho John Matthews ngay lập tức và bắt đầu trị liệu cùng ông ấy. Lẽ ra tôi nên tuân theo các giao thức thích hợp. Nhưng tôi đã không làm vậy. Và bây giờ, tôi đã ở đây.
Vào giờ ăn trưa, tôi chào tạm biệt bệnh nhân cuối cùng của buổi sáng và chuẩn bị tinh thần để lên lầu đối mặt với Caroline.
*“Mời vào. Cậu ngồi đi,” Caroline nói mà không rời mắt khỏi những ghi chú đang viết trên bàn. Bà thiếu kiên nhẫn vẫy tay ra hiệu cho tôi, như thể tôi đã làm xáo trộn dòng suy nghĩ của bà và bà cần tôi im lặng cho đến khi xong việc.
Tôi ngồi xuống. Bà phớt lờ tôi trong khi vẫn tiếp tục viết. Rồi bà đặt bút xuống, đóng tập hồ sơ và chắp hai tay lại, đối mặt với tôi ở phía bên kia chiếc bàn lớn.
“Tối qua,” Caroline nói, “tôi đã có mặt ở Trung tâm Lincoln và được giới thiệu với một người cần nhờ tôi giúp đỡ.”
Tôi khẽ thở ra một hơi. Bà ấy đang nói đến một chuyện khác phải không? Hay chỉ là cách nói vòng vo để đề cập đến một chủ đề khó xử?
“Giúp đỡ ư?” Tôi nhắc lại.
“Đúng.” Bà đứng dậy, đi vòng qua bàn rồi dựa vào nó, ngay trước mặt tôi, khiến tôi buộc phải ngước nhìn. Caroline rất khéo khẳng định quyền lực của mình với tư cách chủ sở hữu của phòng khám này và khiến mọi người cảm thấy sợ hãi.
“Người đó tình cờ lại là Oscar Hamilton,” bà nói với tôi.
Tôi cảm thấy vai mình nhẹ nhõm hơn một chút vì bất cứ điều gì liên quan đến Oscar Hamilton, một trong những ông trùm kinh doanh giàu có nhất ở New York, đều không liên quan đến tôi và những hành vi vi phạm thấp kém của tôi.
“Hóa ra một trong những cô con gái của ông ấy đang là sinh viên ngành điện ảnh tại Tisch, và cô ấy đang làm một bộ phim tài liệu về cách mọi người đối phó với nỗi đau sau khi mất người thân.
Tôi cựa mình trên ghế, đợi Caroline giải thích lời nhờ vả đó thì có liên quan gì đến tôi.
“Ông Hamilton hỏi liệu con gái ông ấy có thể đến đây để phỏng vấn một bác sĩ trị liệu có khả năng khai sáng về khía cạnh tâm lý của những nỗi đau không, và vì đó là chủ đề luận án tiến sĩ rất được hoan nghênh của cậu, tôi nghĩ cậu là người hoàn hảo nhất.” Caroline đứng dậy và trở lại chỗ chiếc ghế của mình phía sau bàn làm việc. “Hơn nữa, cậu cũng dễ nhìn. Cậu sẽ trông ổn trước ống kính máy quay.”
Tôi mỉm cười không thoải mái và nhìn xuống sàn nhà. “Tôi không biết đấy.”
“Cậu khiêm tốn quá, Dean. Có lẽ đó là điều khiến cậu trở nên hấp dẫn.” Sếp quan sát khuôn mặt tôi một lúc. “Nhân tiện thì tôi cũng vừa nói chuyện điện thoại với con gái của Oscar - tên cô ấy là Olivia - và cô ấy nói rằng muốn đến vào chiều mai. Cô ấy nói sẽ mất khoảng một giờ, cũng có thể là hai giờ, vì vậy tôi đã bảo Jane sắp xếp lại các phiên trị liệu buổi chiều của cậu.”
Tôi lùi ra sau một chút. “Tôi hiểu rồi. Vậy là...” Tôi ngừng lời rồi nói tiếp, “tôi đoán như thế này có nghĩa là tôi sắp ra mắt bộ phim của chính mình nhỉ?” Tôi nói chuyện một cách hòa nhã, dù tôi cảm thấy khó chịu vì sếp tôi đã không hỏi tôi trước.
“Cậu sẽ trông rất tuyệt đấy,” bà nói. “Tôi thực sự đánh giá cao cơ hội này.” Bà lại cầm bút lên, tỏ ý rằng bà muốn quay lại làm việc.
Tôi đứng dậy, quay trở về văn phòng của mình, và nhẹ nhõm thả người xuống ghế.
*Khi tôi đến căn hộ của Melanie thì trời đã tối. Tôi ở lại làm việc muộn để hoàn thành những ghi chú dài và chi tiết về cậu bé ở trại trẻ mồ côi, người đã đột nhập vào nhà của những người hàng xóm để rình mò khi họ đang ngủ. Cuối cùng, khi bị chủ nhà bắt quả tang - người này thức dậy vào giữa đêm vì muốn lấy chút đồ ăn nhẹ - cậu bé đã lao ra và phi một con dao điêu khắc lớn vào người anh ta.
Tôi vẫn chưa sẵn sàng để đưa ra kết luận. Tôi sẽ yêu cầu có thêm nhiều buổi trò chuyện hơn với cậu bé này vì cậu ta kiên quyết không nói về những gì đã xảy ra hoặc cảm giác của cậu ta về chuyện đó. Một nhiệm vụ bất khả thi.
Bãi đậu xe trống phía sau văn phòng môi giới bảo hiểm được chiếu sáng lờ mờ bởi một cột đèn lập lòe và kêu lách tách duy nhất, nhưng những bậc thang bên ngoài tòa nhà dẫn đến căn hộ của Melanie trên tầng hai thì sáng rỡ vì có ánh đèn bên ngoài nhà. Tôi leo lên cầu thang dài và gõ nhẹ lên cửa sổ kính.
Một lúc sau cô ấy mới trả lời và khi cánh cửa cuối cùng cũng mở ra, tôi thấy cô ấy có vẻ cáu kỉnh. “Anh đến muộn.” Melanie nói.
Tâm trạng tôi không tốt vì đã phải trải qua một ngày dài - đầu tiên là căng thẳng vì tưởng mình bị sa thải, sau đó là một buổi chiều mệt mỏi khi bị một bệnh nhân giận dữ la mắng, chửi rủa và gọi mình bằng những cái tên khiếm nhã.
“Anh xin lỗi. Anh phải viết nốt báo cáo để nộp vào ngày mai.”
“Vậy thì anh nên gọi điện.” Cô ấy quay đi nhưng vẫn để cửa mở cho tôi vào. “Em đã nấu bữa tối, nhưng giờ gà đã khô và bông cải xanh thì nhũn. Hỏng hết cả rồi.”
Tôi đóng cánh cửa lại sau lưng và ngay lập tức chú ý đến chiếc khăn trải bàn trắng tinh, những ngọn nến và chai rượu vang đang đặt trên bàn, dù cô ấy biết tôi không uống rượu. “Anh không biết là em đã chuẩn bị một kế hoạch đặc biệt.”
Cô ấy thường làm luận án cho đến khi tôi đến và không bao giờ bận tâm chuyện tôi đến muộn.
Melanie đi tới chỗ lò nướng, lấy ra một cái chảo có hai miếng ức gà mà cô ấy vừa hâm nóng, dọn rau và cơm ăn kèm. Cô ấy loảng xoảng thả cả hai chiếc đĩa xuống bàn, sau đó cầm chai rượu lên và dốc cạn phần rượu còn lại vào ly của mình. Cô ấy ném cái chai vào thùng rác và nói, “Anh cứ tự nhiên. Ngồi xuống đi.”
Cô ấy kéo lê chiếc ghế của mình trên sàn và ngồi phịch xuống đó, cầm nĩa và dao lên, giận dữ cắt miếng thịt của mình. “Đừng trách em nếu nó có vị như da thuộc.”
“Anh chắc là nó sẽ rất ngon,” tôi đáp, ngồi xuống chiếc ghế đối diện với cô ấy.
Chúng tôi ăn trong im lặng cho đến khi tôi thử cố gắng dàn xếp ổn thỏa mọi chuyện. “Thật tuyệt vời, Melanie. Chắc hẳn em đã dành rất nhiều thời gian cho bữa tối này?”
“Rõ ràng.”
Miếng gà quả thực rất dai và khô, tôi đã phải cố để tỏ ra mình đang không phải vật lộn quá dữ dội với nó. “Nhưng em lại giận anh.”
“Không, em không giận.” Cô ấy còn chẳng buồn nhìn tôi khi nốc cạn nửa ly rượu của mình.
“Em có muốn nói gì không?”
“Không hẳn.”
“Tại sao thế?”
Cô ấy thả rơi dao nĩa xuống đĩa. “Được rồi. Em sẽ cho anh biết lý do tại sao em tức giận. Hôm nay là ngày em hoàn thành luận án, và vì thế nên em muốn bữa tối này thật đặc biệt.”
Tôi cũng đặt nĩa xuống và hoàn toàn chú ý vào cô ấy. “Tuyệt quá! Chúc mừng em nhé.”
Cô ấy phớt lờ lời chúc của tôi và tiếp tục ăn. “Anh không cần phiền thế đâu.”
“Không phiền chuyện gì mới được? Nói để em biết là anh cảm thấy mừng cho em ư? Anh thực sự mừng cho em đấy.”
“Vậy thì anh nên đến đúng giờ.”
Tôi đã rất cố gắng để kiên nhẫn và thấu hiểu. “Anh đâu biết em hoàn thành luận án vào hôm nay. Anh còn chẳng biết em đã gần sát ngày bảo vệ.”
“Ồ, nhưng đó mới là vấn để, phải không? Đáng ra anh phải biết mới đúng.”
Đây không phải là lần đầu tiên Melanie giận dữ vì điều gì đó mà cô ấy cảm thấy lẽ ra tôi phải nhận thấy hoặc hiểu được. Thường thì tôi sẽ nói chuyện với cô ấy để vượt qua cơn giận bằng cách sử dụng các kỹ thuật trị liệu, nhưng tối nay tôi đã quá kiệt quệ về tinh thần và tôi không muốn trở thành bác sĩ trị liệu cho cô ấy. Tôi chỉ muốn yên ổn dùng bữa tối của tôi thôi.
“Anh không phải là người giỏi đọc suy nghĩ,” tôi trả lời và ngay lập tức hối hận vì từ bé tôi đã học được bài học lớn trong đời là đừng nên cự cãi. Tôi biết nó sẽ dẫn đến đâu.
Cô ấy ngẩng lên và lườm tôi với vẻ khinh miệt. “Xin lỗi, anh nói gì cơ?”
Nó đến rồi.
Tôi cố gắng hết sức để đáp lại bằng một giọng nhẹ nhàng, dịu dàng. “Làm sao anh biết được em đang nghĩ gì nếu em không nói cho anh biết?”
“Anh đã từng biết,” cô ấy đáp. “Anh luôn biết, đôi lúc còn trước cả khi em biết cơ. Anh sẽ hỏi em những câu hỏi và dần dà khiến em phải nói ra mọi thứ.”
“Nếu em đang muốn nhắc đến những cuộc trò chuyện mà chúng ta từng có trong văn phòng của anh thì... nó khác mà.”
“Khác như thế nào chứ? Chúng ta từng trò chuyện giống như chúng ta đang trò chuyện bây giờ.”
“Ừ, nhưng lúc đó anh là bác sĩ trị liệu của em,” tôi cố giải thích. “Khi anh dành thời gian ở cạnh em bên ngoài, anh không muốn cố... ép em phải nói ra thứ gì cả.”
Melanie cay đắng giễu, “Anh đang nói cái gì vậy? Ý anh là em đang đòi hỏi ấy hả? Có phải vậy không?” Cô ấy nốc nốt chỗ rượu còn lại, và đột nhiên tôi thấy ghê tởm ánh nhìn say xỉn, mơ màng trong mắt cô ấy. Cảnh tượng này quen thuộc quá.
“Đó không phải là điều anh muốn nói,” tôi đáp, cố gắng nghĩ cách để kéo cô ấy trở lại từ vực thẳm. Nhưng cô ấy không cho tôi cơ hội. Cô ấy đứng dậy khỏi bàn, lao vào phòng ngủ và đóng sầm cửa lại sau lưng.
Mệt mỏi và thất vọng, tôi xoa xoa thái dương, nhưng rồi vẫn gượng dậy. Tôi đi theo cô ấy và nhẹ nhàng gõ vào cánh cửa.
“Cút đi!” Cô ấy hét lên từ bên trong. “Em không muốn nói chuyện với anh!”
Tôi đứng ngoài cửa phòng và nghĩ về tất cả những lần cô ấy phải nghe mẹ mình tranh cãi với bạn trai. Tôi ước gì Melanie có một hình mẫu khác để điều chỉnh hành vi của mình. Thật không may là cô ấy chưa bao giờ được gặp người ông ngoại phi công của mình. Nếu ông còn sống, cuộc sống của cô ấy bây giờ sẽ như thế nào nhỉ?
Hít một hơi thật sâu, tôi tự nhủ rằng đây là cơ hội để giúp cô ấy học cách giao tiếp hiệu quả hơn với tôi, bởi mọi thứ không phải lúc nào cũng kết thúc bằng một trận la hét.
“Anh hiểu rằng em đang tức giận,” tôi nói, “và anh xin lỗi nếu anh làm tổn thương cảm xúc của em. Em có thể cho anh vào để chúng ta nói chuyện được không?”
“KHÔNG. Ở ngoài đi. Em phát ốm vì chuyện này rồi.”
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi vụt qua, tôi đã nghĩ cô ấy có thể sẽ nói với tôi rằng cô ấy muốn chấm dứt mọi chuyện giữa chúng tôi, rằng mối quan hệ của chúng tôi không diễn ra như cách cô ấy tưởng tượng và rốt cuộc thì tôi không phải là người cô ấy muốn. Tâm hồn tôi bay đi thật xa trước viễn cảnh chuyện đó sẽ xảy ra - rằng mọi chuyện có thể kết thúc và tôi sẽ không còn phải sống trong nỗi sợ hãi khi mối tình của chúng tôi bị bại lộ và hậu quả là sự xấu hổ, nhục nhã nữa.
“Em phát ốm vì cái gì cơ?” Tôi hỏi.
Cô ấy không trả lời, vì vậy tôi quyết định im lặng đợi cho đến khi cô ấy sẵn sàng nói chuyện. Một lúc sau, tôi nghe thấy tiếng giường cọt kẹt, tiếng bước chân của cô ấy trên sàn nhà. Rồi cánh cửa phòng mở ra.
Má cô ấy ướt nhẹp, và lớp trang điểm nhòe đi dưới mắt. “Anh cảm thấy xấu hổ vì em à?” Cô ấy đau khổ hỏi, giọng lẫn trong những tiếng nức nở. “Đối với anh, em là người thiếu tinh tế đến thế ư? Đó có phải là lý do anh không muốn bị bắt gặp ở bên em không?”
“Tất nhiên là không rồi,” tôi nhẹ nhàng trấn an cô ấy.
Chúng tôi đã trải qua chuyện này trước đây, đã nói về vấn đề này rất nhiều lần.
“Em biết tại sao chúng ta phải giữ bí mật rồi mà,” tôi nói thêm.
“Nhưng đã năm tháng rồi!” Cô ấy lau mũi bằng tờ khăn giấy cuộn tròn lại. “Em muốn được đi nhiều nơi và làm mọi thứ với anh. Bây giờ em cũng đã hoàn thành luận án rồi, em muốn chúng ta dành nhiều thời gian hơn cho nhau.”
Tôi biết ý của cô ấy là gì. Cô ấy muốn tôi trở thành nỗi ám ảnh mới của cô ấy, trở thành tâm điểm cho mọi ước mơ của cô ấy về tương lai. Tôi chính là phương tiện giúp cô ấy thoát khỏi nỗi bất hạnh sâu thẳm, cố hữu của mình.
Nhưng tôi không phải là phương thuốc chữa lành những vết thương của cô ấy. Tôi giống một vấn đề của cô ấy hơn bởi tôi đã là người nắm quyền làm chủ ngay từ những phút ban đầu chúng tôi kết nối với nhau. Cô ấy đã đặt niềm tin vào tôi, một chuyên gia, và tôi đã phản bội niềm tin đó. Tôi đã lợi dụng điểm yếu của cô ấy. Và dù tôi đã cố nói với bản thân rằng đây là sự đồng thuận giữa hai bên, nhưng trong sâu thẳm tôi biết là không phải vậy, bởi mối quan hệ giữa chúng tôi không bao giờ là một mối quan hệ bình đẳng. Hiện tại cô ấy đang cảm thấy bế tắc và bất lực, và đúng là như vậy thật. Cô ấy thực sự cần quay trở lại trị liệu. Nhưng động thái đó chắc chắn sẽ làm lộ mối quan hệ của chúng tôi nếu cô ấy nói chuyện với một bác sĩ khác, vì vậy tôi, và chỉ có tôi mới có thể giúp cô ấy chữa lành vết thương.
Cô ấy rùng mình với một tiếng nức nở đau đớn rồi nói, “Mọi thứ gần đây đã khác. Anh không còn gọi cho em thường xuyên như trước đây.”
“Anh vẫn gọi cho em mỗi ngày vào bữa trưa.”
“Nhưng anh từng gọi nhiều hơn thế.”
Đáng buồn thay, tôi sẽ chẳng bào chữa được gì cho mình nếu cứ chất vấn qua lại mãi thế này. Tất cả những gì tôi có thể làm lúc này là cố gắng xoa dịu cô ấy.
“Em chỉ ước anh có thể ở lại với em mỗi đêm!” Cô ấy thổn thức. “Em không biết tại sao anh cứ khăng khăng đòi quay lại nhà mình khi anh hoàn toàn có thể đến đây.”
“Em biết tại sao mà,” tôi giải thích. “Chúng ta phải duy trì mọi thứ như bình thường. Nếu không, anh có thể mất việc, và rồi chúng ta sẽ đi đến đâu?”
Cô ấy lao về phía trước và vòng tay quanh eo tôi, vùi khuôn mặt đẫm nước mắt vào vai tôi. “Em biết. Em rất xin lỗi. Anh nói đúng. Chỉ là em cảm thấy rất đau khổ khi không có anh, và em ghét phải ở một mình, em muốn anh làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn, như anh vẫn luôn làm.”
Thật là một gánh nặng: khi phải vác trên vai trách nhiệm đảm bảo hạnh phúc cho Melanie. Tôi cảm thấy sức nặng của nó giống như một ngôi nhà đang đè lên lưng tôi, và tôi ước mình có thể xóa bỏ những gì mình đã làm.
Cô ấy ngước nhìn tôi với ánh mắt cầu xin, rồi kéo tôi xuống để đặt lên môi tôi một nụ hôn. Mũi cô ấy chảy nước, và mùi rượu trong hơi thở của cô ấy khiến tôi rùng mình. Nó kéo tôi trở lại với những ký ức thời thơ ấu của mình, tôi bất giác muốn lùi lại, nhưng tôi biết mình không thể từ chối cô ấy. Không thể trong khoảnh khắc này.
“Đến đây và nằm xuống với em đi,” cô ấy nài nỉ, kéo tay tôi. “Em muốn anh ôm em và hứa với em rằng mọi thứ rồi sẽ ổn.”
Tôi mệt và đói, tôi vẫn chưa ăn xong bữa tối, nhưng tôi biết mình không thể chối từ. Cô ấy đang ở trong tình trạng rất mong manh, và tôi sẽ mất một thời gian để thuyết phục cô ấy thoát ra khỏi những đau khổ. Có lẽ cô ấy sẽ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ sau khi uống hết chai rượu đó. Tôi hy vọng điều đó sẽ xảy ra, bởi tôi đã quá kiệt quệ về tinh thần và cảm xúc rồi.
*Ngày hôm sau, tôi gặp bệnh nhân vào buổi sáng, sau đó dành thời gian ăn trưa để thu dọn bàn làm việc và tủ sách để đón đoàn làm phim sinh viên dự kiến sẽ đến. Caroline đột nhiên xuất hiện ngay trước đó.
“Mọi thứ có vẻ rất ổn,” bà ấy nói. “Và cảm ơn cậu vì đã nhận lời đề nghị này nhé. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với chúng ta.”
Tôi không chắc ý của bà ấy là gì khi nói như vậy, nhưng tôi cho rằng nó có liên quan gì đó đến việc bà ấy giúp đỡ một trong những gia đình giàu có nhất ở New York. Caroline là một người đầy tham vọng và đôi khi vẫn nói về việc mở rộng phòng khám sang Brooklyn hoặc thậm chí là Connecticut, nơi bà ấy từng sống. Tìm kiếm một nhà đầu tư có hầu bao rủng rỉnh có lẽ là một phần trong kế hoạch.
“Không thành vấn đề,” tôi trả lời.
Tôi thích cái ý tưởng về một buổi chiều không phải ngồi trên chiếc ghế và lắng nghe những vấn đề của người khác. Gần đây tôi đã gặp đủ khó khăn khi đối phó với các vấn đề của chính mình rồi.
Đồng hồ điểm một giờ, và điện thoại của tôi đổ chuông, như thể đó là một tín hiệu.
“Chắc là họ đấy.” Caroline vén vài lọn tóc lòa xòa ra sau tai. “Tôi sẽ xuống lầu đón họ và dẫn họ lên đây. Đừng lo lắng quá nhé. Họ chỉ là sinh viên đại học thôi,” bà nói thêm, nhưng tôi ngờ rằng lời nhắc nhở đó là dành cho chính bà chứ không phải tôi. “Tôi chắc rằng họ sẽ thích những điều cậu nói. Chúc may mắn.”
“Tôi sẽ cố,” tôi mỉm cười đáp lời.
Một lúc sau, có tiếng gõ cửa phòng tôi, và Caroline bước vào cùng với đoàn làm phim, ít hơn tôi tưởng. Chỉ có một cô gái trẻ đeo ba lô, tay ôm một chiếc cặp trước ngực, và một anh chàng cao, gầy, để râu, lỉnh kỉnh xách theo hộp đựng máy ảnh lớn và chân máy.
Mắt tôi dừng lại ở cô gái trẻ ngay lúc mặt trời ló dạng sau những đám mây và chiếu những tia nắng xuyên qua tán sối bên ngoài cửa sổ. Cô ấy mảnh khảnh và có mái tóc vàng, trông khá giống người Bắc Âu. Cô ấy mỉm cười với tôi, và nụ cười đó rực rỡ đến nỗi tôi suýt ngã khỏi ghế.
Tôi nhanh chóng đứng dậy. “Xin chào. Chào mừng đến văn phòng của tôi.”
Caroline giơ tay ra hiệu về phía tôi. “Đây là bác sĩ Robinson, một trong những nhà tâm lý học mới nổi tiếng nhất ở New York về trị liệu xoa dịu những nỗi đau. Chúng tôi cảm thấy rất may mắn khi có cậu ấy đồng hành.”
Cô gái trẻ tự tin sải bước về phía trước và đưa tay ra. “Tôi rất cảm kích khi anh chấp nhận lời đề nghị. Tôi là Olivia Hamilton, còn đây là Brendan Davies.”
Tôi bắt tay họ.
“Vậy tôi sẽ để cậu tự liệu nhé,” Caroline vui vẻ nói khi bà tiến ra cửa. “Hãy cho tôi biết nếu các cháu cần hỗ trợ gì thêm. Văn phòng của ta ở ngay trên lầu.”
“Cảm ơn cô rất nhiều,” Olivia nói. Sau đó, cô ấy quay trở lại đối diện với tôi một lần nữa. Chúng tôi nhìn nhau trong vài giây, và tôi để ý thấy có một vết sẹo nhỏ trên má trái, nhưng nó không làm giảm đi vẻ đẹp tự nhiên của cô. Thực sự thì nó còn điểm tô thêm nữa ấy. Trong ấn tượng của tôi, cô ấy có vẻ là người khá thích phiêu lưu.
“Bắt đầu nào.” Cô ấy nhìn quanh phòng, và mắt dừng lại ở chiếc ghế bành bọc da lớn đối diện với ghế sofa của tôi. “Đây có phải là nơi anh thường ngồi không?”
“Đúng.”
Cô ấy liếc nhìn cửa sổ và dường như đang đánh giá góc độ của ánh sáng cùng phông nền là những giá sách trên bức tường phía xa.
“Chuyển cái ghế qua đây có được không? Gần tủ sách hơn? Chúng tôi sẽ đặt nó trở lại khi chúng tôi quay xong.”
“Tất nhiên rồi. Hãy làm bất cứ điều gì mà cô nghĩ là tốt nhất.”
Cô ấy và Brendan bắt đầu sắp xếp đồ đạc, lắp đặt máy ảnh và một số bóng đèn, trong khi tôi ngồi ở bàn làm việc đọc hồ sơ. Olivia yêu cầu Brendan quay một số đoạn phim bổ trợ cảnh văn phòng và cảnh tôi đang làm việc tại bàn của mình. Rồi cô ấy nói, “tôi nghĩ chúng ta đã sẵn sàng rồi, bác sĩ Robinson.”
“Cô có thể gọi tôi là Dean,” tôi nói khi đứng dậy và đi theo cô ấy.
Cô ấy đi vòng qua đám đồ đạc. “Kịch bản sẽ như thế này,” cô ấy nói. “Tôi sẽ ngồi đối diện với anh và hỏi anh một số câu hỏi. Máy quay sẽ luôn hướng về phía anh, nhưng đừng nhìn vào ống kính. Hãy cố gắng quên nó đi. Tập trung toàn bộ sự chú ý vào tôi. Giả vờ như chỉ có hai chúng ta đang trò chuyện riêng tư.”
“Điều đó không quá khó,” tôi trả lời.
Cô ấy di chuyển đến chiếc ghế nhỏ đối diện với tôi, cách khoảng gần hai mét, ngồi xuống và bắt đầu lật giở các ghi chú của mình.
“Anh có thể bắt đầu quay bất cứ lúc nào,” Olivia nói với Brendan, người đang ở phía sau điều khiển máy ảnh trên giá ba chân. Cô ấy nhìn tôi với vẻ mặt thân thiện và nói: “Hãy bắt đầu nói về việc anh đã trở thành một nhà trị liệu như thế nào nhé. Điều gì đã thu hút anh đến với nghề này vậy?” Cô nghiêng người lại gần hơn một chút và nói với giọng điệu thân mật. “Tôi chỉ muốn trò chuyện một chút để anh có thể làm quen với máy quay và cảm thấy thoải mái khi ở bên tôi.”
“Được.” Tôi khá thích viễn cảnh được một lần đứng ở phía người tiếp nhận câu hỏi.
“Tuyệt vời.” Olivia hơi đỏ mặt và nhìn xuống ghi chú của mình. “Vậy thì hãy bắt đầu nào. Hãy nói cho tôi biết về niêm đam mê đối với tâm lý học của anh.”
Tôi đã dành vài phút đầu để mô tả quá trình học tập của mình và việc tôi đã biết ơn như thế nào khi nhận được những học bổng đã giúp mình có thể theo đuổi việc học đại học. Tôi vẫn thường cố gắng che giấu quá khứ của mình với bệnh nhân và đồng nghiệp, nhưng vì một lý do nào đó, tôi như bị cuốn vào mà bộc bạch hết mọi điều về quá trình lớn lên của mình - sự nghèo khó cùng cực và nỗi đau mất mẹ từ khi còn nhỏ.
“Cuộc đời mà anh đã trải qua thật không thể tưởng tượng nổi.” Đôi mắt xanh của cô ấy xoáy sâu vào tôi. “Tôi nghĩ những trải nghiệm như thế sẽ cho anh cái nhìn sâu sắc có giá trị về nỗi đau tinh thần mà những người khác phải trải qua.”
“Có lẽ vậy. Gần đây dì của tôi cũng mới ra đi, vậy nên...”
“Tôi rất tiếc khi nghe điều đó.”
“Cảm ơn cô.”
“Hai người có thân thiết không?”
“Rất thân thiết.”
Cô ấy không nói gì suốt một lúc lâu, rồi ân cần nhìn tôi. “Đó có phải là điều mà anh thấy đáng giá trong công việc của mình không? Giúp đỡ những người đang gặp khó khăn khác ấy?”
“Thỉnh thoảng. Nhưng thành thật mà nói, tôi nghĩ có lẽ lý do tôi bị cuốn hút vào nghề này là vì tôi muốn tìm hiểu về cách đối nhân xử thế để không lặp lại những sai lầm mà bố tôi đã mắc phải. Hoặc có lẽ tôi chỉ muốn cảm thấy như mình đã thắng một trận thua theo một cách nào đó. Rằng tôi đã có thể phá vỡ cái vòng luẩn quẩn.” Tôi kể cho cô ấy nghe về việc anh trai tôi đang ở tù và việc tôi đã may mắn đến thế nào mới thoát khỏi con đường đó.
Olivia nhìn tôi chằm chằm, rồi gật đầu, và tôi đột nhiên cảm thấy ngượng ngùng.
“Tôi xin lỗi,” tôi nói. “Có lẽ hơi quá nhiều thông tin rồi nhỉ. Chúng ta đã lãng phí bao nhiêu thước phim rồi?” Tôi khẽ cười nhìn sang Brendan.
“Không cần lo lắng về chuyện đó,” Olivia trả lời. “Tất cả đều rất tuyệt vời. Tôi có thể nghe anh nói về cuộc sống của anh cả ngày. Nhưng tôi chắc rằng anh còn có nhiều bệnh nhân cần khám, nên có lẽ chúng ta nên đi thẳng vào phần trả lời các câu hỏi phỏng vấn ngay bây giờ.” Cô ấy đột nhiên có vẻ bối rối khi nhìn xuống tập ghi chú của mình một lần nữa. “Được rồi... nếu vậy... hãy cho phép tôi hỏi anh điều này...” Cô ấy nhìn tôi chăm chú đến độ có thứ gì đó bên trong tôi bất giác động đậy. “Anh đã bao giờ điều trị cho một bệnh nhân gặp khó khăn trong việc từ bỏ người thân chưa?”
“Tôi đã điều trị cho nhiều người như vậy,” tôi trả lời. “Tất nhiên, tôi không thể tiết lộ các trường hợp cụ thể, nhưng nói chung cô muốn biết điều gì?”
Cô ấy vươn người về phía trước. “Anh có thể kể cho tôi nghe về những người tin rằng người thân của họ vẫn còn hiện diện trong cuộc sống của họ không? Như một linh hồn ấy? Điều gì khiến họ ấp ủ một ý tưởng như vậy?”
“Để tôi xem nào. Từ góc độ tâm lý, rất có thể họ đang gặp khó khăn trong việc vượt qua các giai đoạn đau buồn. Họ bị mắc kẹt trong giai đoạn phủ nhận, đó là lúc họ tiếp tục chống lại thực tế rằng người thân của họ đã thực sự ra đi. Cô có tìm hiểu về các giai đoạn của nỗi đau chưa?”
“Tôi có tìm hiểu rồi.”
“Tốt. Công việc của tôi là giúp họ vượt qua các giai đoạn đó để đạt đến sự chấp nhận. Đến sau cùng họ sẽ có thể buông tay, bước tiếp và tìm lại hạnh phúc. Kịp thời.”
“Anh đã bao giờ nghĩ đó là sự thật chưa?” Olivia hỏi. “Rằng người thân đã mất thực sự vẫn đang ở đâu đó quanh đây, và có lẽ chính họ mới là những người gặp khó khăn với việc buông bỏ?”
Tôi mỉm cười với cô ấy. “Có phải ý của cô là tôi nên chữa trị cho con ma đó không?”
Cô ấy mỉm cười và hạ ánh mắt xuống. “Nghe buồn cười nhỉ. Được rồi... cho phép tôi hỏi tiếp anh điều này, nếu anh không phiền. Anh có tin vào kiếp sau không?”
Tôi chuyển mình trên ghế. “Đây là câu hỏi mà tôi không nghĩ mình sẽ được hỏi vào hôm nay.”
Cô ấy xin lỗi và cố gắng rút lại lời vừa nói.
“Không, không sao đâu,” tôi nói. “Tôi sẽ cố gắng hết sức để trả lời câu hỏi đó.” Tôi dừng lại và suy nghĩ. “Tôi e rằng mình không thể đưa ra câu trả lời chắc chắn, bởi không có bằng chứng khoa học xác thực nào cho chuyện đó, vì vậy...” Tôi nhìn cô ấy với vẻ hối lỗi. “Tôi xin lỗi. Câu trả lời này không hữu ích lắm cho bộ phim của cô, phải không?”
Có thật là bộ phim của cô ấy đang làm về nỗi đau không? Tôi tự hỏi.
“Ổn mà,” cô nói. “Tôi hiểu những gì anh đang nói. Thay vào đó, chúng ta nói về những giấc mơ thì sao nhỉ? Chúng có vẻ rất thật. Anh có gì có thể chia sẻ với tôi về những bệnh nhân tin rằng người thân của họ đang đến thăm họ trong giấc ngủ không?”
“Thực ra đó là chuyện rất thường xảy ra,” tôi trả lời, cảm thấy nhẹ nhõm khi được quay trở lại vùng đất quen thuộc. “Vấn đề này đã được nghiên cứu rộng rãi. Những giấc mơ kiểu đó có khả năng xoa dịu và an ủi người nằm mơ, đặc biệt khi người thân đã khuất của họ trong mơ không còn bệnh tật hoặc trẻ lại. Nhưng đôi khi chúng có thể gây phiền nhiễu. Dù thế nào thì chúng cũng thường có tác động đến quá trình đau buồn, khiến nỗi buồn trầm trọng hơn hoặc mang đến sự chữa lành. Cả hai trạng thái đó cuối cùng đều sẽ đưa tang quyến đến gần hơn với giai đoạn chấp nhận sự ra đi của người thân.”
Olivia nhìn tôi một lúc rồi nghiêng đầu. “Anh có bao giờ mơ thấy người dì vừa mới qua đời không?”
Câu hỏi đó khiến tôi khựng lại và phải suy ngẫm về cuộc sống của mình trong vài tháng qua. “Kỳ lạ thay, tôi không hề mơ thấy bà ấy.”
Điều này thật đáng ngạc nhiên khi xét đến tất cả những căng thẳng mà gần đây tôi phải trải qua; tôi thấy mình dần tự vấn và nghĩ về việc tôi đã bị những cảm xúc phức tạp và khó hiểu về Melanie lấn át đến thế nào. Gần đây, tôi như đi trên một chuyến tàu lượn siêu tốc với nhiều cảm xúc - lúc đầu là ham muốn, sau đó là cảm giác tội lỗi, xấu hổ, hối hận và luôn lo lắng mối quan hệ của chúng tôi sẽ bị phát hiện. Tôi đã không thường nghĩ về dì Lynn.
“Theo thống kê,” tôi nói, “chỉ khoảng sáu mươi phần trăm tang quyến trải qua những giấc mơ sống động về người thân đã mất, và điều đó có thể liên quan đến thực tế là chúng ta chỉ nhớ được năm phần trăm giấc mơ của mình vào ban đêm. Vì vậy, có lẽ tôi cũng đã mơ về dì ấy. Chỉ là tôi không nhớ thôi.”
Olivia gật đầu và xem lại những ghi chép của mình. “Anh có thể cho tôi biết bất cứ điều gì về những giấc mơ tiên tri liên quan đến cái chết của một người thân yêu không?”
“Chính xác thì ý cô là gì?”
Cô ấy ngồi thẳng trở lại và cố gắng giải thích. “Đây chỉ là một trong nhiều ví dụ, nhưng tôi từng đọc về một người phụ nữ đang ngủ trưa thì mơ thấy em gái đập cửa và hét tên mình. Cô ấy tỉnh dậy và chạy ra cửa, nhưng không có ai ở đó cả. Một giờ sau, em rễ của cô ấy gọi điện nói rằng em gái cô ấy vừa lên cơn đau tim ở trung tâm mua sắm và qua đời.”
Tôi gật đầu. “Tôi cũng đã đọc lời kể của những người có trải nghiệm như vậy.”
“Và anh lý giải nó như thế nào?” Cô ấy nhấn mạnh.
Tôi xem xét vấn đề này một lúc. “Hãy nghĩ thế này. Chỉ có chưa đến năm tỷ người trên thế giới này và mỗi năm có hàng triệu người chết. Những giác mơ như thế luôn xảy ra, nhưng không phải lúc nào cũng có người qua đời. Khả năng hai sự kiện đó xảy ra trong cùng một ngày không hiếm.”
“Vậy tức là anh nghĩ rằng đây chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.”
“Có lẽ thế.”
Cô ấy nhìn tôi chăm chú. “Bệnh nhân có bao giờ thất vọng vì anh không tin họ không? Hoặc gợi ý anh nên có một suy nghĩ cởi mở hơn?”
“Thực tế là khá thường xuyên đấy,” tôi trả lời. “Nhưng cô đã bao giờ nghe được rằng nếu cô mở mang đầu óc quá nhiều, não của cô có thể rơi ra ngoài chưa?”
Cô ấy ngửa đầu ra sau và cười, trong khi Brendan cúi xuống máy quay để kiểm tra tiêu cự và đảm bảo rằng anh ấy đã bắt được cảnh đó.
Tiếp theo, Olivia hỏi tôi về những ảo ảnh cuối đời, nơi những người ở nhà an dưỡng cuối đời nói rằng họ đã nhìn thấy những người thân yêu đã qua đời của họ xuất hiện trong phòng. “Đôi khi nó xảy ra cách vài tuần hoặc thậm chí vài tháng trước khi chết,” Olivia nói. “Anh có tin rằng đây thực sự là một chuyến viếng thăm của một người đã khuất, hay là một điều gì khác?”
Tôi hít sâu rồi thở ra. “Theo ý kiến chuyên môn của tôi, thuật ngữ dùng để chỉ hiện tượng này đã nói lên tất cả. Đó chỉ là ảo ảnh của người thân yêu. Một cái gì đó bắt nguồn từ trí tưởng tượng của một người như một cơ chế giúp họ đối phó với nỗi sợ chết.”
“Thú vị,” Olivia nói. Cô ấy hỏi tôi thêm một số câu hỏi nữa về những phương pháp trị liệu mà tôi sử dụng để giúp bệnh nhân vượt qua đau buồn, sau đó nhìn Brendan và nói, “Anh đã có mọi thứ chưa?”
“Rồi. Đã có tất cả.”
“Tuyệt vời. Chà, tôi nghĩ vừa rồi là tất cả những gì tôi muốn hỏi anh.” Olivia đóng cặp lại và đứng dậy. “Tôi không biết làm thế nào mới có thể cảm ơn đủ. Hôm nay thực sự tuyệt vời.”
“Cô chắc không?” Tôi hỏi khi đứng dậy. “Có thể cô đang tìm kiếm điều gì đó thuyết phục hơn hoặc truyền cảm hứng hơn về sự sống và cái chết và những gì nằm ngoài đó.”
“Không, không hề,” cô đáp. “Không phải từ anh. Điều tôi tìm kiếm ngày hôm nay là cách tiếp cận khoa học có cơ sở hơn đối với chủ đề mất người thân. Tôi đã phỏng vấn rất nhiều nhà ngoại cảm, thầy đồng và những người nói rằng họ đã nhìn thấy một đám khói màu hồng trên giường của họ sau khi trở về nhà từ một đám tang. Anh đã cho tôi chính xác những gì tôi cần để cân bằng nó.”
“À!” Tôi thấy nhẹ nhõm. “Thật tuyệt khi được nghe về nó. Tôi rất thích chủ đề này.”
“Tôi rất vui.” Olivia liếc nhìn đồng hồ. “Chúng tôi sẽ không mất nhiều thời gian để thu dọn chỗ thiết bị này và rời khỏi đây đâu. Anh còn phải gặp nhiều bệnh nhân hôm nay không?”
“Không,” tôi trả lời. “Tiến sĩ Weaver đã hủy tất cả các cuộc hẹn buổi chiều của tôi, vậy nên cô không cần vội. Tôi có thể giúp gì cho cô không?”
“Cảm ơn anh, nhưng chúng tôi tự làm được.”
Trong khi cô ấy và Brendan thu dọn máy ảnh, đèn và chuyển đồ đạc về chỗ cũ, tôi đã hỏi cô ấy về bộ phim. “Cô dự kiến bao giờ hoàn thành?”
“Nó sẽ chiếm phần lớn số điểm của tôi trong học kỳ này, vì vậy tôi sẽ phải nộp sản phẩm cuối cùng trong vòng vài tuần nữa. Tôi đang là sinh viên năm cuối.”
“Cô sắp tốt nghiệp ư?”
“Đúng vậy. Sau đó, tôi sẽ bước vào thế giới làm phim độc lập.”
“Cô sẽ tiếp tục làm phim tài liệu chứ?” Tôi hỏi.
“Tôi không chắc. Tôi nhận được một lời mời làm việc từ một hãng phim ở LA, nhưng họ chủ yếu làm về truyền hình, và thành thật mà nói, tôi không muốn chuyển đến miền Tây. Tôi vẫn còn thời gian để tìm hiểu mọi thứ. Tôi mới hai mươi bốn tuổi. Hiện tại, tôi muốn duy trì sự độc lập và tự do sáng tạo với các dự án do chính mình lựa chọn.”
Nếu là bất kỳ ai khác, tôi sẽ nói, Đôi khi cô sẽ phải hy sinh một chút để kiếm đủ tiền chi trả các hóa đơn, nhưng tôi không nghĩ tiền là vấn đề đối với cô ấy.
Olivia và Brendan thu dọn đồ đạc xong và đi ra cửa.
“Một lần nữa, cảm ơn anh,” Olivia nói.
Chúng tôi bắt tay nhau ngoài hành lang, và tôi cảm nhận được hơi ấm từ bàn tay cô ấy trong tay tôi. Tôi chợt thấy hối tiếc khi nhận ra mình không thể tự do theo đuổi cô gái này sau ngày hôm nay. Tôi bị mắc kẹt trong suy nghĩ về điều sai trái về mặt đạo đức mà tôi đã làm khi dính dáng đến Melanie. Nhưng Olivia đang nhìn tôi bằng ánh mắt ngưỡng mộ, như thể tôi hơn cô ấy cả về tri thức lẫn kinh nghiệm sống.
Tôi chưa bao giờ thấy mình giống một kẻ lừa đảo như bây giờ.
“Tạm biệt,” cô ấy nói, và tôi đóng cửa lại, trở về bàn làm việc, ngồi phịch xuống ghế và nhìn chằm chằm lên trần nhà.
Điều gì đã xảy đến với tôi vậy? Tôi buồn bã tự hỏi. Liệu hành vi phi đạo đức của tôi với tư cách là một bác sĩ trị liệu có bị phát hiện nếu Melanie tiếp tục cảm thấy không vui hoặc không được yêu thương không? Làm sao tôi có thể ngăn chặn kết cục đó nếu không liên tục thực hiện những cử chỉ cao thượng để chứng minh với cô ấy rằng mọi thứ đều như cô ấy mơ ước - rằng tôi sẽ yêu cô ấy mãi mãi và không bao giờ rời xa cô ấy. Gần đây, sự bất an ngày càng tăng của cô ấy đã trở thành một thứ vô cùng rắc rối, và hành vi của Melanie cho thấy không gì có thể khiến cô ấy hài lòng ngoài một lời cầu hôn, ngay cả khi phải kéo dài thời gian đính hôn để tránh bị hội đồng kỷ luật xử phạt. Melanie dường như chỉ hạnh phúc khi tôi dành cho cô ấy tình cảm và ham muốn, điều này ban đầu đến một cách tự nhiên khi mọi thứ đều mới mẻ và thú vị, nhưng gần đây tôi đã nhận thức được về sự sai trái của những điều chúng tôi đã làm, và tôi sợ rằng mình không thể tiếp tục trò chơi sai trái của những đam mê ban đầu này nữa.
Điện thoại của tôi reo lên ngay lúc tôi vẫn còn đang miên man suy nghĩ, và bụng tôi thắt lại khi biết đó chắc chắn là Melanie, cô ấy gọi để hỏi tại sao tôi lại quên gọi điện cho cô ấy trong giờ ăn trưa. Với nỗi sợ hãi thắt chặt trong lòng, tôi bắt máy rồi trả lời, “Alo, bác sĩ Robinson xin nghe.”
“Chào anh.”
Là giọng của một phụ nữ. Nhưng không phải Melanie, mà là Olivia Hamilton.