← Quay lại trang sách

Chương 24 -OLIVIA

Đây không phải là một buổi hẹn hò, tôi đã tự nhủ như vậy khi Gabriel gõ cửa nhà tôi lúc 7 giờ tối. Tôi đã đưa Rose đến căn hộ của mẹ từ đầu giờ chiều để mình có thời gian nhàn nhã tắm rửa và trang điểm. Tôi không muốn mình trông có vẻ quá gồng, vậy nên tôi chọn quần dài và giày đế bằng với áo lụa trơn, dù vẫn phối thêm một chiếc vòng cổ và một đôi khuyên tai dạng vòng.

“Chào anh. Vào nhà một chút đã nhé,” tôi nói, lùi lại để anh có thể bước vào trong. “Em lấy ví và áo khoác nữa là xong thôi.”

Gabriel bước vào và vỗ về Ziggy, nó nghe thấy tiếng là đã chạy lon ton ra cửa. “Nhà đẹp đấy.”

“Cảm ơn. Anh không biết một giờ trước nó trông như thế nào đâu. Nhìn chỗ nào cũng thấy đồ chơi, đồ chơi, đồ chơi.”

“Tiếc quá, anh đã bỏ lỡ rồi.” Anh kiên nhẫn chờ đợi trong khi tôi mặc áo khoác và nhìn Ziggy xoay vòng trên ổ của nó trong phòng khách trước khi nằm xuống. Sau đó, Gabriel và tôi cùng ra thang máy.

“Anh rất vui khi chúng ta có thể cùng đi với nhau thế này,” anh nói khi nhấn nút xuống. “Và nói thật thì anh cũng rất bất ngờ đấy. Anh cứ sợ em sẽ thay đối quyết định vào phút chót.”

“Em cũng sợ vậy đấy. Nhưng chúng ta đang ở đây rồi này. Bây giờ là 7 giờ, và chúng ta đã về đích hoàn hảo.”

“Hoặc ít nhất là cũng rời khỏi vạch xuất phát,” anh trả lời và nở một nụ cười.

Chúng tôi nói hết chuyện này đến chuyện khác khi đi thang máy xuống và bước ra khỏi tòa nhà. Một buổi tối tháng Sáu đẹp trời, ẩm ướt nhưng mát mẻ. Tôi ngửi thấy hương thơm của hoa tử đinh hương trong khu vườn trước nhà ai đó và đã dừng lại để hái một bông hoa tươi. “Thật đáng yêu.”

“Mùi hoa tử đinh hương luôn nhắc anh nhớ về thời thơ ấu của mình,” Gabriel nói.

“Ngôi nhà ở Connecticut? Với lũ thỏ?”

“Chính nó.”

Chúng tôi lại cùng nhau dạo bộ.

“Đó là một ngôi nhà tuyệt vời,” tôi nói. “Em thích đến đó lắm. Anh có tiếc vì bố mẹ anh đã bán nó không?”

“Thỉnh thoảng cũng có. Nhưng anh vẫn mừng vì bây giờ họ sống trong một ngôi nhà nhỏ hơn. Dễ bảo trì hơn.”

Tôi quay sang nhìn anh và mỉm cười. “Anh có biết mẹ anh đã gửi cho em một món quà khi Rose chào đời không? Một chiếc váy nhung nhỏ xinh, màu xanh viền ren trắng đáng yêu. Con bé đã mặc nó vào ngày sinh nhật đầu tiên của mình.”

“Đúng kiểu của mẹ anh,” Gabriel nói.

Chúng tôi tiếp tục trò chuyện trong lúc đi bộ qua sáu dãy nhà đến một nhà hàng Hy Lạp mà tôi chưa từng đến trước đây. Bên trong, những bức tường được sơn màu trắng với đường viền màu xanh sáng, và sàn lát đá phiến. Bà chủ nhà hàng dẫn chúng tôi đến bàn của mình ở khu phía sau, nép mình dưới một cây ô-liu giả. Những ngọn đèn nhỏ trên trần nhà sơn đen lấp lánh như những vì sao.

Gabriel kéo ghế ra cho tôi. “Xin lỗi em nhé,” anh nói. “Anh không biết là nơi này lại lãng mạn đến vậy. Xin hãy bỏ qua cho anh.”

Tôi bật cười. “Anh không phải xin lỗi đâu. Nơi này thật kỳ diệu. Em cảm thấy như mình đang ngồi bên một hàng hiên ở Santorini.”

Người phục vụ đến hỏi chúng tôi muốn dùng đồ uống gì, và Gabriel đã chọn một chai rượu vang đỏ từ Zakynthos. Sau đó, chúng tôi đã cùng nhau hồi tưởng lại chuyến đi châu Âu sau năm thứ nhất đại học, chúng tôi đã cùng bạn bè xách ba lô lên rong ruổi từ Pháp, đến Áo rồi sang Đức.

“Hồi đó chúng ta thân nhau thật,” tôi nói, vẫn nhớ mình và Gabriel đã trở thành một cặp vào mùa hè năm đó. Cuộc trò chuyện hôm nay thật thú vị.

Rượu của chúng tôi được mang lên, và chúng tôi dừng câu chuyện đang dở để xem qua thực đơn. Chúng tôi bắt đầu với một đĩa khai vị gồm rau củ nướng, Halloumi, ô-liu và bánh mì nướng giòn. Sau đó, tôi gọi món pastitsio ăn kèm salad Hy Lạp, còn Gabriel gọi cá bơn.

“Nơi này đúng là thiên đường,” tôi thở dài nói. “Anh không biết đâu. Em vô cùng biết ơn đấy.”

“Vinh hạnh cho anh quá. Thật đấy.”

Trong mắt anh ánh lên một tia trìu mến và tôi cảm thấy hơi khó chịu - có lẽ vì cuộc gặp hôm nay khiến tôi có cảm giác như tôi và anh vẫn là một cặp đôi “gà bông” yêu nhau hết lòng và cùng đi chung một con đường. Tôi chợt nhớ ra một chuyện mà tôi đã từng nói với Dean - rằng mối tình đầu của tôi là một gã trai hư ở trường trung học, kẻ suốt ngày phì phèo thuốc lá và lừa dối tôi. Đó thực ra là một lời nói dối trắng trợn. Gabriel là tình yêu đích thực đầu tiên của tôi, nhưng tôi không muốn Dean cảm thấy bất an sau khi tôi đưa anh ấy đến quán cà phê để xem Gabriel chơi nhạc.

Món khai vị của chúng tôi được mang lên, chúng tôi tiếp tục trò chuyện về công việc hiện tại của Gabriel, một giáo viên âm nhạc kiêm chỉ huy dàn nhạc của trường, rồi anh hỏi tôi có bao giờ nghĩ đến việc làm phim không, đó tứng là niềm đam mê thời trẻ của tôi.

“Khi còn đi học, nếu ai đó nói với em rằng em sẽ từ bỏ sự nghiệp điện ảnh sau khi tốt nghiệp, em không tin đâu.”

“Vậy tại sao em lại từ bỏ?” Anh hỏi.

Tôi nhúng một miếng bánh mì giòn vào xốt hummus[1], nhún vai rồi đáp:

“Sau khi em rời New York, có những thứ khác quan trọng hơn đối với em. Tất cả những gì em muốn làm lúc đó là hỗ trợ Dean phát triển sự nghiệp mới của anh ấy. Thật không dễ dàng khi anh ấy phải bắt đầu lại từ con số không. Nhưng đó là điều đúng đắn mà em nên làm. Hoặc đáng lẽ đã là như vậy nếu anh ấy không... anh biết đấy.”

“Anh thật sự ngưỡng mộ anh ấy,” Gabriel nói, với tay lấy ô-liu. “Sau bao nhiêu năm trời học tập để trở thành một bác sĩ trị liệu... anh ấy vẫn dám bỏ lại hết tất cả để theo đuổi giấc mơ thuở bé... chắc hẳn phải có nhiều dũng khí lắm mới đi đến quyết định như vậy.”

“Đúng thế,” tôi vừa trả lời vừa hồi tưởng lại những đêm Dean tỉnh dậy sau những cơn ác mộng về những buổi điều trị với những bệnh nhân bị ngược đãi hoặc đang có nguy cơ làm những điều tồi tệ.

“Anh ấy từng rất khó khăn mới buông bỏ được,” tôi nói thêm. “Anh ấy ghét việc bỏ rơi khách hàng của mình khi nhiều người trong số họ phụ thuộc vào anh ấy.”

Gabriel gật đầu thấu hiểu.

“Em xin lỗi,” tôi nói, ngả người tựa vào lưng ghế. “Chắc chắn là anh không mời em đi ăn tối để nghe em nói về người chồng quá cố của mình.”

“Không sao cả. Anh ấy là một phần quan trọng trong cuộc đời em, mất đi anh ấy chắc hẳn rất khó khăn. Anh thậm chí còn không thể tưởng tượng được chuyện như vậy có thể xảy ra.”

Tôi ngồi thẳng dậy. “Cảm ơn anh nhé.”

Gabriel nhấc ly rượu lên và nhấp một ngụm. “Em có muốn kể cho anh nghe chuyện đã xảy ra đêm đó không? Thời điểm mà chồng em biến mất?”

Bất ngờ là tôi cũng đang muốn nói về nó. Thế là tôi kể cho Gabriel nghe mọi chuyện, bắt đầu từ cuộc tranh cãi giữa Dean và tôi trong căn hộ trước khi anh ấy rời đi và kết thúc bằng cuộc điện thoại đêm khuya làm đảo lộn cả thế giới của tôi. Tôi cũng thừa nhận mình đã lái xe một quãng đường dài bằng nửa bang Florida để đến gặp một người đàn ông tin rằng những vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh là nguyên nhân dẫn đến tất cả các vụ mất tích tàu và máy bay ở Tam giác Quỷ Bermuda.

“Khi em mang thai Rose,” tôi nói, “em đã không thể ngừng đọc các báo cáo điều tra tai nạn. Đó là tất cả những gì em làm trong suốt nhiều tuần. Em không biết chính xác mình đang tìm kiếm cái gì nữa. Có lẽ là bằng khoa học giải thích tại sao la bàn của anh ấy lại xoay vòng vòng hoặc tại sao lại có nhiều phi công tận mắt nhìn thấy những màn sương mù kỳ lạ. Em đã ước có một cuốn sách viết về nó tồn tại, nhưng em chưa bao giờ tìm thấy bất cứ thứ gì giống vậy. Chỉ có những bài báo giật gân trên những trang tin lá cải được bày bán ở các cửa hàng tạp hóa thôi.”

Tôi nhấp một ngụm rượu và ăn một miếng thức ăn.

“Rồi một đêm,” tôi tiếp tục kể, “khi em cảm thấy Rose đá vào bụng mình, em đã nghĩ có phải con bé đang cố nói với em điều gì đó không - rằng em nên ngừng ám ảnh về sự biến mất của Dean và tập trung nghĩ đến việc trở thành một người mẹ. Đó cũng là lúc em nhận ra mình chỉ có một thân một mình ở Miami, và em quyết định quay trở lại New York sống cùng mẹ một thời gian. Hóa ra đó lại là một quyết định đúng. Kéo em trở lại với thực tại. Đưa em ra khỏi cuộc sống chỉ có em và Dean ở Florida.”

“Em có từng quay trở lại đó sau khi chuyển về đây không?” Gabriel hỏi.

“Chỉ có một lần duy nhất,” tôi trả lời, “về dự sinh nhật của bà em vào mùa thu năm ngoái. Cảm giác bước vào căn hộ cũ của chúng em sau một khoảng thời gian thật dài lạ lắm. Thực sự rất đau buồn.”

“Anh rất tiếc.”

Tôi cầm ly rượu lên và cố tỏ ra thoải mái. “Anh đâu thể làm gì khác chứ? Mẹ em đang muốn bán căn hộ đó và mua một căn hộ mới trong một tòa nhà khác. Có lẽ đã đến lúc em nên để mẹ làm vậy rồi.”

Gabriel đặt dĩa xuống và đẩy đĩa sang một bên.

“Anh dùng bữa xong rồi ư?” Tôi hỏi.

“Ừ.”

Tôi quan sát anh một lúc rồi nói. “Anh không hối hận khi hỏi em về Dean đó chứ? Có lẽ cứ hồi tưởng mấy chuyện xưa của chúng ta lại vui hơn.”

“Không sao đâu,” anh đáp. “Anh không hối hận. Anh rất vui vì em đã nói với anh tất cả vì anh lo cho em rất nhiều. Tất cả mọi người đều lo lắng cho em. Chuyện đó xuất hiện ở mọi bản tin và chương trình truyền hình. Chắc hẳn nó đã là một cơn ác mộng đối với em.”

“Đúng vậy. Chuyện còn liên quan đến một ngôi sao nhạc rock, nên cứ đến cửa hàng tạp hóa là lại nhìn thấy ảnh của Dean và chiếc máy bay trên báo. Có rất nhiều suy đoán xoay quanh, thậm chí có nhiều người nghi ngờ chuyện này dính dáng đến cả ma túy. Em không muốn nghĩ đến nữa.”

“Ôi không,” Gabriel thốt lên, tỏ vẻ đồng tình với tôi. “Tưởng tượng thôi đã thấy kinh khủng rồi.”

Người phục vụ đến và dọn dẹp đĩa ăn của chúng tôi, sau đó chúng tôi gọi cà phê. Trong lúc chờ đợi, tôi vươn người về phía trước, đặt tay lên bàn, rồi bảo, “Thôi đừng nói về Dean nữa. Hãy kể cho em nghe về vở nhạc kịch mà anh đang chỉ đạo đi.”

“Thực ra thì anh đang định thế đấy,” Gabriel nói, cũng rướn người về phía trước. “Vở nhạc kịch sẽ được biểu diễn vào cuối tuần sau, em có thể dẫn Rose theo. Sẽ có một buổi biểu diễn dành cho trẻ em vào chiều thứ Bảy. Đưa cả mẹ em tới, và nếu Rachel muốn mang con gái theo thì cũng mời luôn cả cô ấy nhé.”

“Nghe có vẻ sẽ rất vui đây.”

“Chúng ta có thể ghé nhà anh trên đường về,” Gabriel nói, “và anh sẽ đưa vé cho em.”

Thời gian còn lại, chúng tôi trò chuyện về tình hình giáo dục và chính trị của bang. Thật thoải mái khi được nhâm nhi tách cà phê trong lúc thảo luận về những vấn đề của người trưởng thành.

*

Cuối tuần sau đó, chúng tôi đã đến xem vở nhạc kịch Cinderella. Khán phòng của trường trung học đầy ắp những đứa trẻ đang gào khóc và những đứa trẻ mới biết đi ồn ào, không thể yên ổn dù chỉ một giây, nhưng Gabriel vẫn bình tĩnh điều khiển tất cả. Có lúc anh còn cử cả những “chú chuột” từ dàn hợp xướng xuống lối đi để nhảy cùng những em nhỏ nữa.

Sau khi thưởng thức hai màn diễn đầy hào hứng, chúng tôi đợi ở tiền sảnh đang chật ních người để chúc mừng anh. Khi cuối cùng anh cũng bước ra được từ hậu trường, Rose và Amelia đã ngủ quên trong xe đẩy của chúng, còn mẹ tôi thì đang sốt sắng muốn uống một ly martini khô.

“Anh làm tốt lắm,” tôi nhiệt tình nói khi anh tiến lại gần.

Rachel ôm lấy anh. “Thật không thể tin được, Gabriel. Amelia thích lắm. Nhìn con bé xem. Con bé đã chết ngất khi hoàng tử đi ngang qua vài phút trước, còn bây giờ thì ngất đi vì lạnh rồi.”

Gabriel cười. “Thật vui khi mọi người đều thích cả. Bọn nhỏ đã diễn rất xuất sắc, phải không?”

“Chắc chắn rồi,” mẹ tôi thổn thức. “Còn cậu bé đóng vai hoàng tử nữa? Giọng của cậu bé mới hay làm sao. Một ngày nào đó cậu nhóc sẽ đặt được cúp Tony[2] lên trên lò sưởi nhà mình, hãy nhớ lời mẹ nói. Cháu làm tốt lắm, Gabriel.”

“Cảm ơn cô Liz.” Anh bước tới và hôn lên má mẹ tôi.

“Nhân tiện,” mẹ tôi nói tiếp, “tối nay mọi người có kế hoạch dùng bữa tối chưa? Gabriel, cháu có rảnh không? Rachel? Anh chồng quyến rũ của cháu có bận gì không?”

“Chúng cháu không có kế hoạch gì ạ,” Rachel trả lời.

“Vậy thì tất cả chúng ta có thể tụ họp ăn mì ống ở nhà của cô. Hai đứa nhỏ có thể mang đồ ngủ theo và ngủ trên giường của cô.” Bà quay sang Gabriel rồi nói tiếp, “Hãy nói rằng cháu sẽ đến đi. Cô sẽ nhờ Maria chuẩn bị món mì hải sản, món mà cháu thích nhất, nếu cô nhớ không nhầm.”

“Cháu sẽ phát điên mất nếu bỏ qua món mì hải sản của Maria,” Gabriel trả lời.

Mẹ tôi vòng tay qua eo anh. “Cháu thật đáng yêu.”

Một gia đình đến bắt tay Gabriel và thảo luận về lớp học âm nhạc, vì vậy chúng tôi chào tạm biệt và đẩy xe đẩy về phía lối ra. Tôi không biết tại sao, nhưng khi chúng tôi đến cửa, tôi đã quay lại nhìn anh. Anh cũng nhìn tôi, và chúng tôi nhìn nhau một lúc trước khi tôi bước ra khỏi trường, phải nheo mắt vì ánh nắng chói chang bên ngoài.

*

Theo yêu cầu của mẹ tôi, Gabriel và Thomas đã mang nhạc cụ của họ đến bữa tiệc tối. Gabriel cũng mang maracas và trống lục lạc đến cho hai đứa nhỏ, anh đã đưa chúng cho Rachel và tôi ngay khi bước vào nhà.

“Máy tạo tiếng ồn đây rồi,” Rachel cười nói, nghiêng đầu về phía tôi. “Có lẽ chúng ta nên giấu những thứ này cho đến sau bữa tối?”

“Kế hoạch hay đấy. Dù vậy, cũng vẫn cảm ơn anh vì đã mang chúng đến,” tôi nói với Gabriel. “Sẽ rất vui đây.”

Mùi hải sản và kem thoang thoảng trong không khí, và mẹ tôi chào đón Gabriel bằng một nụ hôn lên má. Bà khoác tay anh và dẫn anh vào phòng khách.

Rachel thì thầm vào tai tôi. “Cậu có nhận ra mẹ cậu sẽ đánh đổi bất cứ điều gì để hai cậu quay lại với nhau không? Và Gabriel trông cực kỳ ổn trong chiếc áo sơ mi đen đó.”

Tôi huých cô ấy. “Cậu lại bắt đầu rồi đấy.”

Chúng tôi đi theo họ vào phòng khách, Rose và Amelia đang ngồi trên sàn với Thomas, nghịch chiếc đồng hồ đồ chơi có nhạc. Ngay khi Rose phát hiện ra Gabriel, con bé đã đứng dậy, chạy đến chỗ anh và đưa búp bê Barney của mình cho anh.

“Xin chào, Barney,” anh nói, quỳ xuống. “Và xin chào, Rose. Cháu có khỏe không?”

“Khỏe ạ.” Con bé nắm lấy ngón tay cái của Gabriel bằng bàn tay nhỏ xíu rồi kéo anh về phía cây đàn piano lớn của mẹ tôi.

“Ôi trời,” tôi nói với Rachel. “Tớ nên đi cứu anh ấy.”

Rachel siết chặt cánh tay tôi. “Không, đừng. Cậu ấy sẽ ổn thôi.”

Gabriel bế Rose dưới cánh tay, nhẹ nhàng đặt con bé lên băng ghế đàn piano, ngồi xuống bên cạnh và chơi bài “Twinkle, Twinkle, Little Star.” Con gái tôi cố gắng chơi được một vài nốt nhạc, còn anh cũng cố gắng đệm theo. Thật vui khi thấy anh và con gái tôi như vậy.

*

Ngày hôm sau, Rachel và tôi đưa Rose và Amelia đến sân chơi.

“Tối qua vui nhỉ,” Rachel nói khi đẩy Amelia vào chiếc xích đu trẻ em. “Thomas và Gabriel chắc chắn rất tâm đầu ý hợp.”

Sau khi các con gái của chúng tôi say ngủ trong phòng của mẹ tôi, Gabriel và Thomas đã bố trí nhạc cụ của họ và chơi những bản nhạc jazz cổ điển cho đến nửa đêm.

“Họ có vẻ kết hợp rất ăn ý,” tôi trả lời. “Mẹ rất thích đấy.”

“Còn cậu thì sao? Cậu có thích không?”

Tôi liếc cô ấy một cái. “Tất nhiên rồi. Tiếng saxophone của Gabriel rất...”

“Gợi cảm?”

Tôi bật cười. “Được rồi, cứ cho là như vậy đi.”

Rose hét lên, “Nhanh hơn nữa ạ!”

“Tại sao người đàn ông đó vẫn còn độc thân nhỉ?” Rachel hỏi. “Tớ rất muốn biết đấy.”

Tôi đẩy Rose trên xích đu mạnh hơn. “Tớ không biết, nhưng tớ phải thừa nhận... Tớ cảm thấy không đúng lắm, tớ đang vui vẻ quá mức.”

“Để tớ đoán nhé. Cậu cảm thấy không chung thủy với Dean phải không?”

“Đúng vậy. Tớ biết điều đó thật điên rồ, vì anh ấy không có ở đây, nhưng tớ vẫn cảm thấy như mình đang phản bội khi để con gái của chúng tớ ngồi chơi piano với bạn trai cũ. Và khi tớ nhìn họ chơi maracas sau bữa tối, tớ đã có cảm giác...” Tôi dừng lại.

“Cảm giác gì cơ?”

“Tớ không biết. Mê mẩn ư? Như thế là sai trái phải không?”

Rachel đẩy Amelia vài lần và có vẻ ngập ngừng không biết phải nói gì tiếp theo. “Cậu biết không, tớ cảm thấy rất tò mò khi cậu luôn nói về Dean như thể anh ấy đang đi xa hoặc chỉ bị lạc ở đâu đó. Cậu không bao giờ sử dụng từ đã chết hay đã mất.”

“Tớ biết.”

Cô ấy nhìn tôi. “Có phải cậu tin như thế không? Cậu tin anh ấy vẫn có thể trở về nhà? Và đó là lý do cậu không cảm thấy mình có thể có tình cảm với người đàn ông khác?”

Tôi suy nghĩ về điều đó một lúc. “Mẹ nghĩ tớ nên gặp bác sĩ trị liệu để họ giúp tớ chấp nhận rằng anh ấy đã ra đi. Buồn cười nhỉ. Đó từng là công việc của Dean, anh ấy giúp mọi người vượt qua nỗi đau buồn. Có lẽ đó là lý do tại sao tớ không thấy làm vậy là cần thiết. Tớ đã làm một bộ phim tài liệu về chính chủ đề này, vì vậy tớ hiểu chuyện gì đang diễn ra ở đây. Tớ không thể chấp nhận vì tớ chưa nhìn thấy xác anh ấy và trong lòng tớ vẫn đang không ngừng phủ nhận. Tớ không biết bác sĩ trị liệu sẽ làm cách nào để thay đổi tình hình này. Trừ khi họ có thể xác định được vị trí xác máy bay rơi.”

“Có lẽ cậu chỉ cần mở lòng yêu một lần nữa thôi,” Rachel khuyên nhủ. “Mà có khi tình yêu đang dần nảy nở rồi.”

Tôi lắc đầu. “Không đâu. Tớ chưa sẵn sàng.”

“Cậu nói cậu chưa sẵn sàng, nhưng cậu cũng nói rằng cậu đã bị mê hoặc trước cảnh Gabriel chơi maracas với Rose tối qua.”

“Phải, nhưng tớ không nghĩ mình mê mẫn Gabriel. Tớ chỉ đang mơ về hình ảnh người cha bên cạnh con gái mình thôi. Nếu Dean bước vào sân chơi ngay bây giờ, vấn đề sẽ được giải quyết.”

“Nhưng Dean sẽ không quay lại,” Rachel nhắc nhở tôi. “Không bao giờ. Vì vậy, nếu cậu muốn Rose có bố, cậu cần cân nhắc lựa chọn một người thực sự tồn tại.” Rachel thả chậm xích đu của Amelia. “Muốn xuống chưa?” Cô ấy hỏi.

“Rồi ạ!”

Chúng tôi dừng cả hai chiếc xích đu, nhấc các thanh an toàn lên và đặt con gái xuống đất. Rose lao về phía cầu trượt dành cho trẻ em, tất cả chúng tôi theo sau con bé.

“Tớ hiểu là cậu chỉ đang cố giúp đỡ tớ thôi,” tôi nói với Rachel khi chúng tôi giúp hai đứa nhỏ leo lên cầu trượt và đón chúng khi chúng trượt xuống. “Bởi cậu muốn tớ được hạnh phúc, và tớ cũng muốn điều đó. Nhưng Gabriel và tớ chỉ là bạn, tớ không muốn phá hỏng điều đó, khiến anh ấy hiểu lầm là tớ thích anh ấy và rồi lại làm anh ấy tổn thương.”

“Tớ hiểu rồi.” Cô ấy thở dài bất lực. “Đừng quên rằng cậu ấy vẫn còn độc thân, nhưng sẽ không lâu đâu, vì vậy đừng coi việc cậu ấy sẽ chờ đợi là mãi mãi.”

“Tớ không muốn anh ấy chờ đợi,” tôi nhấn mạnh. “Trước đây từng xảy ra chuyện này rồi, và tớ đã cảm thấy cực kỳ tồi tệ trong suốt nhiều năm.”

Rachel lắc đầu với tôi. “Không cãi nổi cậu đúng không?”

“Không phải chuyện đó. Tớ sẽ sẵn sàng khi tớ sẵn sàng, và chắc chắn không phải bây giờ. Chuyện gì đến sẽ đến thôi.”

Cô ấy lại giúp Amelia lên thang. “Đôi khi tớ nghĩ chỉ có Chúa mới khiến cậu cho phép một người đàn ông khác bước vào cuộc đời mình.”

“Có lẽ thế,” tôi đáp. Sau đó, tôi gọi Rosc, “Ai muốn ăn kem không?” Con bé chạy đến chỗ tôi, háo hức quay trở lại xe đẩy của mình.

*

Hai tuần trôi qua, chủ đề về Gabriel không còn xuất hiện nữa. Cả Rachel và mẹ tôi đều không nhắc đến anh lần nào. Và anh cũng không gọi.

Sau một tháng thì tôi bắt đầu thắc mắc tại sao lại vậy. Tôi có nói về Dean quá nhiều khi chúng tôi ăn tối cùng nhau ở nhà hàng Hy Lạp không?

Có lẽ vậy nhỉ.

Một đêm thứ Sáu khác lại trôi qua, tôi xuất hiện ở Blockbuster một lần nữa, tìm kiếm một bộ phim kinh điển sau khi đi dạo với Rose và Ziggy ở Công viên Trung tâm. Như thường lệ, cửa hàng rất đông đúc và tôi không thể ngăn mình ngừng liếc nhìn trong đám đông những khách hàng khác, tự hỏi liệu mình có va phải Gabriel lần nữa không.

Tôi bắt đầu tưởng tượng đến những điều mình sẽ làm nếu chúng tôi gặp nhau thật. Có lẽ lần này, tôi sẽ mời anh đến nhà của tôi để cùng xem phim sau khi Rose đã ngủ. Anh sống cách tôi chỉ vài dãy nhà thôi. Thật kỳ lạ là chúng tôi chưa bao giờ gặp nhau, kể cả với tư cách là bạn bè.

Tôi chọn một bộ phim có Rosalind Russell đóng chính và đọc phần mô tả ở bìa sau, sau đó đặt nó trở lại giá và tiếp tục xem. Cuối cùng, tôi chợt nhận ra mình thật lố bịch khi cứ nấn ná trong cửa hàng và cố gắng “gọi hồn” Gabriel bằng cách nào đó thông qua trí tưởng tượng. Nhưng anh đâu xuất hiện. Tôi đành đứng vào hàng và thuê ba bộ phim cho hai ngày cuối tuần sắp tới.

Sau khi trở về nhà, tôi đã tắm cho Rose và đọc cho con bé nghe một câu chuyện. Khi con gái đã ngủ, tôi làm bỏng ngô và xem bộ phim màu đầu tiên của Alfred Hitchcock, Rope (Dây thừng) - câu chuyện về một vụ giết người hiểm ác xảy ra giữa một nhóm sinh viên đại học.

Khi đi ngủ, tôi ước mình đã chọn thứ gì đó nhẹ nhàng hơn, vì tôi không thể ngừng nghĩ về xác chết được giấu trong chiếc rương bên dưới bàn ăn tự chọn, ngay trước mũi mọi người khi họ nếm thử thức ăn. Tôi đã thao thức suốt cả đêm hôm đó.

Chú thích:

[1]Một món xốt có nguồn gốc từ các nước Trung Đông và Ả Rập, làm từ đậu gà nấu chín nghiền nhuyễn trộn với xốt tahini (bơ mè), dầu ô-liu, nước cốt chanh muối và tỏi.

[2]Giải thưởng Antoinette Perry cho Cống hiến Xuất sắc trong Nghệ thuật Sân khấu Broadway, thường gọi tắt là giải Tony, là một giải thưởng nghệ thuật sân khấu Hoa Kỳ do American Theatre Wing và Broadway League trao tặng hằng năm tại New York.