Chương 3 NGƯỜI LÀM CÔNG-Philadelphia và London, 1723-1726-CỬA HIỆU CỦA KEIMER
Khi còn là một người học việc ít tuổi, Franklin đã đọc được một cuốn sách đề cao việc ăn chay. Cậu nắm ngay lấy chế độ ăn này song không phải chỉ vì lý do đạo đức và sức khỏe. Động cơ chính của cậu là tiền bạc: ăn chay cho phép cậu tiết kiệm một nửa số tiền được James phân phát để chi cho ăn uống và dành dụm mua sách. Trong khi các đồng nghiệp của cậu nghỉ ngơi để hưởng thụ những bữa ăn thịnh soạn, Franklin chỉ ăn bánh quy với nho khô và tận dụng thời gian để nghiên cứu: “Trong thời gian đó, tôi tiến bộ nhiều hơn vì đầu óc thông suốt hơn và khả năng lĩnh hội nhanh hơn thường đi kèm với sự chừng mực trong ăn uống.”1
Song Franklin là một người lý trí, cậu trung thành với việc sống duy lý đến mức trở thành người khéo léo trong việc duy lý hóa mọi thứ. Trong chuyến hải hành từ Boston tới New York, khi con tàu thả neo ngoài đảo Block, thủy thủ đoàn bắt và nấu vài con cá tuyết. Ban đầu Franklin từ chối, cho đến khi mùi thơm bay lên từ chiếc chảo rán trở nên quá hấp dẫn. Với sự tự nhận thức khôi hài, sau này Franklin nhớ lại câu chuyện xảy ra khi đó:
Tôi cân nhắc đôi chút giữa nguyên tắc và khuynh hướng cho đến khi nhớ lại rằng lúc những con cá tuyết được mổ ra, tôi đã thấy những con cá nhỏ hơn được lôi ra từ bụng chúng. Vậy là tôi nghĩ, “nếu bọn mày còn ăn thịt nhau thì đâu có lý do gì mà bọn tao không được phép ăn thịt bọn mày.” Thế nên tôi đã có một bữa cá tuyết ngon lành và từ đó tiếp tục ăn uống như mọi người, chỉ một vài lần trở lại với chế độ ăn chay.
Từ đấy Franklin rút ra một bài học hài hước, thậm chí có phần giễu cợt, thể hiện qua châm ngôn: “Là một sinh vật có lý trí thật sự rất tiện lợi vì điều đó cho phép bạn tìm ra hoặc tạo ra lý do cho bất cứ việc gì mà bạn muốn làm.”2
Sự duy lý sẽ khiến Franklin trở thành một mẫu mực của thời kỳ Khai sáng - thời kỳ của nhận thức lý tính nở rộ vào thế kỷ 18 ở châu Âu và Mỹ. Nó không mấy có ích cho sự sôi nổi của thời kỳ tôn giáo khi ông sinh ra hay cho những tình cảm cao cả của thời kỳ Lãng mạn, bắt đầu nảy nở khi ông đã gần đến cuối đời. Cũng như Voltaire,* ông là người được lý trí dẫn dắt, có thể đem sự nỗ lực của bản thân và của con người nói chung ra giễu cợt. Một chủ đề trở đi trở lại trong cuốn tự truyện cũng như trong các truyện ngắn và niên giám của ông là sự thích thú khi thấy con người có khả năng nhận ra đâu là điều tiện lợi.
Ở tuổi 17, Franklin có một hình thể rất nổi bật: cơ bắp, ngực nở, gương mặt sáng sủa và cao gần sáu thước. Cậu có biệt tài dễ dàng kết bạn với bất kỳ ai, từ người buôn vặt tới thương nhân giàu có, từ người có học tới kẻ lêu lổng. Điều đáng chú ý nhất ở Franklin là sức hút cá nhân: cậu thu hút những ai muốn giúp mình. Không nhút nhát mà luôn sẵn sàng kết giao với bạn hữu và người bảo trợ, cậu biết cách giao du để khai thác sự quyến rũ của mình.
Thí dụ, trên đường bỏ trốn, cậu gặp chủ nhà in duy nhất của New York, William Bradford, người đã đăng các bài xã luận ủng hộ James Franklin trong cuộc đấu tranh chống lại “những kẻ áp bức và mù quáng” tại Boston. Dù không có công việc gì cho Franklin làm, nhưng Bradford gợi kẻ chạy trốn trẻ tuổi nên tiếp tục tới Philadelphia và tìm việc ở chỗ con trai ông, Andrew Bradford, hiện đang điều hành nhà in của gia đình và một tờ tuần báo tại đây.
Franklin cập bến tàu Phố Chợ ở Philadelphia vào một buổi sáng Chủ nhật, mười ngày sau khi rời Boston. Trong túi cậu không có gì ngoài một đô-la Hà Lan và một silinh; đồng tiền sau được dùng để trả cho chuyến đi. Người lái thuyền ra sức từ chối vì cậu đã giúp chèo thuyền nhưng cậu một mực đòi trả. Cậu còn lấy hai trong ba chiếc bánh puffy đã mua đem cho một phụ nữ cùng đứa con nhỏ mà cậu gặp trong chuyến đi. “Đôi khi, lúc có ít tiền, con người lại hào phóng hơn lúc có nhiều tiền, có lẽ vì sợ bị coi là kẻ ít tiền,” về sau Franklin đã viết như thế.3
Từ những phút đầu tiên tại Philadelphia, Franklin đã chú ý đến hình ảnh bề ngoài như vậy. Những người Mỹ theo chủ nghĩa cá nhân đôi khi khoe khoang rằng họ không để tâm tới việc người khác nghĩ gì về họ. Franklin, theo một cách truyền thống hơn, chăm lo cho uy tín của mình vì cả lòng tự tôn lẫn tính thiết thực, nhờ đó đã trở thành chuyên gia quan hệ công chúng không-biết-bối-rối đầu tiên của nước Mỹ. “Tôi không chỉ chăm lo làm người cần mẫn và căn cơ trên thực tế mà còn tránh xuất hiện trong hình ảnh ngược lại,” ông nhấn mạnh. Đặc biệt, trong vài năm đầu tiên khi là một chủ cửa hiệu trẻ, Franklin - theo ngôn ngữ của nhà phê bình Jonathan Yardley - là “một người tự sáng tạo và tự định hướng, đi qua cuộc đời với một tốc độ được tính toán để nhắm đến những cái đích được tính toán.”4
Với chừng hai ngàn dân, Philadelphia thời đó là cộng đồng lớn thứ hai tại Mỹ chỉ sau Boston. Nó được William Penn hình dung như một “thị trấn đồng quê xanh” có đặc trưng là hệ thống đường phố rộng rãi được quy hoạch tốt và dãy nhà gạch thẳng tắp. Ngoài các tín hữu Quaker* đã định cư ở đây từ nửa thế kỷ trước, thành phố có cái tên ca ngợi tình anh em* này còn thu hút những người nhập cư có giọng khàn khàn và tinh thần doanh nhân đến từ Đức, Scotland và Ireland. Chính họ đã biến nơi đây thành một vùng thương mại nhộn nhịp, chật kín cửa hiệu và quán ăn. Dù nền kinh tế của nó chỉ mới khởi động, hầu hết phố xá còn bẩn thỉu và chưa được lát đá, tinh thần của các tín hữu Quaker và những người di cư đến sau vẫn hấp dẫn Franklin. Họ là những người cần cù, thân thiện và khoan dung, nhất là so với các tín hữu Thanh giáo ở Boston.
Buổi sáng sau ngày đến, sau khi đã nghỉ ngơi và mặc tươm tất hơn, Franklin hỏi đường đến nhà in của Andrew Bradford. Tại đây, cậu không chỉ gặp vị chủ nhà in trẻ mà cả người cha, William. Ông đi từ New York bằng ngựa, vì thế đến nơi sớm hơn. Andrew không có ngay công việc gì cho cậu bé bỏ nhà ra đi nên anh đưa cậu đến gặp Samuel Keimer, một chủ nhà in khác trong thành phố. Đó là bằng chứng về khả năng mở rộng số người hỗ trợ của Franklin. Nó cũng cho thấy sự kết hợp độc đáo giữa sự cạnh tranh và hợp tác thường thấy trong giới thương nhân Mỹ.
Keimer tóc tai rối bù và là người kỳ quặc, với lối in ấn pha tạp. Ông hỏi Franklin một vài câu và đưa cho cậu chiếc que sắp chữ để đánh giá kỹ năng, sau đó hứa hẹn sẽ tuyển dụng cậu ngay khi có nhiều việc hơn. Vì không biết William là cha của đối thủ cạnh tranh, Keimer liến thoắng mô tả kế hoạch nhằm kéo mất phần lớn công việc làm ăn của Andrew Bradford. Franklin đứng lặng lẽ vì kinh ngạc trước sự cao tay của Bradford cha. Franklin nhớ lại, khi ông Bradford đi khỏi, Keimer “vô cùng ngạc nhiên khi tôi nói cho ông ấy biết ông lão kia là ai”.
Sau lần giới thiệu thật xui xẻo này, Keimer vẫn nhận Franklin vào làm dù cậu tá túc ở nhà Andrew. Cuối cùng, khi Keimer nhất định muốn cậu tìm nơi sinh sống khác ít xung đột về nghề nghiệp hơn, cậu tình cờ thuê được một phòng tại nhà John Read. John là cha của cô gái trẻ đã tỏ ra thích thú trước sự xuất hiện của Franklin vào ngày cậu chen lấn ra khỏi tàu. “Lúc này rương quần áo của tôi đã đến nơi nên tôi xuất hiện chỉnh tề hơn trong mắt cô Read so với lần trước, khi nàng tình cờ thấy tôi đang ăn chiếc bánh trên đường phố,” Franklin viết.5
Franklin nghĩ Keimer là một “con cá lạc bầy” nhưng cậu thích rèn luyện trí tuệ với ông vì họ có chung sở thích tranh luận triết lý. Franklin mài giũa phương pháp Socrates mà cậu thấy rất hữu ích trong việc giành chiến thắng mà không khiến đối thủ phản kháng. Cậu hỏi Keimer những câu tưởng như vô hại và xa rời chủ đề nhưng cuối cùng sẽ bộc lộ các sai lầm về logic của ông. Keimer, vốn rất sốt sắng bảo vệ các niềm tin tôn giáo, ấn tượng với điều này đến mức ông đề xuất họ cùng nhau lập ra một môn phái. Keimer phụ trách soạn giáo lý, chẳng hạn như không được tỉa râu, còn Franklin phụ trách việc bảo vệ chúng. Cậu đồng ý với điều kiện ăn chay sẽ là một tín điều trong số đó. Thí nghiệm này kết thúc sau ba tháng khi Keimer, một người phàm ăn, đành chào thua sự cám dỗ, một mình chén hết một con lợn quay trong một buổi tối.
Sức hút của Franklin không chỉ hấp dẫn những người hỗ trợ mà cả bạn bè. Với tư duy sáng láng, sự hóm hỉnh nhẹ nhàng và nụ cười cuốn hút, cậu trở thành một thành viên được yêu thích trong nhóm các thương nhân trẻ của thành phố. Nhóm của Franklin gồm ba nhân viên trẻ tuổi: Charles Osborne, Joseph Watson và James Ralph. Ralph là người nhiều chữ nghĩa nhất trong nhóm - một nhà thơ tin chắc vào tài năng của bản thân và sự cần thiết phải tự nuông chiều để trở thành một nghệ sĩ lớn. Osborne, một anh chàng có óc phê phán, thì hay ghen tị và luôn luôn hạ thấp những cố gắng của Ralph. Trong một chuyến tản bộ dọc bờ sông, bốn người bạn đọc sáng tác của mình cho nhau nghe. Ralph có một bài thơ và biết Osborne thể nào cũng sẽ chê bai, vì thế cậu nhờ Franklin giả vờ làm tác giả và đọc nó. Osborne mắc mưu và đã trút lên bài thơ vô số lời khen ngợi. Câu chuyện này dạy cho Franklin một quy luật về bản tính con người, điều có ích cho cậu trong toàn bộ sự nghiệp về sau (trừ một số ngoại lệ): người ta có xu hướng ngưỡng mộ việc làm của bạn hơn nếu bạn tránh cho họ cảm giác đố kị với bạn.6
NGƯỜI BẢO TRỢ KHÔNG ĐÁNG TIN CẬYNhà bảo trợ tai hại nhất mà Franklin kết thân là Ngài William Keith, vị thống đốc dạt dào tình cảm của tỉnh Pennsylvania - một người xăng xái, giàu thiện chí nhưng kém hiệu quả. Việc họ gặp nhau là kết quả của lá thư tha thiết mà Franklin đã gửi cho một người anh rể, nói rõ cậu sống rất vui vẻ ở Philadelphia và không có ý muốn trở về Boston hoặc cho cha mẹ biết cậu đang ở đâu. Người anh rể đưa lá thư này cho Thống đốc Keith xem, ông bày tỏ sự ngạc nhiên khi một lá thư hùng hồn như vậy lại do một chàng trai rất trẻ viết ra. Ngài thống đốc nhận thấy cả hai nhà in trong tỉnh mình đều đáng ghét nên quyết định tìm ra Franklin để khích lệ cậu.
Khi thấy Thống đốc Keith, với phục sức lộng lẫy nhất có thể, đang diễu phố về hướng nhà in của minh, Keimer vội vã ra nghênh đón. Trước sự ngạc nhiên của ông chủ đầu bù tóc rối, Keith chỉ muốn gặp Franklin. Vị thống đốc không tiếc lời khen dành cho cậu và mời cậu đi uống. Sau này Franklin nhớ lại, Keimer khi ấy “mắt chòng chọc như một con lợn phải bả”.7
Sau vài ly Madeira ở một tửu quán gần đó, Thống đốc Keith đề nghị giúp Franklin tự khởi nghiệp. Ông hứa hẹn sẽ dùng ảnh hưởng của mình để đem lại cho cậu mối làm ăn chính thức của tỉnh và sẽ viết thư cho cha cậu hối thúc ông giúp đỡ tài chính cho con trai. Keith còn mời cậu đến nhà dùng bữa tối, tâng bốc thêm và tiếp tục khuyến khích cậu. Thế là, với một lá thư thừa thãi lời ca ngợi của Keith trong tay và giấc mơ hòa giải gia đình đi cùng danh tiếng và tiền bạc, Franklin sẵn sàng trở về gặp lại gia đình. Cậu lên tàu hướng về Boston vào tháng 4 năm 1724.
Đã bảy tháng kể từ khi Franklin bỏ đi và cha mẹ cậu thậm chí còn không biết cậu vẫn còn sống, thế nên họ run lên khi thấy cậu trở về và chào đón cậu hết sức nồng hậu. Thế nhưng khi đó Franklin vẫn chưa học được bài học về những cạm bẫy của tính tự phụ và thói đố kị nhỏ nhen. Cậu cuốc bộ đến xưởng in của James, người anh bị cậu bỏ rơi, tự hào diện một “bộ cánh mới lịch lãm” cùng chiếc đồng hồ đẹp và nhét mấy đồng bạc trị giá năm bảng cho phồng túi. James nhìn cậu từ trên xuống dưới rồi trở gót, lặng lẽ quay lại với công việc.
Franklin không thể kiềm chế việc phô trương vị thế mới của mình. Khi James để mặc cậu một mình, Franklin thết đãi các thợ học việc trẻ tại xưởng in bằng những câu chuyện kể về cuộc sống vui vẻ tại Philadelphia, rải những đồng bạc lên bàn trước ánh mắt thán phục và cho họ tiền mua rượu. Sau đó, James nói với mẹ rằng anh không thể quên hoặc tha thứ sự xúc phạm này. “Tuy nhiên, về điều này anh ấy đã nhầm,” Franklin nhớ lại.
Cotton Mather, người đối địch cũ của gia đình cậu thì sẵn sàng hơn để đón nhận và chỉ bảo cậu. Ông mời Franklin đến, trò chuyện với cậu trong thư viện hoành tráng của mình và cho cậu biết ông đã tha thứ những lời châm chọc đăng tải trên tờ Tuần báo. Khi trở ra, họ phải qua một lối hẹp và Mather bỗng kêu lên: “Cúi xuống! Cúi xuống!” Franklin không hiểu lời cảnh báo này nên đập đầu vào một thanh xà thấp. Theo thói quen, Mather biến việc này thành một bài thuyết giảng: “Con hãy nhớ bài học cẩn trọng - không phải lúc nào cũng ngẩng đầu quá cao. Cúi xuống, chàng trai trẻ ạ, hãy cúi xuống khi con đi qua thế giới này. Như thế con sẽ tránh được nhiều đòn đau.” Sau này, Franklin nhắc lại với con trai của Mather: “Lời dạy ấy đã khắc sâu vào tâm trí tôi và vẫn thường trực có ích cho tôi. Tôi hay nghĩ đến nó mỗi khi thấy tính tự phụ hành hạ những kẻ ngẩng đầu quá cao và những điều không may xảy ra với họ.” Dù bài học này tương phản rõ ràng với chuyến ghé thăm đầy phô trương tới nhà in của anh trai, Franklin đã quên đưa nó vào trong tự truyện của mình.8
Lá thư và đề nghị của Thống đốc Keith khiến Josiah Franklin ngỡ ngàng. Nhưng sau vài ngày suy xét, ông đi đến nhận định rằng cấp tiền cho một đứa con bỏ nhà ra đi, có bản tính khá bất trị và mới chỉ 18 tuổi là một việc làm khinh suất. Dù tự hào về sự bảo trợ mà con trai mình thu hút được và sự cần cù mà cậu thể hiện, Josiah biết Benjamin vẫn còn thiếu chín chắn.
Không nhìn thấy khả năng hòa giải của hai người con trai, Josiah chúc phúc để Benjamin trở lại Philadelphia cùng lời khuyên “cư xử một cách lễ phép với mọi người ở đó... và tránh việc đả kích hay phỉ báng - những điều cha tôi nghĩ tôi có xu hướng”. Josiah hứa, nếu Benjamin có thể gom góp gần đủ để mở cửa hiệu riêng vào tuổi 21 bằng “sự cần cù bền bỉ và căn cơ thận trọng”, ông sẽ giúp cậu phần vốn còn lại.
Bị mê hoặc bởi lời kể của Franklin, người bạn cũ John Collins của cậu cũng quyết định rời Boston. Nhưng khi ở Philadelphia, hai anh chàng đã gây hấn với nhau. Collins sáng sủa hơn Franklin về mặt học thuật song lại thiếu kỉ luật hơn nên đã sớm sa vào rượu chè. Cậu ta vay tiền của Franklin và bắt đầu oán giận bạn mình. Một ngày, khi hai người đi bơi thuyền cùng bạn bè trên sông Delaware, dù tới lượt mình nhưng Collins không chịu chèo. Những bạn khác trên thuyền sẵn sàng bỏ qua còn Franklin thì không. Cậu đã xô xát với Collins, túm hạ bộ và hất cậu ta ra khỏi thuyền. Mỗi khi Collins bơi đến gần, Franklin và các bạn lại chèo vượt lên mấy thước, nhất định bắt cậu ta hứa sẽ chèo khi tới lượt mình. Vì tự cao và uất ức, Collins không đồng ý nhưng cuối cùng vẫn được cho lên thuyền. Từ đó, hai cậu hầu như không còn nói chuyện với nhau nữa. Kết cục, Collins lên đường đi Barbados và không bao giờ trả lại số tiền đã vay Franklin.
Chỉ sau vài tháng, Franklin đã học được các bài học về đối đầu và oán giận, tự cao và khiêm tốn từ bốn người - James Ralph, James Franklin, Cotton Mather và John Collins. Trong đời, đôi khi Franklin cũng tự tạo ra kẻ thù cho mình (như nhà Penn) và đối thủ đố kị với mình (như John Adams). Nhưng so với đa số đàn ông, nhất là những người toàn mỹ đến vậy thì con số này ít hơn hẳn. Cậu đã học được bí quyết sống để được kính trọng thay vì bị thù ghét: thể hiện (ít nhất là khi nào có thể tuân thủ nguyên tắc này) một óc hài hước tự trào, những cử chỉ khiêm tốn và một lối đối thoại không công kích.9
Việc Josiah Franklin từ chối cấp vốn cho con trai mở xưởng in không làm giảm lòng nhiệt thành của Thống đốc Keith. “Nếu ông ấy không giúp cậu khởi nghiệp thì ta sẽ giúp,” ông hứa đàng hoàng. “Ta quyết tâm phải có một nhà in tốt ở đây.” Ông đề nghị Franklin lên danh sách các thiết bị cần thiết - cậu ước chừng sẽ tốn khoảng 100 bảng - và gợi ý Franklin nên đến London để có thể tự chọn các bộ chữ và mở rộng mối quan hệ. Keith cam kết sẽ lập các thư tín dụng để trả cho cả thiết bị lẫn chuyến hải hành.10
Chàng trai Franklin mê phiêu lưu rất cảm động. Suốt mấy tháng trước khi khởi hành, cậu thường xuyên ăn tối với vị thống đốc. Mỗi khi cậu hỏi về các tín dụng thư mà ông hứa hẹn, chúng đều chưa xong xuôi; nhưng Franklin không thấy có lý do gì phải lo lắng.
Trong lúc đó, Franklin đang tán tỉnh con gái của chủ nhà, Deborah Read. Bất chập sự ham muốn về giới tính, cậu rất thực tế về những tiêu chuẩn muốn có ở người vợ. Deborah là người khá thô mộc, nhưng cô đem lại viễn ảnh về một người thích an nhàn và cuộc đời nội trợ. Đổi lại, Franklin cũng có nhiều thứ khác bên cạnh ngoại hình ưa nhìn vạm vỡ cùng sự lôi cuốn ấm áp của cậu. Cậu đã biến mình từ một kẻ bỏ nhà rách rưới lững thững đi ngược lên Phố Chợ khi cô lần đầu nhìn thấy thành một trong những thương nhân trẻ có tư cách và triển vọng nhất của thành phố, một người được Thống đốc và bạn bè quý mến. Cha Deborah mới qua đời khiến mẹ cô lâm vào cảnh khó khăn về tiền bạc nên bà sẵn lòng để con gái bước vào một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Tuy vậy, bà thận trọng với việc cho con gái lấy một vị hôn phu sắp sửa đi London và một mực muốn dời đám cưới cho đến khi Franklin trở về.
LONDONTháng 11 năm 1724, chỉ hơn một năm sau khi tới Philadelphia, Franklin lại khởi hành đi London. Cùng đi với cậu là người đã thế chỗ người bạn không đáng tin cậy, Collins: nhà thơ đầy khát vọng James Ralph - anh để lại nhà một vợ và một con. Franklin vẫn chưa nhận được các tín dụng thư từ Thống đốc Keith nhưng tin chắc rằng chúng sẽ được gửi lên tàu trong túi thư tín cuối cùng.
Chỉ sau khi tới London vào đêm Giáng sinh, cậu mới phát hiện ra sự thật: vị thống đốc phù phiếm không viết cho cậu bức thư tín dụng hay thư giới thiệu nào. Rất bối rối, Franklin tìm cách liên lạc với người bạn đồng hành Thomas Denham, một thương gia và một tín hữu Quaker xuất chúng mà cậu đã kết bạn trên đường đi. Denham đã giải thích để Franklin biết Keith là người có tính khí thất thường đã ăn vào máu và anh “cười vào ý nghĩ của tôi rằng ngài thống đốc sẽ viết cho tôi một lá thư tín dụng vì như anh nói, ông ấy chẳng có chút khả tín nào để cho đi”. Với cái nhìn thấu suốt, Franklin xem đây là điểm yếu hơn là cái ác của con người. Franklin sau này đã nói về Keith: “Ông ấy hứa hẹn để làm hài lòng tất cả mọi người, và bởi không có nhiều để cho đi, nên ông ấy cho đi sự kỳ vọng.”11
Nhờ lời khuyên của Denham, Franklin quyết tâm lèo lái tình thế của mình theo chiều hướng tốt nhất. London khi đó đang tận hưởng thời hoàng kim của hòa bình, thịnh trị là một nơi đặc biệt hấp dẫn đối với một thợ in trẻ có tham vọng về tri thức. Trong số những nhân vật đang làm sáng bừng thế giới thời ấy có Swift, Defoe, Pope, Richardson, Fielding, và Chesterfield.
Phải cưu mang anh chàng Raph bơ vơ và mơ mộng, Franklin tìm mấy chỗ trọ giá rẻ và một công việc ở nhà in nổi tiếng của Samuel Palmer. Ralph cố gắng xin làm diễn viên, sau đó là nhà báo hay thư ký. Anh thất bại trên mọi lĩnh vực và luôn phải vay tiền của Franklin.
Đây là một kiểu cộng sinh đũa lệch thường thấy giữa những người thực tế và tham vọng với những người bạn lãng mạn và vô tư: Franklin cần mẫn kiếm tiền còn Ralph đảm bảo họ sẽ nướng hết vào ca kịch và các trò tiêu khiển khác, đôi khi là cả “những cuộc dan díu với đám phụ nữ thấp hèn”. Ralph sớm quên mất vợ con ở Philadelphia và Franklin cũng theo gương. Cậu phớt lờ luôn việc đã đính hôn với Deborah và chỉ viết thư cho cô một lần.
Không có gì bất ngờ khi tình bạn này tan vỡ vì một người con gái. Ralph đem lòng yêu một cô thợ làm mũ trẻ tuy nghèo nhưng dễ thương và chuyển đến ở với cô. Sau đó, anh được khuyến khích xin việc làm giáo viên tại một trường làng ở Berkshire. Anh thường xuyên viết thư cho Franklin, gửi cho bạn các đoạn của một thiên anh hùng ca dở tệ cùng lời nhắn nhủ nhờ Franklin trông nom bạn gái. Franklin đã làm việc đó quá tốt. Cậu cho cô ấy mượn tiền, an ủi nỗi trống trải của cô và sau đó, (“vào một thời điểm không chịu sự ràng buộc tôn giáo”), đã tìm cách quyến rũ cô. Ralph trở về trong cơn thịnh nộ, cắt đứt tình bạn của hai người và tuyên bố rằng sự vượt quá giới hạn này đã giải thoát anh khỏi nghĩa vụ hoàn trả cho Franklin số tiền nợ lúc này đã lên đến 27 bảng.12
Về sau Franklin cho rằng việc mất số tiền nợ được bù đắp bằng việc không phải làm bạn với Ralph nữa. Vậy là một lối sống đã hình thành. Bắt đầu từ Collins và Ralph, Franklin dễ dàng có những bằng hữu tình cờ, những bạn đồng hành tài trí, những người bảo trợ hữu ích, những kẻ ngưỡng mộ thích ve vãn cùng các mối quan hệ thân tình khác. Nhưng cậu lại không giỏi giữ gìn những mối quan hệ lâu dài và có ràng buộc cá nhân hoặc liên kết tình cảm sâu sắc, ngay cả với gia đình mình.
CHỦ NGHĨA CALVIN VÀ TỰ NHIÊN THẦN GIÁOKhi làm việc tại nhà in của Palmer, Franklin giúp việc in một ấn bản của cuốn Tôn giáo của tự nhiên giản lược của William Wollaston,* một luận văn Khai sáng cho rằng có thể đạt được chân lý tôn giáo thông qua nghiên cứu khoa học và tự nhiên thay vì sự mặc khải của thánh thần. Với khí thế trí tuệ của một người trẻ không qua trường lớp, Franklin tin rằng Wollaston đúng về tổng thể nhưng sai ở một số chi tiết. Cậu đã sớm trình bày suy nghĩ riêng của mình trong một bài viết vào năm 1725 có tiêu đề “Luận văn về Tự do và Tất yếu, Vui sướng và Khổ đau.”
Trong Luận văn này, Franklin kết hợp các tiền đề thần học với phép tam đoạn luận logic học với nhau và khiến chính cậu rối tung. Chẳng hạn, cậu thừa nhận Chúa Trời “toàn trí, toàn mỹ, toàn năng”. Vì thế, mọi thứ tồn tại hay xảy ra đều phải được sự ưng thuận của Chúa. “Những gì Người ưng thuận phải là điều tốt, bởi Người là toàn mỹ; do đó cái xấu không tồn tại.”
Hơn nữa, hạnh phúc chỉ tồn tại trong sự tương phản với không hạnh phúc; nếu thiếu vắng một thứ thì thứ kia không thể tồn tại. Do đó, chúng triệt tiêu lẫn nhau: “Theo lẽ tự nhiên và bất biến, nỗi khổ đau sản sinh ra niềm vui sướng tương ứng với nó, nên mỗi cá thể sinh vật, ở bất cứ dạng sống nào, đều có một lượng bằng nhau của mỗi cảm giác.” Đồng thời, Franklin bác bỏ (ít nhất là để thỏa mãn bản thân) khái niệm linh hồn bất tử, sự tồn tại của ý chí tự do và giáo lý cơ bản của chủ nghĩa Calvin cho rằng con người tất yếu sẽ được cứu rỗi hoặc bị đọa đày. Cậu tuyên bố, “mọi sinh vật không thể làm điều gì ngoài điều tốt” và tất cả “đều được Đấng Sáng thế tôn trọng như nhau”.13
Luận văn của Franklin không được xếp vào biên niên sử của triết học tinh xảo. Thực tế, như Franklin thừa nhận sau này, nó nông cạn và thiếu thuyết phục đến mức làm cậu bẽ mặt. Franklin in ra 100 bản, việc mà cậu gọi là “lỗi in ấn”, và cố đốt hết những gì thu hồi lại được.
Để biện hộ cho Franklin, có thể thấy ngay cả các triết gia vĩ đại và trưởng thành hơn cậu còn lạc lối suốt nhiều thế kỷ khi cố gắng trả lời câu hỏi về ý chí tự do và dung hòa nó với Thiên Chúa - đấng toàn tri. Nhiều người trong số bạn đọc hẳn còn nhớ, hoặc sẽ co rúm người khi bị nhắc lại, những tiểu luận hay luận văn theo nhóm khi chúng ta 19 tuổi, đang là sinh viên năm nhất. Kể cả khi đã trưởng thành hơn, Franklin cũng không bao giờ trở thành một triết gia nghiêm cẩn hàng đầu, được đứng chung với những người đương thời như Berkeley và Hume. Giống như tiến sĩ Johnson, Franklin thích hợp khám phá các suy nghĩ thực tế và tình huống ngoài đời hơn là những phép trừu tượng siêu hình hoặc chứng minh diễn dịch.
Giá trị cơ bản của Luận văn thể hiện ở việc nó hé lộ sự sẵn sàng có tính thất thường của Franklin để từ bỏ thần học Thanh giáo. Khi còn trẻ tuổi, cậu đã đọc John Locke, Lord Shaftesbury, Joseph Addison và các tác giả khác ủng hộ tư tưởng độc lập về tôn giáo và triết lý về thần giáo tự nhiên của chủ nghĩa Khai sáng, cho rằng mỗi cá nhân đều có thể khám phá được chân lý về Chúa thông qua nhận thức lý tính và nghiên cứu tự nhiên thay vì đặt niềm tin mù quáng vào các giáo lý được thừa nhận rộng rãi và sự mặc khải của thánh thần. Cậu cũng đọc các tác phẩm có tính chính thống hơn, bảo vệ giáo lý của chủ nghĩa Calvin trước tư tưởng dị giáo nhưng cậu thấy chúng kém thuyết phục hơn. Franklin đã viết trong tự truyện: “Lập luận của các nhà tự nhiên thần giáo được dẫn ra để bác bỏ, đối với tôi còn mạnh mẽ hơn chính những luận điệu bác bỏ.”14
Tuy vậy, cậu sớm đi đến kết luận rằng, một chủ nghĩa tự nhiên thần giáo giản đơn và tự mãn cũng có các hạn chế riêng. Cậu đã truyền tư tưởng tự nhiên thần giáo cho Collins và Ralph và chẳng mấy chốc họ đã xử tệ với cậu mà chẳng có chút ăn năn về đạo đức nào. Tương tự, cậu cũng lo lắng chính sự độc lập tư tưởng của mình đã khiến cậu phóng túng với Deborah Read và những người khác. Trong một châm ngôn cổ điển điển hình cho cách tiếp cận thực dụng của cậu với tôn giáo, Franklin tuyên bố về tự nhiên thần giáo như sau: “Tôi bắt đầu hoài nghi học thuyết này, dù có thể nó đúng nhưng nó không mấy hữu dụng.”
Mặc dù cho rằng mặc khải của Thiên Chúa “không có chút trọng lượng nào” với mình, cậu đinh ninh thực hành tôn giáo là một việc có lợi bởi nó khuyến khích hành vi cư xử tốt đẹp và một xã hội đạo đức. Vì thế cậu bắt đầu ủng hộ một nhánh tự nhiên thần giáo chú trọng đến đạo đức, cho rằng cách vâng phục Chúa tốt nhất là thông qua làm điều thiện và giúp đỡ người khác.
Đây là triết lý dẫn tới việc cậu từ bỏ phần lớn giáo lý Thanh giáo và các giáo phái theo chủ nghĩa Calvin khác, vốn dạy rằng sự cứu rỗi chỉ đến qua ân điển của Chúa và không thể đạt được nhờ làm điều thiện. Họ tin rằng khả năng này đã mất đi khi Adam từ chối giao ước của Chúa về điều thiện và được thay thế bằng giao ước về ân điển, theo đó những người được cứu rỗi là một phần của nhóm người được chọn lên thiên đàng do Chúa định trước. Với một người duy lý và thực dụng mới chớm như Franklin, giao ước về ân điển có vẻ “khó hiểu” và thậm chí tệ hơn nữa, “không có lợi”.15
KẾ HOẠCH CHO HÀNH XỬ ĐẠO ĐỨC
Sau một năm làm việc cho Palmer, Franklin tìm được một công việc trả lương khá hơn tại một nhà in lớn hơn của John Watts. Ở đây, các thợ in uống bia pha loãng suốt cả ngày, để giữ cho họ được khỏe khoắn. Với thói quen uống điều độ và thanh đạm, Franklin cố gắng thuyết phục các đồng nghiệp rằng họ có thể có một chế độ dinh dưỡng tốt hơn nhờ ăn những bát cháo nóng với bánh mì. Vì thế cậu được mọi người gọi là “người Mỹ uống Nước”, được thán phục vì sức khỏe, tư duy rõ ràng và khả năng cho họ vay tiền khi họ đã nướng sạch thu nhập kiếm được mỗi tuần ở các quán rượu.
Bất chấp sự kiêng cữ của cậu, các công nhân ở nhà in Watts nhất định muốn cậu trả một khoản phí khai tâm có giá năm shilling để mua đồ uống. Khi được thăng chức từ phòng in lên phòng sắp chữ, cậu bị dụ dỗ trả một khoản phí khai tâm khác, nhưng lần này cậu từ chối. Kết quả là cậu bị đối xử như thành phần cá biệt và phải chịu một số tổn hại nhỏ. Cuối cùng, sau ba tuần, cậu đấu dịu và chịu bỏ tiền vì tin rằng việc duy trì mối quan hệ xấu với đồng nghiệp là sự điên rồ. Cậu nhanh chóng lấy lại sự yêu mến của mọi người, được tiếng là “một người pha trò cừ khôi” - được kính trọng nhờ tính hài hước và khả năng “châm biếm bằng ngôn từ”.
Là một trong số những người ít nhút nhát nhất mà ta có thể tưởng tượng, Franklin thích giao du ở London hệt như trước đây ở Boston và Philadelphia. Cậu đều đặn tới dự các tọa đàm bàn tròn do những ngôi sao nhỏ trên ván đàn đương thời tổ chức và tìm cách để được làm quen với nhiều nhân vật thú vị. Trong những bức thư đầu tiên của Franklin còn lại cho đến nay, có một bức gửi cho Ngài Hans Sloane, thư ký của Hội Hoàng gia. Franklin cho biết, cậu mang theo từ Mỹ một chiếc ví làm từ amiăng và tự hỏi liệu Sloane có muốn mua nó. Sloane gọi Franklin đến, đưa chàng trai về nhà ông ta ở quảng trường Bloomsbury để khoe khoang bộ sưu tập của mình và bỏ ra một số tiền hào phóng để mua chiếc ví. Franklin cũng thương lượng để được mượn sách từ một hiệu sách cạnh nhà.
Kể từ khi còn là một cậu bé biết sáng chế ra mái chèo và chân vịt để đẩy mình bơi qua cảng Boston, Franklin đã đam mê bơi lội. Cậu đã nghiền ngẫm một trong số những tác phẩm đầu tiên viết về bộ môn này, Nghệ thuật Bơi lội, cuốn sách được tác giả người Pháp Melchisedec Thevenot viết năm 1696, giúp phổ biến kỹ thuật bơi ếch. (Kỹ thuật bơi sải phải hơn một thế kỷ sau mới trở nên thông dụng.) Franklin đã hoàn thiện nhiều biến thể của động tác bơi cả trên mặt nước và dưới nước “sao cho vừa đẹp mắt vừa dễ dàng và hữu ích”.
Trong số những bạn bè mà cậu dạy bơi có một thợ in trẻ đồng nghiệp tên là Wygate. Một ngày, khi đang đi bơi thuyền trên sông Thames với Wygate và vài người khác, Franklin quyết định trổ tài. Cậu lột đồ, nhảy xuống sông và bơi ra bơi vào bờ với nhiều kiểu khác nhau. Một thành viên trong nhóm ngỏ ý tài trợ để Franklin mở trường dạy bơi. Về phần mình, Wygate “càng ngày càng trở nên gắn bó” với Franklin và đề nghị hai người sẽ đi du lịch khắp châu Âu như các thợ in và giáo viên làm công. “Tôi suýt bị thuyết phục,” Franklin nhớ lại, “nhưng khi hỏi ý kiến người bạn tốt Denham, người mà tôi luôn dành hàng giờ tâm sự khi có thời gian rỗi, cậu đã thuyết phục tôi từ bỏ ý định này và khuyên tôi chỉ nên nghĩ đến việc mà cậu sắp sửa làm lúc ấy - trở về Pennsylvania.”16
Denham, vị thương gia theo đạo Quaker mà Franklin đã gặp trên chuyến hải hành, đang lên kế hoạch mở một cửa hiệu tạp hóa tại Philadelphia và hứa hẹn sẽ trả tiền vé tàu cho Franklin nếu cậu đồng ý ký hợp đồng làm nhân viên cho anh với mức lương 50 bảng một năm. Tuy số tiền này thấp hơn số tiền cậu đang kiếm được ở London, nhưng nó đem lại cho cậu cơ hội được trở về Mỹ cùng khả năng lập nghiệp như một thương nhân, một nghề nghiệp cao sang hơn so với làm thợ in. Thế là họ lên tàu trở về cùng nhau vào tháng 7 năm 1726.
Trong quá khứ, Franklin từng bị chuốc vạ vì thích chơi với những kẻ lêu lổng lãng mạn có tính cách không đáng tin cậy (Keith, Collins, Ralph). Ngược lại, Denham là một người toàn vẹn. Anh bỏ xứ ra đi vài năm trước trong cảnh nợ nần chồng chất, để rồi gây dựng được một cơ đồ nhỏ ở Mỹ. Lần này trở về Anh, Denham có thể ném cả bữa tối xa hoa vào các chủ nợ cũ của anh. Sau khi vung vãi những lời biết ơn dành cho họ, anh đề nghị tất cả nhìn dưới đĩa của mình, ở đó là toàn bộ số tiền nợ được trả đủ cộng thêm tiền lãi. Từ đây về sau, Franklin thấy mình bị thu hút nhiều hơn bởi những người thiết thực và đáng tin cậy hơn là những người mơ mộng và lãng mạn.
Để hoàn thiện nghệ thuật trở thành người đáng tin, Franklin đã viết “Kế hoạch cư xử tương lai” trong chuyến hải hành dài 11 tuần trở lại Philadelphia. Đây là một trong rất nhiều cương lĩnh cá nhân đặt ra các quy tắc thực dụng để đạt thành công và đưa Franklin trở thành vị thánh bảo hộ của những người chỉ bảo việc tự hoàn thiện. Cậu than thở rằng vì chưa bao giờ vạch ra cho mình một đề cương về cách cư xử, cuộc đời của cậu từ trước tới nay có phần hơi lộn xộn. “Vì thế, hãy để tôi thể hiện sự quyết tâm và một hình thức hành động nào đó, sao cho từ nay trở đi tôi có thể sống như một sinh vật có lý trí với tất cả sự tôn trọng.” Có bốn quy tắc như sau:
#1. Tôi cần phải cực kỳ căn cơ một thời gian, cho đến khi tôi trả hết nợ nần.
#2. Cố gắng nói thật trong mọi hoàn cảnh; không để ai nghĩ rằng họ có thể không được đáp lời, và hướng đến sự chân thành trong từng từ ngữ và hành động - điểm vượt trội dễ mến nhất ở một con người có lý trí.
#3. Để bản thân tôi chuyên tâm vào bất cứ công việc nào mà tôi đảm nhận, không hướng suy nghĩ của tôi xa rời công việc vì bất cứ kế hoạch làm giàu chớp nhoáng ngớ ngẩn nào; bởi lẽ sự chăm chỉ và kiên nhẫn là phương thức chắc chắn nhất để giàu có.
#4. Tôi quyết tâm dù thế nào cũng không nói xấu ai.17
Quy tắc 1 cậu đã nắm vững. Tương tự, quy tắc 3 cũng không khó để cậu tuân thủ. Về quy tắc 2 và 4, từ nay trở đi, cậu phải siêng năng tự răn dạy bản thân và nói chung phải cố thể hiện việc thực hành chúng, dù đôi khi cậu giỏi thể hiện hơn là thực hành.
Trên đường về nhà, chàng trai Franklin 20 tuổi ấp ủ một điều mà về sau trở thành niềm hiếu kỳ suốt đời đối với khoa học. Cậu thí nghiệm trên những con cua nhỏ tìm được trên đám tảo biển, tính toán khoảng cách từ London dựa trên hiện tượng nguyệt thực và nghiên cứu tập quán của cá heo và cá chuồn.
Nhật ký của Franklin về chuyến hải hành cũng tiết lộ tài quan sát bản tính con người của cậu. Khi nghe chuyện về vị cựu thống đốc Đảo Wight, người được tung hô như một vị thánh nhưng lại bị lính gác lâu đài xem là kẻ đểu giả, Franklin kết luận rằng, một người thiếu trung thực sẽ không thể che đậy hoàn toàn con người thật của mình, dù anh ta có xảo trá đến đâu. “Sự thật và lòng chân thành có những hào quang tự nhiên đặc biệt, không thể nào bị giả mạo một cách hoàn hảo; chúng tựa như ngọn lửa và ánh hồng, vốn không thể tô vẽ.”
Khi cá cược về cờ đam với vài bạn cùng tàu, cậu đã đưa ra “quy tắc không thể sai,” theo đó “nếu hai người có khả năng phán đoán như nhau đánh với một số tiền đáng kể, kẻ nào ham tiền hơn sẽ thua; chính sự sốt sắng chiến thắng trò chơi sẽ làm hại anh ta.” Cậu tin rằng quy tắc đó cũng đúng với những trận đấu khác - một người khi quá sợ hãi kết cục sẽ chiến đấu theo kiểu phòng thủ và vì thế bỏ lỡ các lợi thế tấn công.
Cậu cũng phát triển những lý thuyết về sự khao khát hòa đồng của con người, vốn đặc biệt đúng với bản thân cậu. Một trong số các hành khách bị bắt gặp gian lận khi chơi bài và những người khác đòi phạt anh ta. Khi kẻ này không chịu trả tiền, họ quyết định đưa ra một hình phạt nặng hơn: anh ta sẽ bị tẩy chay và xa lánh hoàn toàn cho đến khi chịu thua. Cuối cùng, kẻ vô lại đã trả tiền phạt để chấm dứt vạ tuyệt tông. Franklin kết luận:
Con người là một sinh vật thích giao tiếp và vì thế, theo tất cả những gì tôi được biết, một trong những hình phạt tồi tệ nhất là bị cách ly khỏi xã hội. Tôi đã đọc rất nhiều thứ hay ho về đề tài cô đơn và biết những kẻ thích được xem là khôn ngoan có một lời khoe khoang chung nơi đầu môi: sự đơn độc không thể làm họ đơn độc hơn được nữa. Tôi thừa nhận nỗi cô đơn là một sự nghỉ ngơi có thể chấp nhận được đối với một trí óc bận rộn; nhưng nếu những gã trầm tư này phải luôn sống đơn độc, tôi tin rằng họ sẽ sớm nhận ra bản thể của họ chẳng giúp ích gì cho họ.
Một trong những tư tưởng của thời kỳ Khai sáng cho rằng trong mỗi người đều tồn tại một ái lực xã hội, dựa trên thiên hướng tự nhiên của lòng nhân từ và Franklin là một mẫu mực của tư tưởng này. Câu đầu tiên trong đoạn văn trên - “Con người là một sinh vật thích giao tiếp” - trở thành tôn chỉ định hướng suốt cuộc đời dài của cậu. Về sau trong chuyến hải hành, họ gặp một chiếc tàu khác. Franklin ghi lại:
Có điều gì đó thật sự đang reo vui một cách lạ lùng trong tâm hồn chúng tôi khi gặp gỡ nơi biển cả một nhóm sinh vật cùng loài, cùng chung hoàn cảnh với chúng tôi sau khi bị ngăn cách và tuyệt giao với phần còn lại của nhân loại như thế. Tôi khó lòng kiềm chế được tiếng cười phát xuất đâu đó từ một niềm khoan khoái bên trong.
Song niềm hạnh phúc lớn nhất của cậu là cuối cùng đã lờ mờ trông thấy bờ biển nước Mỹ. Cậu viết, “mắt tôi nhòa đi vì hai giọt nước mắt hân hoan bỗng trào ra”. Với lòng coi trọng tính cộng đồng sâu sắc, tính hiếu kỳ dành cho khoa học và các quy tắc để sống một cuộc đời thực tế, Franklin đã sẵn sàng an cư để tìm kiếm thành công ở một thành phố mà giờ này cậu nhận ra đây mới thực sự là nhà mình, hơn cả Boston hay London.18