Chương 4 CHỦ NHÀ IN -Philadelphia, 1726-1732-CỬA HIỆU RIÊNG
Franklin bẩm sinh đã có những đức tính một chủ cửa hiệu: khéo léo, có duyên, sắc sảo trong đánh giá tính cách con người và luôn háo hức thành đạt. Anh trở thành một “chuyên gia bán hàng” - theo cách nói của anh - khi cùng Denham mở một hiệu tạp hóa trên Phố Water một thời gian ngắn sau khi trở về Philadelphia vào cuối năm 1726. Denham đóng vai trò một người thầy và người giám hộ của chàng trai 20 tuổi nhiều khát vọng. “Chúng tôi ở cùng nhà và ăn cùng mâm; anh ấy khuyên nhủ tôi như một người cha, dành cho tôi sự quan tâm chân thành. Tôi kính trọng và yêu quý anh ấy.”1
Nhưng giấc mơ trở thành một thương gia giàu có của Franklin tan tành sau vài tháng khi Denham lâm bệnh rồi qua đời. Trong di chúc bằng lời, anh xóa cho Franklin số nợ 10 bảng chi phí cho chuyến đi nhưng không để lại cho anh công việc kinh doanh họ đã cùng gây dựng. Hết tiền và chẳng có mấy hy vọng, Franklin nuốt tự ái vào lòng để nhận lời đề nghị của Keimer kỳ quặc - trở lại làm việc tại nhà in của ông, lần này trong vai trò người quản lý.2
Vì ở Mỹ không có xưởng đúc để đúc chữ, Franklin đã nghĩ ra cách riêng thông qua việc sử dụng các mẫu tự của Keimer để làm khuôn chì. Do đó, anh đã trở thành người đầu tiên ở Mỹ sản xuất chữ in. Một trong các kiểu chữ hiện đại phổ biến nhất, phông chữ sans-serif* có tên Franklin Gothic, thường được sử dụng cho tiêu đề bài báo, được đặt theo tên anh vào năm 1902.
Khi Keimer bắt đầu thể hiện sức mạnh của mình, mối ác cảm - một phần do di truyền và giáo dục - của anh với quyền lực độc đoán lại bùng lên. Một ngày, có một cuộc ẩu đả bên ngoài cửa hiệu và Franklin ló đầu ra khỏi cửa sổ để quan sát. Keimer lúc đó đang ở dưới phố đã gào lên yêu cầu anh tập trung vào công việc. Tính công khai của sự quở trách này làm Franklin bẽ mặt và anh đã bỏ việc ngay lập tức. Nhưng vài ngày sau, khi Keimer đến năn nỉ anh quay trở lại, Franklin đã đồng ý. Họ đều cần nhau, ít nhất là trong thời điểm đó.
Keimer giành được quyền ấn loát trong một đợt phát hành tiền giấy mới của Hội đồng Lập pháp New Jersey và Franklin là người duy nhất có kỹ năng thực hiện việc này một cách hoàn hảo. Anh sáng tạo ra kỹ thuật in sử dụng bản khắc đồng để tạo ra những tờ giấy bạc được trang trí công phu đến mức chúng không dễ bị làm giả, và họ cùng nhau đi tới Burlington. Một lần nữa, chính chàng trai trẻ Franklin, người có tài nói chuyện hóm hỉnh và nhiệt tình, chứ không phải ông chủ luộm thuộm của anh, đã kết bạn được với những người quyền cao chức trọng. “Trí tuệ của tôi so với Keimer đã được mở mang nhiều hơn nhờ đọc sách, tôi đoán đó là lý do những cuộc trò chuyện của tôi được đánh giá cao hơn. Họ đưa tôi về nhà, giới thiệu với bạn bè và đối xử với tôi rất lịch sự.”3
Mối quan hệ với Keimer được định trước không thể kéo dài. Franklin - một người không ngừng phấn đấu và cọ xát - nhận thấy anh đang bị lợi dụng. Keimer đang trả tiền đề anh đào tạo bốn “đôi tay giá rẻ” làm việc ở nhà in với ý định sẽ sa thải anh khi họ đủ lông đủ cánh. Về phần mình, Franklin cũng chẳng ngại lợi dụng Keimer. Anh và một trong số các thợ học việc, Hugh Meredith, đã bí mật lên kế hoạch mở một nhà in cạnh tranh sau kỳ phục dịch của Meredith kết thúc, do cha Meredith cấp vốn. Dù đây không hẳn là một kế hoạch gian dối thật sự, nhưng nó không hoàn toàn phù hợp với lời hứa trịnh trọng của Franklin rằng sẽ “hướng đến sự chân thành trong mọi lời nói và cử chỉ”.
Meredith 30 tuổi, ham đọc sách và ham cả rượu chè. Cha Meredith, một nông dân sinh ra ở xứ Wales, quý mến Franklin, đặc biệt vì anh đã thuyết phục con trai ông tránh xa việc uống rượu (ít nhất là tạm thời). Ông đồng ý cấp một số vốn cần thiết (200 bảng) để hai chàng trai bắt đầu hợp tác làm ăn, trong đó phần đóng góp của Franklin là tài năng của anh. Họ gửi mua thiết bị từ London.* Hàng về đến nơi đầu năm 1728 ngay sau khi Franklin chấm dứt hợp đồng và Meredith kết thúc kỳ học việc.
Hai người đối tác nói lời từ biệt với ông chủ kém may mắn Keimer, thuê một ngôi nhà trên Phố Chợ, mở xưởng và nhanh chóng được phục vụ khách hàng đầu tiên, một nông dân do một bạn hữu giới thiệu tới. “Năm shilling của người đàn ông này là thành quả đầu tiên của chúng tôi và nó đến thật đúng lúc, đem lại cho tôi niềm vui sướng lớn hơn bất cứ đồng curon* nào tôi kiếm được từ đó.”
Công việc kinh doanh thành công phần lớn do sự cần cù của Franklin. Khi họ được một nhóm tín hữu Quaker thuê in 178 trang sử của họ, phần còn lại sẽ do Keimer in, mỗi tối Franklin không rời xưởng cho đến khi đã hoàn tất một folio* bốn trang. Thường anh phải làm việc đến quá 11 giờ khuya. Một đêm, ngay khi anh đang hoàn thiện tờ in của ngày hôm đó, chiếc khuôn rơi ra và vỡ; thế là Franklin phải thức cả đêm để làm lại. “Sự cần cù mà ngay cả hàng xóm của chúng tôi cũng có thể thấy được bắt đầu đem lại cho chúng tôi danh tiếng và uy tín,” Franklin nhớ lại. Một trong những thương gia nổi tiếng của thành phố đã nói với các thành viên trong câu lạc bộ của ông rằng: “Sự cần cù của anh chàng Franklin này vượt xa bất cứ người nào tôi từng gặp; tôi thấy anh ta vẫn đang làm việc khi tôi rời câu lạc bộ về nhà, và trước khi hàng xóm ra khỏi giường, anh ta đã lại bắt đầu làm việc.”
Franklin trở thành ông tổ truyền bá đức tính cần cù - và việc tỏ ra cần cù cũng quan trọng không kém. Ngay cả khi đã thành công, anh vẫn cho mọi người thấy hình ảnh anh tự thồ những cuộn giấy đã mua bằng xe cút kít, xuôi xuống phố hướng về phía nhà in, thay vì thuê người làm việc đó.4
Trái lại, Meredith không hề cần cù và uống rượu trở lại. Thêm vào đó, cha anh ta chỉ mới trả một nửa số tiền mua thiết bị ông đã hứa hẹn, khiến các nhà cung cấp phải viết thư đe dọa. Franklin tìm được hai người bạn sẵn lòng cung cấp tài chính cho anh với điều kiện anh phải vứt bỏ Meredith. May mắn là Meredith nhận thấy tốt hơn cả anh ta nên trở lại với công việc đồng áng. Mọi thứ kết thúc tốt đẹp: Meredith đồng ý cho Franklin hoàn lại tiền để chấm dứt hợp tác, trở về vùng Carolina và sau này viết những lá thư tả cảnh đồng quê nơi đây. Chúng được Franklin xuất bản.
Vậy là cuối cùng Franklin đã có một nhà in của riêng mình. Hơn thế nữa, anh đã có một sự nghiệp. Nghề in và các nghề liên quan - chủ bút, nhà văn, nhà báo, chủ bưu điện - bắt đầu không còn là một công việc đơn thuần mà là một tiếng gọi thú vị, vừa cao quý vừa vui thích. Trong cuộc đời dài sau này, anh sẽ có nhiều sự nghiệp khác: nhà khoa học, chính trị gia, chính khách, nhà ngoại giao. Song từ đây anh luôn nhận diện bản thân theo cách mà ông lão Franklin 60 năm sau sẽ viết ở những dòng mở đầu cho ước nguyện sau cùng trong di chúc: “Tôi là Benjamin Franklin người Philadelphia, chủ nhà in.”5
HỘI KÍNFranklin là người giỏi kết nối. Anh thích kết hợp đời sống công dân với đời sống xã hội và vui vẻ dùng cả hai làm đòn bẩy thúc đẩy đời sống kinh doanh. Cách tiếp cận này thể hiện rõ ở việc anh thành lập một hội của những người lao động trẻ vào mùa thu năm 1727, một thời gian ngắn sau khi trở về Philadelphia. Nó được biết đến rộng rãi với cái tên Câu lạc bộ Tạp dề da và được đặt tên chính thức là Hội Kín.
Câu lạc bộ nhỏ của Franklin gồm các thương nhân và thợ thủ công dám nghĩ dám làm chứ không phải giới tinh hoa trong xã hội, vốn đã có những câu lạc bộ quý ông hào nhoáng hơn. Ban đầu, các thành viên họp mặt ở một quán rượu trong vùng vào mỗi chiều thứ Sáu, song chẳng bao lâu họ đã thuê được một ngôi nhà riêng. Tại đây họ bình luận các vấn đề thời sự, tranh luận các đề tài có tính triết lý và vạch ra các kế hoạch để hoàn thiện bản thân và thiết lập một mạng lưới để mở mang sự nghiệp của mình.
Franklin một là người dám nghĩ dám làm điển hình, luôn sẵn lòng tổ chức các hội nhóm vì lợi ích chung, và đó cũng là đặc trưng kiểu Mỹ. Khi trong lòng nước Mỹ, tầng lớp trung lưu của các chủ cửa hiệu dần phát triển, người dân đã cân bằng các đặc tính cá nhân chủ nghĩa với thiên hướng thành lập các câu lạc bộ, bang nhóm, đoàn thể và hội kín. Franklin là hình ảnh thu nhỏ cho sự thôi thúc này của các câu lạc bộ quay và sau hơn hai thế kỷ vẫn là biểu tượng của nó.*
Hội Kín của Franklin ban đầu có 12 thành viên trẻ, trong đó có Hugh Meredith, người cùng mở xưởng in với anh; George Webb, một sinh viên Oxford bỏ trốn, hài hước nhưng khinh suất, cũng đang học việc tại nhà in của Keimer; Thomas Godfrey, một thợ thủy tinh và nhà toán học nghiệp dư; Joseph Breintnall, một người quản lý văn khế yêu thơ ca; Robert Grace, một thanh niên hào phóng và thích chơi chữ, gia đình thuộc loại có tiền; và William Coleman, một nhân viên bán hàng thông minh, tốt bụng và có đức tính kiên trì, sau này trở thành một thương gia xuất sắc.
Không chỉ là những người bạn tử tế cùng câu lạc bộ, các thành viên Hội Kín thường giúp đỡ lẫn nhau cả trong đời sống cá nhân và nghề nghiệp. Godfrey ăn cơm tháng ở nhà in của Franklin và vợ anh nấu cho cả hai người. Breintnall là người bạn giúp anh nhận được đơn đặt hàng của các tín hữu Quaker. Còn Grace và Coleman đã tài trợ vốn cho Franklin khi anh ngừng hợp tác với Meredith.
Phong cách mà Franklin đặt ra cho các cuộc họp của Hội Kín là nghiêm trang. Những thành viên mới gia nhập phải đứng dậy, đặt tay lên ngực và trả lời đầy đủ bốn câu hỏi: Anh có thiếu tôn trọng bất cứ thành viên hiện tại nào không? Anh có yêu nhân loại nói chung, bất kể tôn giáo và nghề nghiệp không? Anh có cảm thấy nên trừng phạt con người vì chủ kiến hay tín ngưỡng của họ không? Anh có yêu và theo đuổi sự thật để phụng sự chính nó không?
Franklin lo lắng rằng sự yêu thích trò chuyện và nỗi háo hức gây ấn tượng dễ khiến anh sa đà vào “kể chuyện tầm phào, chơi chữ và chọc cười, điều mà chỉ các bạn hữu tầm thường mới có thể chấp nhận ở tôi”. Anh nhận thấy kiến thức “được tiếp thu bằng tai dễ hơn bằng lưỡi”. Bởi vậy, trong Hội Kín, anh bắt đầu tập vận dụng sự im lặng và lối đối thoại nhẹ nhàng.
Phương pháp theo đuổi chủ đề thông qua chuỗi truy vấn Socrates nhẹ nhàng được Franklin phát triển qua các cuộc tập tranh luận với John Collins ở Boston và sau đó là các cuộc đàm luận với Keimer. Phương pháp này đã trở thành phong cách được ưu tiên tại các cuộc họp của Hội Kín. Việc thảo luận được tiến hành “không phải kiểu cãi lấy được hay vì hiếu thắng”. Franklin dạy cho bạn bè cách đưa ra ý kiến thông qua các gợi ý và câu hỏi và dùng sự tò mò ngây ngô (hoặc ít ra là giả vờ) để tránh đối đầu với người khác theo cách có thể xúc phạm. Anh nhớ lại: “Mọi biểu hiện của sự cương quyết trong ý kiến hoặc của sự phủ nhận trực tiếp sẽ phải chịu những khoản tiền phạt nhỏ.” Đây chính là phương pháp mà 60 năm sau Franklin đã đề xuất áp dụng tại Đại hội lập hiến.
Trong bài báo hóm hỉnh có tiêu đề “Bàn về đối thoại” được Franklin viết không lâu sau khi thành lập Hội Kín, anh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chiều theo người khác, hoặc ít nhất là việc tỏ vẻ như vậy. Nếu không, kể cả các bình luận khôn khéo nhất cũng “gây ra sự đố kỵ và phẫn nộ”. Bí quyết lấy lòng bạn bè và ảnh hưởng tới mọi người của Franklin khi đọc lên ban đầu có vẻ giống như một khóa học Dale Carnegie:* “Để giành được trái tim của người khác, bạn không được phép tỏ ra ganh đua mà phải ngưỡng mộ họ. Hãy cho họ mọi cơ hội thể hiện khả năng của mình. Khi bạn đã nuông chiều thói ưa hư danh của họ, sẽ đến lượt họ ca ngợi bạn và đặt bạn lên trên mọi người khác... Thói ưa hư danh của con người lớn tới mức việc chúng ta để tâm đến lời nói của người khác là cách làm vừa lòng họ chắc ăn hơn nhiều so với việc cố thuyết phục thật hay.”6
Những lỗi khác trong danh sách của anh, theo thứ tự gồm: tỏ ra thờ ơ, nói quá nhiều về đời sống riêng, soi mói bí mật cá nhân (“một sự thô lỗ không thể tha thứ”), kể các câu chuyện dài và vô nghĩa (“người già cả thường mắc lỗi này, đó là một lý do thường khiến những người bên cạnh họ muốn tránh xa”), phủ nhận hay phản bác ai trực tiếp, chế giễu hay nhiếc móc mọi thứ trừ khi ở mức độ nhẹ đủ để trở thành dí dỏm (“giống như một chút muối đem lại hương vị cho món ăn nhưng nếu bỏ cả nắm vào sẽ làm hỏng tất cả”), và tung lời gièm pha (dù về sau anh có viết những bài biện hộ nhẹ nhàng cho thói ngồi lê đôi mách).
Càng trưởng thành hơn, Franklin càng học được cách thực hiện lời khuyên của chính mình (với một vài sai sót đáng kể). Anh dùng sự im lặng một cách khéo léo, vận dụng phương pháp thuyết phục gián tiếp và luôn giả vờ khiêm tốn, ngây thơ trong các cuộc tranh luận. “Khi ai đó khẳng định điều gì mà tôi nghĩ là sai, tôi không cho phép bản thân vui sướng với việc phản bác họ.” Trái lại, anh sẽ đồng ý một phần rồi gián tiếp đưa ra ý kiến khác. “Suốt 50 năm qua, chưa ai từng thấy một biểu hiện độc đoán nào từ nơi tôi”, Franklin nhớ lại trong hồi ký. Phong cách tranh luận thận trọng dùng lời lẽ mềm mại và sự thụ động uyển chuyển này khiến một số người cho rằng anh khôn ngoan, trong khi nhiều người khác cho rằng anh chỉ giỏi luồn lọt và gạt gẫm, nhưng gần như nó chưa bao giờ làm ai nổi đóa. Phương pháp đó cùng với sự nhắc nhớ về Franklin thường là một nội dung trọng yếu trong những cuốn sách hiện đại về quản trị và tự hoàn thiện bản thân.
Dù là thành viên trẻ nhất của Hội, với sức hút của trí tuệ và sự duyên dáng trong lối ăn nói, Franklin không chỉ là người sáng lập mà còn là động lực của nó. Các đề tài được thảo luận trải rộng từ xã hội sang khoa học và cả siêu hình. Chúng đa phần đều nghiêm túc, một số hơi kỳ quặc, nhưng tất cả đều hấp dẫn. Liệu việc nhập cảng nhân công giao kèo có làm nước Mỹ giàu có hơn?* Điều gì làm nên một áng văn hay? Vì sao hơi nước ngưng tụ trên một chiếc cốc lạnh? Điều gì đem lại hạnh phúc? Minh triết là gì? Có gì khác nhau giữa tri thức và sự khôn ngoan? Nếu một quyền lực tối cao tước bỏ các quyền lợi của một công dân, việc anh ta phản kháng có chính đáng không?
Ngoài các chủ đề tranh luận trên, Franklin còn đưa ra hướng dẫn về cách đóng góp hữu ích cho những cuộc đối thoại mà mỗi thành viên có thể thực hiện. Tất cả gồm 24 điểm, và bởi tính thực tế của chúng bộc lộ cách tiếp cận có mục đích của Franklin, chúng cần được trích dẫn chi tiết:
#1. Anh có bắt gặp ở tác giả anh mới đọc điều gì đáng chú ý hoặc phù hợp để chia sẻ với Hội Kín?...
#2. Gần đây anh có nghe được chuyện gì thích hợp để kể trong các cuộc đàm luận?
#3. Gần đây anh có biết cư dân nào thất bại trong việc làm ăn, và anh có biết nguyên do của nó?
#4. Gần đây anh có biết cư dân nào làm ăn phát đạt và bằng phương cách nào?
#5. Gần đây anh có biết bằng cách nào một người giàu có hiện nay, ở đây hoặc nơi khác, có được số tài sản đó?
#6. Anh có biết một người đồng hương nào gần đây đã làm một việc đáng khen ngợi và học hỏi, hoặc đã làm một việc sai trái mà chúng ta phải cảnh báo và tránh xa?
#7. Gần đây anh có quan sát hoặc biết được các hệ quả không hay nào của thái độ không đúng mực, của sự thiếu thận trọng, của nỗi giận dữ, hoặc của bất cứ thói xấu hay hành động dại dột nào khác?
#12. Anh có biết người lạ mặt đáng khen nào mới đến thành phố kể từ lần họp trước? Anh biết gì về tính cách hay phẩm chất của người đó? Anh có nghĩ việc giúp đỡ hoặc khích lệ người đó vì anh ta xứng đáng nằm trong tầm tay của Hội Kín?
#14. Gần đây anh có nhận thấy điểm bất cập nào trong luật pháp nước mình và nghĩ rằng việc vận động cơ quan lập pháp sửa đổi điểm này là thích hợp?
#15. Gần đây anh có để ý thấy hành vi nào xâm phạm các quyền tự do của con người?
#16. Gần đây có kẻ nào công kích thanh danh của anh và Hội Kín có thể làm gì để bảo vệ nó?
#17. Có người nào anh muốn kết bạn cùng, và Hội Kín hay bất cứ thành viên nào của Hội có thể làm gì để tạo cơ hội cho anh?
#20. Hội Kín hoặc bất cứ thành viên nào của Hội có thể giúp đỡ anh thực hiện một kế hoạch đáng quý nào đó của anh theo cách thức nào?7
Franklin sử dụng Hội Kín như một bệ phóng cho rất nhiều ý tưởng phục vụ cộng đồng của mình. Hội đã sớm thảo luận về việc liệu Pennsylvania có nên tăng cung tiền giấy, một đề xuất mà Franklin hết lòng ủng hộ vì nghĩ nó sẽ làm lợi cho nền kinh tế và tất nhiên cả công việc in ấn của anh. (Franklin và nói rộng ra là Hội Kín hết sức quan tâm đến những việc có ích cho cả cộng đồng và bản thân.) Khi Hội Kín chuyển đến ngôi nhà thuê, họ đã lập một thư viện với sách do các thành viên góp vào. Nó chính là tiền thân của thư viện đóng phí đầu tiên ở nước Mỹ sau này. Qua Hội Kín, Franklin còn đưa ra các đề xuất về việc đặt một sắc thuế để trả lương cho công an địa phương, thành lập lực lượng cứu hỏa tình nguyện và thành lập một học viện, về sau trở thành Đại học Pennsylvania.
Nhiều quy tắc và câu hỏi mà Franklin đặt ra cho Hội Kín cũng tương tự với những gì Mather từng đặt ra trước đó một thế hệ cho các hội từ thiện lân gia tại Boston, dù ít tính phán xét hơn một chút. Thí dụ, một trong số các câu hỏi của Mather là: “Có hành vi bừa bãi của một người cụ thể nào tai tiếng và lộ liễu đến mức chúng ta cần phải gửi tới người đó những lời răn dạy nhân từ?” Franklin đã đọc bài luận Các Hội Ái hữu của Daniel Defoe và Các quy tắc của một hội gặp gỡ hàng tuần vì sự tiến bộ của tri thức hữu dụng và cũng xem chúng như mẫu mực để làm theo.8
Song nhìn chung với tinh thần nghiêm túc, chú trọng sự tự hoàn thiện, Hội Kín là một sản phẩm của chính diện mạo Franklin và một phần dấu ấn của anh lên nhân cách Mỹ. Hội Kín nở rộ trong suốt 30 năm anh giữ vị trí lãnh đạo. Dù nó hoạt động tương đối bí mật, song có quá nhiều người muốn gia nhập đến mức Franklin trao quyền cho các thành viên tự thành lập hội vệ tinh cho mình. Bốn hoặc năm chi nhánh như thế đã phát triển mạnh và Hội Kín đóng vai trò như sự mở rộng và khuếch đại bản tính công dân thích giao tế của anh. Cũng như chính Franklin, nó thực dụng, cần cù, hiếu kỳ, thích tiệc tùng và có tính triết lý vừa phải. Nó tán dương đạo đức công dân, lợi ích chung, sự hoàn thiện bản thân và xã hội cùng quan điểm cho rằng những công dân cần cù có thể làm giàu nhờ làm việc tốt. Nói tóm lại, nó chính là một cộng đồng được Franklin tạo hình.
TIỂU LUẬN KÝ TÊN NGƯỜI BẬN RỘNĐiều hành kinh doanh theo cách của mình với sự căn cơ, tính cần cù và được mạng lưới thành viên Hội Kín hỗ trợ, Franklin đảm nhận tốt vai trò khiêm tốn: là một trong ba nhà in của một thành phố vốn thường chỉ đủ chỗ cho hai. Song điều anh rút ra từ thời gian tập sự ở Boston là, thành công thật sự sẽ đến nếu anh không chỉ thực hiện tác vụ in mà còn cần có hệ thống nội dung và phân phối riêng. Đối thủ Andrew Bradford của anh hiện đang xuất bản tờ báo duy nhất ở thành phố; tuy có nội dung tầm thường nhưng đem lại lợi nhuận cao. Điều này có ích cho việc in ấn của Bradford bởi nó giúp anh ta gây ảnh hưởng tới các thương nhân và chính trị gia. Anh ta cũng là một giám đốc bưu điện, vì thế nắm quyền kiểm soát nhất định các tờ báo được phát hành và tiếp cận sớm nhất tin tức từ xa đến.
Franklin quyết tâm đối đấu với Bradford, và một thập kỷ sau, anh đã xây dựng thành công một tập đoàn truyền thông có cả năng lực sản xuất (nghiệp vụ in ấn, các nhà in được nhượng quyền tại các thành phố khác), sản phẩm (tờ báo, tạp chí, niên giám), nội dung (các tác phẩm của chính anh hay Richard Nghèo Khổ, một hiện thân khác của anh và của các thành viên Hội Kín), và phân phối (cuối cùng là toàn bộ hệ thống bưu điện ở xứ thuộc địa).
Thứ xuất hiện đầu tiên là tờ báo. Franklin quyết định tung ra một ấn phẩm cạnh tranh với tờ Tuần báo Sao Thủy Hoa Kỳ* của Bradford, nhưng anh mắc sai lầm khi tiết lộ kế hoạch với George Webb, một thành viên Hội Kín đồng thời đang học việc ở nhà in của Keimer. Trước sự bủn rủn của Franklin, Webb đã cho Keimer biết và ông ta lập tức tung ra một tờ báo cẩu thả của riêng mình và đặt cho nó cái tên nặng nề Người thầy vạn năng của tất cả nghệ thuật và khoa học, và Nhật báo Pennsylvania. Franklin nhận thấy việc tung ra một tờ báo thứ ba ngay lúc đó sẽ rất khó khăn và anh cũng không đủ vốn. Vì thế, anh lên kế hoạch đầu tiên phải dẹp tờ báo của Keimer bằng cách sử dụng vũ khí lợi hại nhất mà anh có: sự thật, anh là cây bút xuất sắc nhất ở Philadelphia; và có lẽ ở tuổi 23, anh là người có tài viết văn hài hước nhất trên trên toàn xứ Mỹ. (Carl Van Doren, người viết tiểu sử Franklin và là nhà phê bình văn học lớn của thập niên 1930, đã thẳng thắn tuyên bố: năm 1728, Franklin “là cây bút xuất sắc nhất tại Mỹ”. Đối thủ nặng ký nhất cho danh hiệu này lúc đó có lẽ là nhà thuyết giáo Jonathan Edwards* - người chắc chắn sôi nổi và văn vẻ hơn song lại ít khéo léo và hài hước hơn nhiều.)
Ra đòn cạnh tranh gián tiếp, Franklin quyết định viết một loạt thư tín và tiểu luận giấu tên tương tự như những bài báo dưới bút danh Silence Dogood khi xưa và gửi cho tờ Sao Thủy của Bradford để kéo sự chú ý của độc giả ra khỏi tờ báo của Keimer. Mục đích của anh là làm cho tờ báo tẻ nhạt của Bradford trở nên sinh động, ít nhất cho đến khi Keimer bị đánh bại, vì trong suốt mười năm nó chưa từng đăng tải các bài đặc ký như thế.*
Hai bài đầu tiên là những cú tấn công vào Keimer tội nghiệp, người đang cho đăng từng số các mục từ của một cuốn bách khoa toàn thư. Trong số đầu tiên, ông ta ngây thơ đến mức đăng một bài về việc phá thai. Franklin chớp ngay lấy cơ hội. Dưới các bút danh “Martha Cẩn thận” và “Celia Mặt ngắn”, anh gửi thư tới tờ báo của Bradford, giả vờ bày tỏ nỗi sửng sốt và căm phẫn trước hành động xúc phạm của Keimer. Quý cô Martha hăm dọa: “Nếu ông ta tiếp tục lấn tới phơi bày các bí mật của giới chúng tôi theo cách trơ tráo đó, phụ nữ sẽ chẳng ngại túm lấy chòm râu cùa ông ta khi chạm mặt lần tới.” Vậy là Franklin đã tạo ra cuộc tranh luận đầu tiên được ghi nhận ở Mỹ về đề tài phá thai, không phải vì anh có cảm xúc mạnh mẽ đối với nó, mà vì anh biết nó sẽ khiến tờ báo đắt hàng.
Tuần tiếp theo, Franklin tung ra một loạt tiểu luận cổ điển ký tên “Busy-Body” (Người Bận rộn), được Bradford đăng trên trang nhất với một dòng ghi tên tác giả cỡ lớn. Franklin tự viết ít nhất bốn bài và viết chung hai bài khác trước khi chuyển giao loạt bài cho Joseph Breintnall, một hội viên Hội Kín. “Bằng cách đó, công chúng đã gắn chặt sự chú ý vào tờ báo này; không còn ai đếm xỉa đến các đề xuất của Keimer mà chúng tôi nhại lại và chế giễu.”9
Người Bận rộn bắt đầu với việc khéo léo chứng minh các thiếu sót trong tờ báo của Bradford (“thường khi rất nhạt nhẽo”) và tỏ rõ ý định của mình - làm nó hay hơn (ít nhất là tạm thời). Anh làm điều này thông qua việc đóng vai một người đàn bà hay gắt gỏng và ba hoa, với các đặc điểm tương tự nhân vật Isaac Bickerstaff mà nhà văn tiểu luận người Anh Richard Steele đã sáng tạo ra.* Nhờ đó, Franklin thêm vị trí chủ mục lượm lặt* vào danh sách các việc mà anh là người đầu tiên làm ở nước Mỹ. Anh cũng sẵn sàng thừa nhận về cơ bản đây “không phải là việc của ai” nhưng tự nguyện “nhận hết những việc không ai làm này về tay mình” vì “sốt sắng với lợi ích cộng đồng”. Anh cảnh báo một số người có thể sẽ cảm thấy bị xúc phạm. Song anh chỉ ra đâu là sự hấp dẫn cơ bản của việc ngồi lê đôi mách: “Bởi đa phần mọi người đều thích chỉ trích khi họ không phải là đối tượng bị chỉ trích, nếu ai thấy bị xúc phạm khi tôi phơi bày công khai các thói tật riêng tư của họ, tôi cam đoan chẳng bao lâu họ sẽ được thỏa nguyện khi thấy bạn hữu và láng giềng tốt của mình cũng rơi vào tình cảnh tương tự.”
Keimer đáp lại bằng lời khuyên bảo lỗi thời rằng loạt bài Người Bận rộn thoạt tiên có thể đem lại cho độc giả tờ báo của Bradford “sự kỳ vọng rằng giờ đây, khi bỏ tiền ra họ sẽ có được chút tiêu khiển”, song họ sẽ sớm cảm nhận được “nỗi đau khổ thầm kín khi thấy danh dự của những người hàng xóm bị hủy hoại”. Khi Người Bận rộn vui vẻ tiếp tục đăng tải những lời châm chọc của mình, Keimer bị kích động và bắt đầu to tiếng hơn. Ông ta đáp lại bằng một bài vè trúc trắc: “Các ngươi bóng gió về ta trên mặt báo. Điều đó khiến ta giờ đây phải rút đao. Bằng con mắt khinh bỉ, ta biết rõ các ngươi ganh ghét thế nào. Thương thay, số phận các ngươi mới hẩm hiu làm sao.” Keimer đăng nó cùng một câu chuyện được đan cài vào, có nhan đề “Màu sắc và tiếng khóc phía sau Người Bận rộn” minh họa Franklin và Breintnall như một con quái vật hai đầu, trong đó Franklin được miêu tả là “một con dã nhân thu nhỏ... với bộ lông xơ xác và xương sọ dày như đế giày”.10
Vậy là Keimer đã trở thành một trong những đối thủ công khai đầu tiên của Franklin. Sự phản trắc, cuộc chiến báo chí và trận đấu tiểu luận tay đôi, tất cả sẽ tái diễn một thập kỷ sau đó khi Franklin và Bradford quyết định cho ra mắt các tạp chí của mình.
Đáng tiếc cho những ai thích được chọc cười, các tiểu luận của Người Bận rộn thực tế không cung cấp nhiều tin đồn. Ngược lại, chúng thường là những câu chuyện khéo léo kể về các nguyên mẫu ngoài đời thực được che đậy sơ sài (đã có lần độc giả tìm cách công bố lời giải ai là nhân vật được đề cập trong tiểu luận). Franklin dùng cách mà ngày nay đã thành chuẩn mực của lời từ chối trách nhiệm lắt léo: “Nếu có bất cứ nhân vật xấu nào vô tình được tạo ra trong các bài viết này, chúng không ám chỉ người nào cụ thể.”
Tiểu luận ký tên Người Bận rộn do Franklin chắp bút chính cuối cùng đã chế giễu những người đi tìm kho báu bằng cách dùng que dò và đào bới các khu rừng đề tìm ra nơi hải tặc chôn giấu của cải ăn cướp. “Những người vốn đầy đủ tri giác lại bị cuốn vào việc này bởi ham muốn tự phụ được giàu lên nhanh chóng; trong khi cách thức hợp lý và gần như chắc chắn nhất để đạt tới sự giàu có thông qua đức tính chăm chỉ và căn cơ lại bị sao lãng,” anh viết. Câu chuyện ngụ ý - đòn giáng vào các kế hoạch làm giàu chớp nhoáng đang sôi sục thời đó - còn tiếp tục trình bày luận đề yêu thích của Franklin: sự cẩn mẫn chậm mà chắc là con đường chân chính dẫn tới sự sung túc. Anh kết lại bằng cách dẫn lời người bạn tưởng tượng Agricola đã nói khi trao cho con trai một thửa đất: “Cha đoan chắc đã tìm thấy khá nhiều vàng khi đào bới ở nơi đây và con cũng có thể làm như thế. Nhưng con phải luôn ghi nhớ điều này: đừng bao giờ đào sâu hơn độ sâu của chiếc lưỡi cày.”
Phần sau của bài tiểu luận ủng hộ việc tăng cung tiền giấy cho Pennsylvania. Franklin là người viết chính phần này, với một phần nhỏ do Breintnall viết. Franklin ngụ ý rằng những ai phản đối việc tăng cung tiền giấy đều chỉ bảo vệ lợi ích tài chính của họ dù anh dĩ nhiên cũng có lợi ích tài chính riêng khi ủng hộ việc gia tăng in ấn. Anh còn tung ra cú đầu tiên trong số nhiều cú đòn nhằm vào giới nghiệp chủ của tỉnh, gia đình nhà Penn và vị thống đốc do họ chỉ định, bằng cách ám chỉ họ đang cố gắng biến số đông cư dân Pennsylvania thành “các tá điền và người hầu của mình”. Kết luận này bị xóa bỏ trong hầu hết các bản in tờ báo của Bradford, có lẽ vì Bradford là đồng minh với nhà Penn và phe cánh của họ.11
Một nguyên cớ khác của việc giữ lại phần viết về tiền giấy là vì, Franklin đã viết một tiểu luận khác sắc sảo hơn nhiều bàn về chủ đề này. Anh đưa ra thảo luận trong Hội Kín và tuần sau đó xuất bản nó dưới dạng một cuốn sách nhỏ. “Truy vấn Khiêm nhường về Bản chất và Tính thiết yếu của Tiền giấy” là phân tích nghiêm túc đầu tiên của Franklin về chính sách công và nó trình bày tốt hơn nhiều so với sự mơ màng siêu hình của anh về tôn giáo. Tiền tệ là một khái niệm anh có cảm thức rõ ràng chứ không như các khái niệm thần học trừu tượng.
Franklin lập luận rằng cung tiền không đủ sẽ đẩy lãi suất lên cao, cố định lương bổng ở mức thấp và làm tăng sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Anh cáo buộc các tài chủ và nghiệp chủ lớn phản đối gia tăng cung tiền là do những động cơ ích kỷ, trong khi “những người yêu thương mại và vui mừng khi thấy các ngành sản xuất được thúc đẩy sẽ ủng hộ việc tăng đáng kể lượng cung tiền”. Franklin sáng suốt nhận thấy tiền tệ mạnh như vàng, bạc không phải là biện pháp đích thực dẫn tới sự giàu có của quốc gia: “Tài sản của một quốc gia phải được tính bằng lượng lao động mà người dân của quốc gia đó có thể mua, chứ không phải số vàng bạc mà nó sở hữu.”
Tiểu luận này rất được lòng người, ngoại trừ tầng lớp giàu có. Nó góp phần thuyết phục các nhà lập pháp chấp thuận đề xuất tăng cung tiền giấy. Tuy Bradford là người đầu tiên được ủy thác in một phần số tiền, nhưng Franklin được giao lượt in thứ hai. Với tinh thần mà Richard Nghèo Khổ gọi là “làm giàu nhờ làm việc tốt”, anh không phản đối việc kết hợp lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng. Bạn bè của anh ở trong hội đồng lập pháp, những người tin rằng anh “đã góp sức nhất định, thấy tưởng thưởng cho tôi bằng cách thuê tôi in tiền là việc phù hợp, nó đem lại nhiều lợi nhuận và giúp ích cho tôi rất lớn. Đây là một lợi thế khác mà khả năng viết lách của tôi đem lại.”12
NHẬT BÁO PENNSYLVANIA
Kế hoạch đẩy Keimer đến chỗ phá sản của Franklin đã sớm thành công - nó được hậu thuẫn bởi chính sự bất tài và bất lực trong việc phớt lờ những đòn công kích của vị chủ nhà in lập dị này. Keimer sa vào nợ nần và bị bỏ tù một thời gian ngắn, sau đó lánh đến Barbados. Trước khi đi, ông ta bán lại tờ báo của mình cho Franklin. Bỏ hết các bài báo được đăng tuần tự như một cuốn bách khoa toàn thư và một phần tên gọi trúc trắc của tờ báo, Franklin trở thành vị chủ bút đáng tự hào của tờ Nhật báo Pennsylvania vào tháng 10 năm 1729. Trong lá thư ngỏ đầu tiên gửi độc giả, anh tuyên bố, “nhiều người từ lâu đã khao khát được thấy một tờ báo hay ở Pennsylvania” - câu nói này châm chọc cả Keimer và Bradford.13
Có rất nhiều kiểu chủ bút báo chí khác nhau. Một số người là những chiến binh ý thức hệ; họ may mắn có chủ kiến rõ ràng, niềm say mê mang tính đảng phái hay khao khát thách thức nhà cầm quyền. Anh trai của Benjamin, James, vốn thuộc nhóm này. Trái lại, một số người thích quyền lực và thích gần gũi nó; họ sống thoải mái với trật tự sẵn có và cảm thấy được trọng dụng trong trật tự đó. Đối thủ cạnh tranh của Franklin ở Philadelphia, Andrew Bradford, thuộc nhóm này.
Lại có những người bị hấp dẫn và tìm thấy niềm vui nơi thế giới xung quanh, đồng thời thích thú với việc hấp dẫn và đem lại niềm vui cho người khác. Họ có xu hướng hoài nghi cả tính chính thống lẫn dị giáo, nhưng rất chân thành trong nỗi khao khát đi tìm chân lý và luôn ủng hộ cải biến xã hội (cũng như bán báo). Đó chính là nhóm của Franklin. Anh được trời phú và bị ảnh hưởng bởi nét đặc trưng quen thuộc của các ký giả, nhất là những ai đã từng đọc Swift và Addison quá thường xuyên. Họ mong muốn dự phần vào thế giới trong khi vẫn giữ vị thế một người quan sát khách quan. Trong vai trò một ký giả, anh có thể bước ra khỏi tình huống, cho dù đó là một tình huống lôi cuốn anh đến mức đắm đuối, và bình luận về nó hoặc về bản thân bằng một sự mỉa mai khôi hài. Nơi tận cùng đức tin của anh thường bị che giấu sau thói quen nháy mắt ra vẻ đầy hiểu biết.
Giống hầu hết những tờ báo khác cùng thời, tờ Nhật báo Pennsylvania của Franklin không chỉ đăng những mẩu tin ngắn và các bài tường thuật sự kiện cộng đồng mà còn có cả những tiểu luận vui và thư tín của độc giả. Điều làm cho tờ báo của anh hấp dẫn là sự đa dạng của loại thư tín này - đa phần trong đó được chính Franklin viết ra dưới tên giả. Chiêu viết thư dưới danh nghĩa độc giả giúp Franklin thoải mái hơn khi đem các đối thủ ra châm chọc, tận hưởng những tin đồn nhảm, trốn tránh được lời hứa cá nhân (không nói xấu ai) và thử nghiệm những triết lý mà anh đang phát triển.
Bằng một mưu mẹo khôn ngoan cổ điển, Franklin tìm cách đính chính lỗi in ấn của mình. Anh đưa tin có người chết (“died”) ở một nhà hàng trong khi ý của anh là người đó ăn tối (“dined”) ở đây. Anh soạn ra một lá thư của một độc giả “J.T.” giả tưởng, bày tỏ nỗi bất bình với những lỗi in ấn khác. Thí dụ, một bản in Kinh Thánh dẫn lời David nói ông “điên rồ (“mad”) một cách tuyệt vời” trong khi lẽ ra phải là được tạo ra (“made”). Sai sót đó khiến “một nhà thuyết giáo dốt nát đã giảng cho các cử tọa suốt nửa giờ về chủ đề sự điên loạn của linh hồn”. Kế đó, Franklin tiếp tục (dưới danh nghĩa của J.T.) khen ngợi chính tờ báo của mình và chỉ ra lỗi in ấn tương tự trong tờ báo đối thủ, phê phán Bradford vì “nói chung có tính tùy tiện hơn” và (với sự mỉa mai ngọt xớt) ca ngợi việc Franklin đã không chê trách Bradford: “Tờ báo của ông về tổng thể rất chuẩn xác nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông thừa thắng, ỷ vào đó để nhạo báng công khai và phơi bày các sai sót liên tiếp của đồng nghiệp.” Franklin thậm chí còn biến lòng khiêm tốn giả tạo này thành một châm ngôn nhằm tha thứ cho lỗi in ấn của chính mình: “Bất cứ ai tập cho bản thân thói quen im lặng bỏ qua những lỗi lầm của láng giềng, người đó sẽ được thế gian ban cho sự tha thứ lớn hơn nhiều khi chính anh ta mắc phải lỗi lầm tương tự.”14
Cuộc chiến báo chí giữa Franklin và Bradford gồm cả những bản tin riêng và những câu chuyện bị ăn cắp. “Bởi ông Bradford xuất bản sau chúng tôi và từng lấy bài từ tờ Nhật báo một đôi lần - việc mà ông ta luôn sẵn sàng làm - tôi chỉ mong ông ta không ghi ngày tháng trên tờ báo của mình trước tờ báo của chúng tôi một ngày, kẻo người đọc lầm tưởng chúng tôi lấy bài của ông ta, điều mà chúng tôi luôn thận trọng tránh.”
Cuộc cạnh tranh giữa họ đã kéo dài được một năm khi Franklin tiến hành vận động để giành lấy vị trí nhà in chính thức của Hội đồng Lập pháp Pennsylvania từ tay Bradford. Anh bắt đầu xây dựng mối quan hệ với một số thành viên, đặc biệt là những người thuộc phái chống lại quyền lực của nhà Penn và những người ủng hộ họ thuộc giới thượng lưu. Sau khi Bradford in bài phát biểu của vị thống đốc trước Hội đồng Lập pháp theo “một cách thô lỗ và ngớ ngẩn”, Franklin biết thời cơ của mình đã đến. Anh in thông điệp tương tự “một cách lịch lãm và chuẩn xác”, như anh mô tả, và gửi nó tới từng thành viên. “Điều này tiếp thêm sức mạnh cho các bạn hữu của chúng tôi trong Nghị viện và họ đã chọn chúng tôi làm nhà in cho mình”, Franklin sau này nhớ lại.15
Kể cả khi hoạt động chính trị nhiều hơn, Franklin vẫn tránh để tờ báo của mình có tính bè phái gay gắt. Anh thể hiện tuyên ngôn chủ bút của mình trong bài xã luận nổi tiếng trên tờ Nhật báo - “Lời biên bạch cho các chủ nhà in” - đến nay vẫn là một trong những bài hùng biện xuất sắc và mạnh mẽ nhất bảo vệ quyền tự do báo chí.
Ý kiến của con người “cũng đa dạng gần như gương mặt họ”, Franklin viết. Công việc của các nhà in là để cho con người biểu đạt các ý kiến khác nhau này. “Sẽ có rất ít thứ được in ra” nếu các nhà xuất bản chỉ cho ra lò những thứ không động chạm đến ai, anh nhấn mạnh. Đây chính là bản chất của tự do biểu đạt và Franklin tóm tắt lại quan điểm của chủ nghĩa Khai sáng trong một câu - ngày nay được đóng khung trên tường các phòng tin: “Các chủ bút được giáo dục để hiểu rằng khi con người có sự khác biệt về quan điểm, cả hai bên có quyền được công luận lắng nghe như nhau. Một khi Chân lý và Sai lầm đấu với nhau một cách công bằng, Công lý sẽ luôn chiến thắng.”
“Thật bất hợp lý khi tưởng tượng các nhà in phải tán thành mọi thứ họ in ra”, anh tiếp tục lập luận. “Điều này cũng bất hợp lý như việc một số người khẳng định rằng các nhà in không được in bất cứ thứ gì mà họ không tán thành; bởi lẽ... sau đó, tự do viết lách sẽ cáo chung, và thế giới sẽ chẳng còn gì để đọc ngoài những thứ thuộc về chủ kiến của các nhà in.”
Với một chút khôi hài, anh nhắc lại với độc giả rằng các chủ bút cung cấp tin tức cho công chúng nhưng cũng phải kiếm tiền. “Vì thế họ sẵn lòng phục vụ tất cả những cây bút tranh luận nào trả tiền hậu hĩnh cho họ” ngay cả khi không đồng ý với quan điểm của người viết. “Nếu tất cả những người có ý kiến khác biệt trong tỉnh này hứa trả tiền để tôi không in những thứ họ không thích, bằng với số tiền tôi kiếm được khi in chúng, tôi hẳn sẽ có một cuộc đời nhàn hạ. Và nếu tất cả các nhà in khắp nơi đều được thương lượng như vậy, sẽ có rất ít thứ được in ra.”
Song về bản chất Franklin không phải là người giáo điều hay cực đoan với bất cứ nguyên tắc nào. Nhìn chung anh hướng đến một sự cân xứng hợp lý. Anh nhận thấy quyền lợi của các nhà in phải cân bằng với nghĩa vụ hành xử có trách nhiệm của họ. Do đó, dù các nhà in có thể tự do đăng tải những ý kiến có tính công kích, nói chung họ nên suy xét thận trọng. “Bản thân tôi luôn từ chối bất cứ thứ gì có thể khuyến khích sự đồi bại hoặc cổ vũ thói vô đạo đức dù được trả nhiều tiền. Tôi luôn từ chối in những thứ có thể gây tổn thương thật sự cho bất cứ ai.”
Một ví dụ điển hình là việc, có lần một khách hàng đề nghị vị chủ bút trẻ tuổi đăng một bài mà Franklin thấy có tính “thô bỉ và phỉ báng” trên tờ Nhật báo. Khi cố gắng để quyết định xem liệu có nên nhận tiền của khách hàng dù vi phạm các nguyên tắc của mình không, Franklin tự đưa ra phép thử sau cho bản thân:
Để quyết định có nên đăng nó hay không, khi về nhà vào buổi tối, tôi mua một ổ bánh mì giá hai xu ở tiệm bánh và lấy đó làm bữa tối cùng với nước trong máy bơm. Sau đó tôi cuộn mình trong áo choàng, nằm xuống sàn và thiếp đi cho đến sáng hôm sau. Tôi ăn sáng bằng một ổ bánh mì và một cốc nước khác. Tôi không hề cảm thấy bất tiện với chế độ ăn uống này. Nhận thấy mình có thể sống theo cách đó, tôi đã hạ quyết tâm không bao giờ bán rẻ tờ báo vì các mục đích tham nhũng hoặc lạm dụng kiểu này để có được một sinh kế tiện nghi hơn.
Franklin kết thúc “Lời biện bạch cho các chủ nhà in” bằng câu chuyện ngụ ngôn về hai cha con đi đường cùng một con lừa. Khi người cha cưỡi lừa còn người con trai đi bộ, ai gặp họ cũng chê cười; tương tự, họ vẫn bị chê cười khi người con trai cưỡi lừa còn người cha đi bộ, khi hai người cùng cưỡi lừa hoặc cùng đi bộ. Vậy là cuối cùng họ quyết định đẩy con lừa từ trên cầu xuống sông. Theo Franklin, câu chuyện này cho thấy việc cố gắng tránh mọi chỉ trích là điều dại dột. Franklin kết luận, dù “chán nản việc phải làm hài lòng tất cả mọi người, tôi cũng sẽ không đốt cháy tờ báo hay nung chảy những con chữ của mình”.16
Bên cạnh những nguyên tắc cao thượng như vậy, anh cũng vận dụng một vài chiêu trò thông dụng hơn để tăng số báo bán ra. Một phương pháp đáng tin cậy, có sức hấp dẫn đặc biệt với vị chủ bút chưa kết hôn khá phóng đãng này là sự thật đã được thời gian kiểm chứng: tình dục hái ra tiền. Franklin thêm gia vị cho tờ Nhật báo bằng vài mẩu tin có chút dâm dật và gây cười. Thí dụ, trong số báo xuất bản một tuần sau “Lời biện bạch cho các chủ nhà in”, Franklin viết về một người chồng bắt được vợ trên giường với một người đàn ông có tên Stonecutter và định dùng dao chặt đầu gã gian phu song đã tự làm mình bị thương. Franklin kết thúc bằng lối chơi chữ vui về sự thiến: “Một số người ngưỡng mộ việc người chồng bị xúc phạm không tự biến chính mình thành một St-n-c-tt-r ngay cả khi anh ta có cơ hội chính đáng và phù hợp đến vậy.”*
Số báo tiếp theo có một bản tin ngắn tương tự về một viên cảnh sát đa tình “giao hẹn với một phụ nữ hàng xóm sẽ thức cùng chị ta đêm đó”. Viên cảnh sát leo nhầm qua cửa sổ nhà một phụ nữ khác trong khi người chồng đang ở phòng bên cạnh. Franklin thuật lại: “Qua sự dịu dàng lạ thường của người bạn chăn gối, người đàn bà tốt hiểu ra đó không thể là chồng mình nên đã gây nhiều tiếng động để đánh thức người đàn ông tốt. Khi thấy có kẻ đột nhập vào nhà mình trong khi mình còn chưa ra khỏi nhà, anh bắt đầu đánh viên cảnh sát không thương tiếc.”
Sau đó có câu chuyện về một người đàn bà khao khát tình dục, muốn ly dị chồng vì anh này không thể làm cô ta thỏa mãn. Cô ta “nhiều lúc cần mẫn gạ tình hầu hết các quan tòa” để giành lấy cảm tình cho cảnh ngộ của mình. Sau khi người chồng được kiểm tra y khoa, cô ta lại trở về bên anh này. “Sự hài lòng mà báo cáo của các thầy thuốc (những người kiểm tra khả năng của anh ta theo thủ tục và thừa nhận anh ta đủ sức khỏe trên mọi khía cạnh) đem lại cho cô không hề nhỏ”, Franklin viết. “Liệu các thí nghiệm đầy đủ hơn đã được tiến hành chưa là điều ta không thể nói; song dường như giờ đây cô ta tỏ rõ ý kiến của mình rằng ‘George cừ như người cừ nhất.”’ Trong bài viết đầu tiên về sét được xuất bản của mình, Franklin cũng thoáng đề cập về dục tính ở nam giới. Anh thuật lại việc sét đánh chảy chiếc cúc quần của một chàng trai trẻ và nói thêm: “Chắc quanh đó không có thứ gì khác làm bằng thiếc.”
Dưới bút danh “Người gỡ rối”, Franklin thậm chí còn góp phần mở đường cho loại chuyên mục tư vấn tình dục và đạo đức.* Dù nghĩa gốc của từ casuistry (sự phân định đúng sai) đề cập tới việc áp dụng các nguyên tắc đạo đức trong ứng xử hằng ngày, Franklin sử dụng nó theo nghĩa thông tục hơn với đôi chút mỉa mai, hàm ý sự áp dụng có chút thiên lệch hoặc sai lạc các nguyên tắc đó. Một lá thư của bạn đọc, hoặc của Franklin giả làm bạn đọc, đã đặt ra tình huống lưỡng nan sau: Giả sử một người phát hiện vợ mình bị gã hàng xóm dụ dỗ; và giả sử anh ta có lý do để tin rằng nếu tiết lộ sự việc với vợ gã hàng xóm, cô này sẽ đồng ý lên giường với anh ta, “liệu việc đó có chính đáng không”? Franklin, dưới danh nghĩa Người gỡ rối, đã đưa ra một câu trả lời nghiêm chỉnh. Nếu người hỏi là một tin đồ Cơ Đốc giáo, anh ta sẽ tự biết không nên “lấy ác báo ác mà phải lấy thiện báo ác”. Còn nếu anh ta không theo Cơ Đốc giáo mà là người “lấy lý trí làm cơ sở cho hành vi của mình,” anh ta cũng sẽ đi đến cùng một kết luận: “những hành vi như thế không đem lại điều tốt đẹp cho xã hội”.17
Franklin cũng biết một châm ngôn khác của báo chí: tin tức về tội phạm giúp báo đắt hàng, nhất là khi chúng lạ lùng. Chẳng hạn, trong bài tường thuật cái chết của một cô bé, anh đã kết hợp giữa việc đưa tin và rủa sả - điều sau này được các tờ báo lá cải đặc sắc hơn hoàn thiện. Vụ việc liên quan tới một cặp đôi bị kết tội giết con gái riêng từ cuộc hôn nhân trước của người đàn ông bằng cách bỏ mặc đứa trẻ, ép nó “nằm im và thối rữa trong sự bẩn thỉu”, cho nó “ăn phân của chính mình” và “đẩy nó ra khỏi cửa”. Cô bé đã chết, nhưng một bác sĩ chứng thực rằng, dù gì nó cũng sẽ chết vì các tật bệnh trong người; vì thế quan tòa chỉ kết án cặp đôi này bị đóng dấu sắt nung lên tay. Franklin nổi giận trước phán quyết “thống thiết” này và tự đưa ra bản án khắt khe hơn, theo đó cặp đôi này “không chỉ hành xử trái với luật pháp của mọi quốc gia mà còn vi phạm luật lệ tự nhiên phổ quát”.18
Phương pháp bán báo đáng tin cậy thứ ba khai thác tính thích đàm tiếu, gièm pha khá nhẹ nhàng và ngây thơ của con người. Trong tiểu luận đầu tiên viết cho Bradford dưới bút danh Người Bận rộn, Franklin đã bảo vệ giá trị của sự tọc mạch và ba hoa. Giờ đây, khi có tờ báo riêng, anh minh định rằng tờ Nhật báo vui lòng, mà thực chất là tự hào, được tiếp tục phục vụ độc giả. Dùng cùng giọng điệu với Người Bận rộn, Franklin gửi một lá thư ẩn danh đến tờ báo của mình để bảo vệ việc ngồi lê mách lẻo, chỉ trích và nói xấu sau lưng “bằng cách chỉ ra sự hữu ích của nó và lợi ích lớn lao mà nó đem lại cho xã hội”.
“Thông thường đó là phương pháp để cản trở những kẻ tồi tệ, xảo quyệt và có quyền lực, không để họ được ưa thích quá mức” - anh viết. “Sự chỉ trích dựa trên việc xem xét toàn diện với trăm con mắt và ngàn chiếc lưỡi sẽ sớm phát hiện ra và nhanh chóng tiết lộ tới mọi góc phố từng tội lỗi hoặc nhược điểm nhỏ nhất - một phần tính cách thật của những kẻ đó. Điều này sẽ xén đi đôi cánh tham vọng của họ.” Anh nhấn mạnh, đàm tiếu cũng có thể yểm trợ đạo đức vì nhiều người bị thúc đẩy bởi nỗi sợ bị làm nhục nơi công cộng hơn là các nguyên tắc đạo đức bên trong họ. ‘“Nếu tôi làm thế này, thế giới sẽ nói gì về tôi?’ thường là một mối trăn trở đủ mạnh cho phép con người chống lại sự cám dỗ của điều xấu xa hay điên rồ. Nó bảo vệ sự chính trực khỏi bị lung lạc, bảo vệ tính lương thiện trước mọi ham muốn, bảo vệ tính thiêng liêng của một số người có đạo và bảo vệ sự trong trắng của mọi trinh nữ.”
Điều thú vị là, dù sẵn sàng công kích quyết tâm bẩm sinh của “tất cả” trinh nữ, Franklin đã tự bảo vệ bản thân khi chỉ công kích “một số” người theo đạo. Ngoài ra, anh đã phơi bày một phương diện có phần giễu cợt khi ngụ ý rằng hầu hết mọi người cư xử có đạo đức không phải bởi thiện tính bên trong mà bởi họ sợ bị dư luận phê phán.19
Tuần kế tiếp, Franklin bảo vệ giá trị của thói đàm tiếu trong một lá thư khác thậm chí còn thú vị hơn, được viết công khai bởi một độc giả mang cái tên rất phù hợp: Alice Addertongue. Franklin, lúc đó mới 26 tuổi, đã để nhân vật hư cấu Alice tự mô tả bản thân với đôi chút mỉa mai - “một cô gái trẻ tuổi khoảng ba mươi lăm”. Cô sống cùng với mẹ và tự nhận thấy “có trách nhiệm cũng như thiên hướng rèn luyện tài năng phê phán vì lợi ích của những người quê mùa quanh mình”.
Sau khi tấn công bài báo “ngớ ngẩn” có nội dung phê bình thói ngồi lê mách lẻo của đàn bà trên tờ Sao Thủy của Bradford, Alice thuật lại việc bản thân cô từng mâu thuẫn với mẹ về vấn đề này. “Bà lập luận rằng sự gièm pha làm hỏng những cuộc hội thoại tốt đẹp, còn tôi đinh ninh rằng nếu không có nó thì cũng chẳng có cái kia.” Kết quả là, cô bị xua vào bếp khi có khách tới dùng trà. Khi mẹ cô đang tiếp khách bằng một bài diễn thuyết cao siêu trong phòng khách, Alice thết đãi mấy người bạn trẻ bằng câu chuyện về sự dan díu giữa gã hàng xóm và cô hầu gái của ông ta. Nghe thấy tiếng cười, nhóm bạn của mẹ cô bắt đầu dạt từ phòng khách xuống nhà bếp để dự phần vào cuộc chuyện phiếm. Sau cùng, mẹ cô cũng tham gia với họ. “Từ lâu tôi đã nghĩ nếu ông biến tờ báo của mình thành một phương tiện chuyên chở những bê bối, ông sẽ có gấp đôi số lượng người đặt báo.”
Trong các bài báo thú vị nhất mà Franklin từng viết, lời biện hộ hài hước dành cho những người lăng xăng đã định hình giọng điệu vui vẻ của tờ Nhật báo. Vốn hay giao du và say mê tìm hiểu nhân cách người, anh rất thích các chuyện kể về nhược điểm và hành vi của con người và hiểu rõ vì sao những người khác cũng như vậy. Tất nhiên anh chỉ nghiêm túc một nửa khi biện bạch cho thói đàm tiếu. Nửa còn lại trong tính cách của anh chân thành hơn: anh luôn quyết tâm không nói xấu ai. Kết quả là, dù đùa cợt trên tờ Nhật báo với các lập luận ủng hộ thói đàm tiếu, anh không thật sự ham mê việc đó lắm. Ví dụ, trong một số báo, anh cho biết đã nhận được một lá thư kể về sự bất hòa và hành vi của một cặp vợ chồng nào đó, “song vì lý do độ lượng, lá thư này hiện chưa phù hợp để xuất bản”.20
Tương tự, anh cũng “nước đôi” khi bàn về việc uống rượu. Vốn là một người ôn hòa, dù sao anh cũng thích sự vui tươi ở các tửu quán. Trong một bài viết nổi tiếng trên tờ Nhật báo, về sau được dán trên tường vô số quán rượu, anh đã soạn ra “Tửu khách Tự điển” liệt kê khoảng 250 từ đồng nghĩa mô tả tình trạng say xỉn: bối rối, liêu xiêu, chuếnh choáng, túy lúy... Song anh cũng làm độc giả run sợ với các bài tường thuật sinh động về những cái chết do rượu gây ra, đồng thời viết các bài xã luận về hệ lụy độc hại của rượu mạnh. Khi còn là thợ in ở London, anh từng giảng giải cho các đồng nghiệp biết rượu mạnh khiến họ làm việc sa sút; và khi là một chủ bút ở Philadelphia, anh vẫn tiếp tục chiến dịch này.21
Franklin cũng hoàn thiện nghệ thuật đem bản thân ra để chọc cười. Giống như các nhà văn hài hước người Mỹ thế hệ sau, anh nhận thấy một chút tự trào khôi hài có thể khiến anh trở nên đáng mến hơn. Trong một mẩu tin nhỏ trên tờ Tuần báo, anh nhớ lại việc “một chủ nhà in cụ thể” trượt ngã khi đang đi bộ dọc cầu tàu và kẹt chân vào một thùng hắc ín. Sự thoát thân vụng về của anh ta giống như câu thành ngữ “lanh lợi như con ong trong thùng hắc in”. Franklin kết thúc mẩu tin bằng phép chơi chữ nhẹ nhàng: “Anh ta quả thật không phải là con ong Dịu dàng, cũng không phải là con ong Khiêm tốn, song anh ta được phép là con ong Vụng về, mang tên B.F.”22*
Từ đầu thập niên 1730, việc kinh doanh của Franklin phát triển mạnh. Anh bắt đầu xây dựng một đế chế nhỏ mở rộng bằng cách đưa những người thợ in trẻ, sau thời gian học việc với anh, đến mở các xưởng hợp danh tại các vùng từ Charleston cho tới Hartford. Anh hỗ trợ họ máy móc và một phần chi phí, cùng với nội dung cho các xuất bản phẩm; đổi lại, anh được chia một phần doanh thu.
CUỘC HÔN NHÂN THỰC DỤNGGiờ đây khi đã tự thiết lập công việc kinh doanh cho bản thân, Franklin thấy mình cần một người vợ tốt. Việc sống độc thân không được tán thành ở xứ thuộc địa Mỹ; và Franklin sở hữu một ham muốn tình dục mà anh biết nó cần có kỷ luật. Vì thế anh bắt đầu tìm kiếm bạn đời và ưu tiên một người mang theo nhiều của hồi môn.
Có một người bạn cùng Hội Kín ở trọ tại nhà anh. Đó là người thợ kính và nhà toán học Thomas Godfrey cùng vợ, một người chăm lo các bữa ăn và công việc nội trợ.