← Quay lại trang sách

Chuong 5 CÔNG DÂN CỦA CÔNG CHÚNG -Philadelphia, 1731-1748-CÁC TỔ CHỨC VÌ LỢI ÍCH CHUNG

Về bản chất, Franklin là người có tinh thần công dân. Anh quan tâm tới hành vi có tính cộng đồng hơn lòng mộ đạo bên trong và quan tâm đến việc xây dựng Thành phố của Con người hơn Thành phố của Chúa. Châm ngôn mà anh tuyên bố trong chuyến trở lại London lần thứ nhất - “Con người là một thực thể xã hội” - không chỉ thể hiện ở tinh thần hợp tác cá nhân mà còn ở niềm tin rằng sự nhân từ là đức tính gắn kết xã hội. Như Richard Nghèo Khổ đã nói: “Hãy để kẻ nào uống rượu táo một mình tự đi bắt ngựa một mình.”

Quan điểm ưa giao hảo đó khiến anh, khi còn là một chủ nhà in tuổi 20 vào thập niên 1730, đã lấy Hội Kín của mình làm bệ phóng của nhiều tổ chức cộng đồng; trong đó có thư viện cho mượn sách, đội cứu hỏa, đội gác đêm và sau này là bệnh viện, dân quân, trường cao đẳng. “Những việc người tốt có thể làm riêng rẽ đều nhỏ so với những gì họ có thể làm cùng nhau”, anh viết.

Franklin học hỏi thiên hướng thành lập các hội thiện ích từ Cotton Mather và những người khác, song sự hăng hái tổ chức và cá tính đầy hứng khởi khiến anh là người có sức ảnh hưởng lớn nhất trong việc khiến điều đó thấm đẫm, trở thành một phần bền bỉ trong đời sống Mỹ. Đúng như Tocqueville* đã thể hiện sự kinh ngạc qua nhận định nổi tiếng: “Người Mỹ thuộc mọi độ tuổi, mọi hoàn cảnh sống và mọi kiểu khuynh hướng vẫn không ngừng lập ra các hội đoàn. Bệnh viện, nhà tù và trường học đều hình thành theo cách này.”

Tocqueville đi đến kết luận về sự giằng xé trong nội tại nước Mỹ giữa hai xung lực đối lập: tinh thần cá nhân chủ nghĩa gai góc và trái ngược với nó là tinh thần dựng xây cộng đồng và hội đoàn. Franklin có lẽ sẽ không đồng ý. Một phương diện cơ bản của cuộc đời Franklin và của xã hội Mỹ mà anh góp phần tạo ra là sự đan xen lẫn nhau của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, dù chúng có vẻ mâu thuẫn. Vùng biên giới thu hút những người tiên phong tới dựng nhà kho chung để cất trữ nông phẩm. Họ là những người có tính cá nhân gai góc nhưng cũng quyết liệt ủng hộ cộng đồng của mình. Là một lát cắt của sự pha trộn giữa tính tự lực và tinh thần dấn thân của công dân, những gì Franklin mà đại diện đã trở thành một phần của tính cách Mỹ.1

Thư viện đóng phí do Franklin là thư viện đầu tiên ở Mỹ theo mô hình này, bắt đầu từ khi anh đề nghị với Hội Kín rằng mỗi thành viên nên mang sách của mình đến trụ sở hội để các hội viên khác cũng có thể sử dụng. Mọi thứ vận hành khá tốt nhưng cần tiền để bổ sung và chăm sóc số sách đó. Vì thế, anh quyết định chiêu mộ thêm người đóng góp. Họ phải trả một khoản phí để có quyền mượn sách - phần lớn được nhập khẩu từ London.

Công ty Thư viện Philadelphia được thành lập năm 1731, khi Franklin 27 tuổi. Khẩu hiệu của nó do Franklin viết, thể hiện mối liên hệ mà anh tạo ra giữa tính tốt và sự sùng đạo: Communiter Bona profundere Deum est (“Để phúc lợi lan tràn vì thiện ích chung là điều thiêng liêng).

Gây quỹ là việc không dễ dàng. “Có quá ít người đọc sách ở Philadelphia vào lúc đó và đa số họ đều nghèo đến mức dù hết sức cần mẫn, tôi cũng không thể kiếm ra hơn 50 người sẵn lòng trả phí, phần lớn là các thương nhân trẻ.” Trong khi làm việc đó, anh thu được thêm một bài học thực tế về thói đố kỵ và tính khiêm tốn: anh nhận thấy con người khá miễn cưỡng khi họ ủng hộ “người đề xướng một dự án có ích, đồng thời có thể làm tăng uy tín của người ấy”. Vì thế, anh cố “tránh lộ diện nhiều nhất có thể” và trao vinh dự về ý tưởng cho những người bạn của mình. Phương pháp này hiệu quả đến mức, từ đó về sau, anh “đã áp dụng nó trong những dịp tương tự”. Franklin cho rằng sau cùng người ta vẫn dành cho bạn sự vẻ vang nếu bạn không cố đòi hỏi nó ngay từ đầu: “Việc hy sinh một chút hư danh nhất thời sẽ được bù đắp lại một cách dư dật sau đó.”

Việc chọn sách, theo đề xuất của những người có học thức ở Philadelphia như James Logan - một thương nhân buôn lông thú giàu có, đồng thời là một học giả lịch thiệp mà Franklin nhân dịp này có cơ hội kết giao - cũng phản ánh bản tính thực tế của anh. Trong 45 cuốn sách đầu tiên được đặt mua, có 9 cuốn về khoa học, 8 cuốn về lịch sử, 8 cuốn về chính trị, còn lại đa số là sách tham khảo. Không có tiểu thuyết, kịch, thơ hay các tác phẩm văn học lớn, trừ 2 kiệt tác kinh điển của Homer và Virgil.

Franklin dành một đến hai giờ mỗi ngày để đọc sách, “nhờ đó sửa chữa ở một mức độ nhất định sự thiếu hụt về giáo dục trường lớp mà cha tôi từng dự tính cho tôi”. Sự dấn thân cũng giúp Franklin thăng tiến về mặt xã hội: thành viên Hội Kín chủ yếu là thương nhân nghèo, trong khi Công ty Thư viện cho phép anh tìm kiếm sự bảo trợ của một số nhân vật có vai vế trong thành phố. Cũng nhờ đó, anh đã được tình bạn lâu dài với Peter Collinson, một thương gia ở London đồng ý giúp anh thu gom sách. Sau cùng, ý tưởng về các thư viện đóng phí ở địa phương đã lan tỏa khắp các xứ thuộc địa còn lại và lợi ích của chúng cũng thế. “Các thư viện đã nâng cao chất lượng hội thoại của người Mỹ nói chung và giúp các thương nhân, nông dân bình dân trở nên thông thái như đa phần giới thượng lưu đến từ các nước khác” - Franklin nhận định. Công ty Thư viện phát đạt cho đến tận ngày nay. Với 500.000 đầu sách và 160.000 bản thảo, nó vẫn là văn khố lịch sử quan trọng và là tổ chức văn hóa lâu đời nhất ở nước Mỹ.

Franklin thường truyền đi các suy nghĩ của anh về sự tiến bộ của công dân bằng cách viết cho tờ Nhật báo bằng tên giả. Dưới tên Pennsylvanus, anh viết một bài mô tả về “những người đàn ông can đảm” tự nguyên chữa cháy và đề xuất những ai không tham gia nên hỗ trợ chi phí mua thang, xô thùng và máy bơm. Năm sau, trong tham luận được anh đọc trước Hội Kín, sau đó đăng tải dưới dạng lá thư gửi cho tờ Nhật báo, Franklin đề xuất thành lập một công ty cứu hỏa. Một lần nữa, anh thận trọng tránh nhận công trạng về phần mình. Anh vờ như lá thư do một ông già gửi đến. Ông tuyên bố “một ounce phòng cháy bằng một pound chữa cháy”* - giọng điệu khá giống Richard Nghèo Khổ. Ông nhấn mạnh, ở Philadelphia có rất nhiều người sẵn sàng làm tình nguyện, thứ họ thiếu là “tổ chức và phương pháp”. Vì thế, họ nên xem xét thí dụ ở Boston và tổ chức ra các câu lạc bộ cứu hỏa với nhiệm vụ cụ thể. Franklin nhiệt tình liệt kê chi tiết các nhiệm vụ này: nên có các nhân viên cứu hỏa - những người mang “gậy màu đỏ dài hơn một mét rưỡi” - cùng với thợ rìu, thợ móc câu và các vị trí chuyên biệt khác.

“Nhiều người nói rằng đây là một ý tưởng hữu ích” - Franklin hồi tưởng trong tự truyện - vì thế anh bắt đầu tổ chức Công ty Nghiệp đoàn Cứu hỏa, được thành lập năm 1736. Anh khá khó tính khi đề ra các quy tắc và mức phạt áp dụng với trường hợp vi phạm. Là một kế hoạch điển hình kiểu Franklin, nó cũng có cả thành tố xã hội. Họ gặp mặt và ăn tối mỗi tháng một lần “để có một buổi tối giao lưu, cùng thảo luận và trao đổi các ý tưởng nảy ra trong chúng tôi về đề tài hỏa hoạn”. Có quá nhiều người muốn tham gia đến mức, cũng như Hội Kín, nó sinh ra các công ty cứu hỏa “chị em” quanh thành phố.

Franklin vẫn chủ động tham gia vào Công ty Nghiệp đoàn Cứu hỏa suốt nhiều năm. Vào năm 1743, tờ Nhật báo đăng một thông báo nhỏ: “Thất lạc hai thùng da có đánh dấu B. Franklin & Co trong trận hỏa hoạn trên Phố Water gần đây. Bất cứ ai mang chúng đến trả cho chủ nhà in sẽ được hậu tạ vì sự phiền hà.” Nửa thế kỷ sau, từ Paris trở về sau cuộc Cách mạng, Franklin tập hợp bốn thành viên còn lại của công ty, cùng những chiếc thùng da của họ, để tổ chức gặp mặt.3

Franklin cũng nỗ lực cải thiện lực lượng cảnh sát kém hiệu quả của thành phố. Thời đó, các toán lính gác rách rưới được những đội trưởng chỉ huy sẽ đăng lính những người láng giềng hoặc bắt họ nộp một khoản phí để khỏi phải đi làm nghĩa vụ. Điều đó biến họ thành những băng nhóm đi vơ vẩn kiếm chút tiền vặt, và Franklin nhận thấy họ dành phần lớn phiên gác đêm để uống rượu. Một lần nữa, Franklin đề ra giải pháp trong một bài anh viết cho Hội Kín. Theo anh, cần có các toán lính gác toàn thời gian được đài thọ bằng một khoản thuế tài sản đánh theo giá trị của mỗi ngôi nhà. Franklin đưa ra một trong số những tranh luận đầu tiên về thuế lũy tiến tại Mỹ. Anh viết, thật thiếu công bằng khi “một bà quản gia quả phụ nghèo với tổng tài sản được toán lính bảo vệ có lẽ không quá 50 bảng cũng phải đóng nhiều như vị thương gia giàu nhất, với số hàng hóa trong kho trị giá hàng ngàn bảng”.

Không giống như các hội cứu hỏa, các nhóm cảnh sát được xem là đảm nhận chức năng nhà nước nên cần được Hội đồng Lập pháp thông qua. Do đó, phải đến năm 1752 - “khi nhiều thành viên trong các hội của chúng tôi có sức ảnh hưởng lớn hơn” - chúng mới được thành lập. Khi đó, Franklin đã là một thành viên của Hội đồng và góp phần soạn thảo các điều luật quy định chi tiết cách thức tổ chức đội ngũ này.4

HỘI TAM ĐIỂM*

Một tổ chức huynh đệ danh tiếng hơn Hội Kín đã tồn tại ở Philadelphia và dường như hoàn toàn khớp với khát vọng của Franklin: Đại Hội quán của các Hội viên Tam Điểm Tự do và Được Thừa nhận. Hội Tam Điểm, một hội huynh đệ nửa bí mật, dựa trên nghi lễ và biểu tượng cổ xưa của các phường thợ xẻ đá, được thành lập tại London vào năm 1717 và hội quán đầu tiên của nó ở Philadelphia ra đời năm 1727. Cũng như Franklin, các thành viên Hội Tam Điểm tận tâm vì tình bằng hữu, công việc cộng đồng và có lòng khoan dung tôn giáo phi bè phái. Với Franklin, họ còn đại diện cho một nấc thang xã hội cao hơn: nhiều thương gia và luật sư hàng đầu của thành phố là hội viên Tam Điểm.

Sự thay đổi địa vị xã hội không phổ biến lắm vào thế kỷ 18. Song Franklin tự hào nhận đây là sứ mệnh của mình - hay đúng hơn, anh giúp nó trở thành một phần sứ mệnh của nước Mỹ - sao cho một thương gia có thể vươn lên trong xã hội và đứng trước các bậc đế vương. Điều đó không phải luôn dễ dàng và khó khăn đầu tiên của anh là làm sao nhận được lời mời tham Hội Tam Điểm. Vì thế, anh bắt đầu đăng các bản tin ngắn nhưng thiện chí về họ trên tờ báo của mình. Khi thấy cách này không hiệu quả, anh chọn một chiến thuật mạnh hơn. Tháng 12 năm 1730, dựa trên các tài liệu của một hội viên mới qua đời, anh đã đăng một bài báo dài với mục đích làm rõ một vài bí mật của tổ chức này - trong đó có sự thật rằng đa phần các bí mật chỉ là bịa đặt.

Trong vòng vài tuần, anh nhận được lời mời. Sau đó, tờ Nhật báo rút lại bài viết hồi tháng Mười hai và đưa thêm một vài bản tin ngắn có tính tâng bốc. Franklin trở thành một hội viên Tam Điểm trung thành. Năm 1732, anh góp phần dự thảo quy chế của Hội quán Philadelphia. Hai năm sau, anh trở thành Đại Sư phụ và in Hiến chương của nó.5

Sự trung thành với Hội Tam Điểm của Franklin khiến anh vướng phải lời gièm pha do kẻ khác thêu dệt. Nó cho thấy anh ghét phải đối đầu với người khác ra sao. Mùa hè năm 1737, một thợ học nghề ngây ngô có tên Daniel Rees muốn xin gia nhập Hội. Một đám du côn quen mặt không phải hội viên Tam Điểm muốn đùa cợt Rees ta nên đã bịa ra một nghi lễ buộc anh ta thề những lời kì dị, uống thuốc xổ và hôn mông. Khi họ kể lại với Franklin về trò đùa ác đó, anh cười và hỏi xin một bản sao những lời thề bịa đặt kia. Vài ngày sau, đám du côn tiến hành một buổi lễ khác, lần này Rees bất hạnh vô tình bị bỏng đến chết vì một bát rượu brandy bốc cháy. Franklin không liên can nhưng bị tòa triệu tập làm nhân chứng trong phiên xét xử tội giết người sau đó. Tờ báo của đối thủ Andrew Bradford, vốn không phải là bạn của cả Franklin lẫn Hội Tam Điểm, cáo buộc rằng Franklin có trách nhiệm gián tiếp vì đã khuyến khích những kẻ hành hạ Rees.

Phản hồi trên chính tờ báo của mình, Franklin thừa nhận rằng ban đầu anh có cười khi nghe kể về trò đùa ác. “Nhưng khi họ nói đến chỗ bắt anh ta thanh tẩy một cách bạo lực, hôn bàn tọa của T và tuyên những lời thề độc địa như R —— n đọc cho chúng tôi nghe, tôi đã trở nên thật sự nghiêm túc.” Tuy nhiên, uy tín của anh không được cứu vãn bởi sự thật là anh đã đòi xem những lời thề đó và rồi chỉ đơn giản trưng nó ra với bạn bè.

Tin tức về thảm kịch và sự liên đới của Franklin được đăng tải trên những tờ báo chống Tam Điểm trên toàn xứ thuộc địa, trong đó có tờ Số tin Boston, và đến tai cha mẹ anh. Trong một lá thư, anh cố xoa dịu mối lo ngại của mẹ về Hội Tam Điểm. Anh viết: “Nói chung họ là kiểu người hết sức vô hại, không có nguyên tắc và thực hành nào trái với tôn giáo và thuần phong mỹ tục.” Tuy vậy, anh thừa nhận bà có quyền không hài lòng vì họ không nhận hội viên là phụ nữ.6

ĐẠI TỈNH THỨC

Mặc dù ít giáo điều tới mức chỉ anh chỉ còn cách thần giáo tự nhiên một chút, Franklin vẫn giữ sự quan tâm tới tôn giáo, đặc biệt là tới các hiệu ứng xã hội của nó. Trong thập niên 1730, anh bị mê hoặc bởi hai nhà thuyết giáo. Người đầu tiên có tư tưởng tự do không chính thống như chính bản thân anh. Người còn lại là một nhà chấn hưng Tin lành bảo thủ cuồng nhiệt, đi ngược lại hầu hết những gì mà Franklin tin tưởng.

Samuel Hemphill là một nhà truyền giáo Ireland trẻ tuổi. Năm 1734, Hemphill đến Philadelphia làm cha phó tại nhà thờ Trưởng lão mà Franklin thỉnh thoảng ghé qua. Do thích thuyết giảng về đạo đức hơn các giáo lý của chủ nghĩa Calvin, Hemphill bắt đầu thu hút đông đảo cử tọa, trong đó có anh chàng Franklin tò mò. Franklin thấy “các bài giảng của cha ấy khiến tôi hài lòng bởi chẳng những chúng ít giáo điều mà còn nhấn mạnh việc thực hành đạo đức”. Tuy nhiên, sự thiếu giáo điều không giúp Hemphill được lòng các bề trên ở nhà thờ. Jedediah Andrews, mục sư trưởng, người có những bài giảng khiến Franklin chán ngấy, phàn nàn rằng Hemphill đã lạm dụng nhà thờ của ông ta và “những kẻ tự do tư tưởng, những kẻ theo thần giáo tự nhiên và những kẻ vô thần, do đánh hơi thấy anh ta, đã lũ lượt kéo đến”. Chẳng bao lâu sau, Hemphill phải ra trước tòa án giáo hội vì các cáo buộc về tội dị giáo.

Khi phiên tòa bắt đầu, Franklin đã đứng về phía cha Hemphill với một bài báo khéo léo mang ý nghĩa là cuộc đối thoại giữa hai tín hữu Trưởng lão ở địa phương. Ông S., đại diện cho Franklin, lắng nghe khi Ông T. than phiền vì vị “giảng sư mới lạ” nói quá nhiều về những việc thiện ích. “Tôi không muốn nghe quá nhiều về đạo đức bởi tôi dám chắc nó sẽ không đưa ai lên thiên đường.”

Ông S. đáp lại rằng đó là những điều “Chúa Ki-tô và các thánh Tông đồ từng thuyết giảng”. Ông tin rằng Kinh Thánh chỉ rõ Thiên Chúa muốn con người sống cuộc đời “đức hạnh, chính trực và làm nhiều việc tốt”.

Nhưng chẳng phải đức tin mới là con đường dẫn đến sự cứu rỗi chứ đâu phải đạo đức, ông T. vặn lại. “Đức tin được phó thác như một phương tiện sản sinh ra đạo đức” - Franklin đối đáp qua lời ông S. Anh nói thêm một cách dị giáo: “Đối với tôi, việc trông chờ sự cứu rỗi mà chỉ dựa trên đức tin chẳng những không phải một học thuyết Ki-tô giáo mà còn chẳng phải là một học thuyết hợp lý”.

Người ta có thể trông đợi Franklin chấp nhận việc các tín hữu giáo hội Trưởng lão áp đặt bất cứ học thuyết nào họ muốn lên chính các nhà truyền giáo của họ, bởi lẽ anh là người tin vào sự bao dung. Ngược lại, ông S. cho rằng họ không nên giữ mãi quan điểm chính thống. “Chẳng có điểm nào trong đức tin rõ ràng như việc sống đức hạnh là bổn phận của chúng ta”, ông S. kết luận. Đây là cách nhắc lại triết lý cốt lõi của Franklin: “Một kẻ dị giáo đức hạnh đáng được cứu rỗi trước một Ki-tô hữu đồi bại.”

Thông thường, Franklin luôn nỗ lực thuyết phục mọi người một cách khéo léo, gián tiếp và dùng các nhân vật hư cấu để trình bày luận điểm. Nhưng khi tòa án giáo hội Trưởng lão nhất trí khiển trách và đình chỉ Hemphill, anh đã lột bỏ đôi găng tay nhung và, như anh nói, “trở thành người có tính đảng phái hăng hái”. Anh xuất bản một tập sách nhỏ khuyết danh - không như bài hội thoại trên báo, Franklin phải đảm bảo không để lộ tác giả tập sách này - trong đó chất chứa nỗi tức giận bất thường. Anh không chỉ đưa ra những lời phản bác chi tiết về thần học đối với mỗi cáo buộc của tòa mà còn buộc tội các thành viên dự phiên tòa là những kẻ “hiểm độc và đố kỵ”.

Những người kết tội Hemphill cũng ra tập sách riêng đề đáp lại. Điều đó buộc Franklin phải viết thêm một lời hồi âm vô danh thậm chí chua cay hơn. Nó tung ra các từ ngữ như “thành kiến và niềm tin mù quáng” hay “sự lừa dối có thiện ý”. Về sau, trong một bài thơ, anh gọi những người phê phán Hemphill là “Mục sư Đần độn”.

Đây là lần hiếm hoi Franklin vi phạm nguyên tắc của Hội Kín - tránh đối đầu và tranh luận trực tiếp. Điều này còn kỳ lạ hơn vì trước đó anh đã sẵn sàng từ bỏ mọi luận điệu liên quan quá nhiều tới các tranh cãi về giáo lý. Có lẽ sự phẫn nộ với thế lực vững chắc của giới tăng lữ ngoan đạo đã lấn át sự bình tĩnh trong anh.

Việc Franklin bảo vệ Hemphill trở nên khó khăn hơn khi ông bị phát hiện đã đạo văn trong nhiều bài giảng của mình. Tuy vậy, anh vẫn đứng về phía Hemphill. Sau này Franklin giải thích: “Tôi thà chấp nhận việc cha Hemphill giảng những bài hay do người khác soạn còn hơn giảng những bài dở do chính cha ấy soạn, dù đó là việc làm của các thầy tu bình thường.” Cuối cùng, Hemphill rời thành phố và Franklin vĩnh viễn từ bỏ giáo đoàn Trưởng lão.7

Vụ Hemphill xảy ra ngay khi cơn thủy triều của chủ nghĩa phục hưng đầy xúc cảm, được gọi là Đại Tỉnh thức, bắt đầu tràn qua nước Mỹ. Các nhà Kháng cách nệ cổ nhiệt thành, tiêu biểu nhất là Jonathan Edwards*, khi đó đang lùa giáo dân vào các cơn mê loạn tinh thần và các cuộc cải giáo chấn động bằng các chuyện kể về lửa và lưu huỳnh. Trong bài giảng “gây khiếp sợ” lừng danh nhất của mình - “Những kẻ phạm tội trong tay Thiên Chúa cuồng nộ” - Edwards đã nói trước giáo đoàn rằng điều duy nhất giúp họ tránh được sự đày đoạ vĩnh viễn là ơn huệ bất khả lý giải của vị “Thiên Chúa nắm lấy ta nơi cửa Địa ngục, như thể ta cầm lấy một con nhện hay một con côn trùng gớm ghiếc khác nơi đầu ngọn lửa”.

Không gì có thể khác biệt với quan điểm thần học của Franklin hơn thế. Thực tế, như Carl Van Doren nhận xét, Edwards và Franklin, hai người Mỹ ưu tú của thế hệ này, có thể được coi như “biểu tượng của những sự vận động ngược chiều tranh đấu vì quyền làm chủ thời đại của họ.” Edwards và các giáo sĩ Đại Tỉnh thức nỗ lực tái ràng buộc nước Mỹ với tinh thần Thanh giáo khổ hạnh còn Franklin muốn đưa nó đến kỷ nguyên Khai sáng, vốn đề cao lòng bao dung, giá trị cá nhân, đạo đức công dân, hành vi tốt đẹp và tính duy lý.8

Do đó, thật bất ngờ, hay nói đúng hơn là lạ lùng, khi Franklin lại say mê George Whitefield* - nhà truyền giáo lưu động được yêu mến nhất của phong trào Đại Tỉnh thức, đã đến Philadelphia vào năm 1739. Vị sứ giả Phúc âm người Anh này đã từng là một tâm hồn bất hạnh tại trường Pembroke, Oxford*, sau đó được “sinh ra một lần nữa” nhờ phong trào Giám lý* và sau này là chủ nghĩa Calvin. Ông là một người giáo điều thuần túy khi khăng khăng cho rằng sự cứu rỗi chỉ đến nhờ ân điển của Chúa. Tuy vậy, ông rất tích cực tham gia các công việc từ thiện và đã có chuyến du thuyết dài một năm đi khắp nước Mỹ để gây quỹ cho một cô nhi viện ở Georgia. Ông xin được nhiều tiền cho hoạt động thiện nguyên hơn bất kỳ giáo sĩ nào cùng thời. Ông đã xây dựng các trường học, thư viện, nhà tế bần khắp châu Âu và Mỹ. Vì thế, có lẽ không thật đáng ngạc nhiên khi Franklin dần quý mến ông dù không bao giờ ủng hộ tư tưởng thần học của ông.

Whitefield tổ chức các buổi mít-tinh ngoài trời hằng đêm ở Philadelphia (lúc đó là thành phố lớn nhất của Mỹ, với dân số 13.000 người) để thức tỉnh lại lòng mộ đạo và đã thu hút đông đảo người tới dự. Cảm nhận được đây là một câu chuyện tuyệt vời, Franklin không tiếc lời đưa tin về ông trên tờ Nhật báo Pennsylvania. “Vào hôm thứ Năm, mục sư Whitefield bắt đầu thuyết giảng từ ban công Tòa án thành phố từ khoảng sáu giờ tối trước gần 6.000 cử tọa trên phố, những người đứng chết lặng để lắng nghe ông” - Franklin thuật lại. Đám đông đó lớn dần lên trong suốt chuyến thăm kéo dài một tuần và Whitefield còn trở lại Philadelphia ba lần nữa trong cuộc thập tự chinh kéo dài một năm ở Mỹ.

Franklin kinh ngạc. Anh đã tường thuật về những lần xuất hiện của Whitefield trong 45 ấn phẩm hàng tuần của tờ Nhật báo và tám lần dành toàn bộ trang nhất để đưa lại các bài giảng của ông. Trong cuốn tự truyện, bằng một sự hài hước hình thành sau nhiều năm xa cách, Franklin nhớ lại sự hăng hái anh được truyền sang vào lúc đó:

Ít lâu sau, tôi tình cờ đi dự một trong số các bài giảng của ông và trong lúc đó tôi nhận ra ông dự định kết thúc với màn quyên tiền. Tôi im lặng đinh ninh rằng vị tu sĩ này sẽ chẳng nhận được gì từ tôi. Trong túi tôi lúc đó có một nắm tiền đồng, ba hoặc bốn đồng đô-la bạc và năm đồng pixtôn vàng. Khi ông giảng tiếp, tôi bắt đầu nhụt chí và kết luận sẽ cho số tiền đồng. Ông ra một cú đòn khác nhờ tài hùng biện làm tôi thấy xấu hổ về ý nghĩ đó nên quyết định sẽ cho số tiến bạc. Và ông đã kết thúc một cách đáng ngưỡng mộ, đến mức tôi dốc sạch túi để bỏ vào chiếc đĩa của người đi gom: tiền vàng và tất thảy.

Franklin cũng ấn tượng với khả năng của Whitefield trong việc cải hóa cư dân Philadelphia. “Chưa bao giờ họ tỏ ra sẵn lòng tham dự các bài giảng đến vậy”, anh tường thuật trên tờ Nhật báo. “Tôn giáo trở thành chủ đề của hầu hết các cuộc trò chuyện. Không cuốn sách nào khác được mượn khỏi thư viện trừ những cuốn về lòng sùng đạo.”9

Franklin không bỏ lỡ hàm ý tài chính của nhận định sau cùng. Anh đến gặp Whitefield để dàn xếp thỏa thuận về việc trở thành người đầu tiên xuất bản các bài giảng và ghi chép của ông - điều chắc chắn làm tăng thêm lòng sốt sắng được quảng bá cho nhà truyền giáo. Sau lần đầu gặp Whitefield, Franklin chạy một đoạn quảng cáo để mời gọi đơn đặt hàng cho loạt bài giảng của vị tu sĩ với giá hai shilling một cuốn. Một tháng sau, anh ra thông báo cho biết đã nhận được quá nhiều đơn đặt hàng tới mức “những ai đã trả tiền hoặc cầm tiền trong tay sẽ được ưu tiên”.

Hàng ngàn bản được bán ra, giúp Franklin càng giàu có, còn Whitefield càng nổi tiếng. Franklin cũng xuất bản mười kỳ các ghi chép của Whitefield, mỗi kỳ đắt gấp năm lần niên giám của anh và huy động lực lượng phân phối gồm mười một nhà in anh có quen biết trên toàn xứ thuộc địa để biến chúng thành sách bán chạy nhất. Chị dâu của anh ở Newport, Anne Franklin, đã mua tới 250 bản. Vào những năm 1739-1741, hơn một nửa số sách vở mà anh in ra đều do Whitefield viết hoặc viết về Whitefield.

Bởi vậy, một số sử gia đi đến kết luận rằng niềm say mê của Franklin đối với Whitefield chỉ đơn thuần vì lý do tiền bạc. Nhưng cách nhìn đó quá đơn giản hóa. Như vẫn thường thấy, Franklin có thể kết hợp một cách hoàn hảo các lợi ích kinh tế với các mong muốn của công dân và sự hăng hái cá nhân. Anh có tính cách dễ kết giao và đã thật sự bị lôi cuốn bởi sức hút đầy mê hoặc và khuynh hướng từ thiện của Whitefield. Anh mời Whitefield tới ngụ tạm tại nhà mình và khi nhà thuyết giáo ngợi ca lời mời này là “vì Chúa”, Franklin đã sửa lại: “Xin đừng làm con rối trí; đây không phải vì Chúa mà là vì cha!”

Ngoài ra, mặc dù có sự khác biệt về quan điểm thần học, Franklin bị Whitefield cuốn hút bởi ông đã làm rung chuyển những gì xác lập từ lâu ở địa phương. Mối ác cảm dài lâu với giới tinh hoa tôn giáo khiến anh thích thú thấy sự bất an và chia rẽ nảy sinh khi các nhà truyền giáo lưu động cực kỳ được yêu mến xâm nhập vào địa hạt của họ. Vốn sẵn lòng bao dung, Franklin hài lòng khi thấy những người ủng hộ Whitefield, nhờ sự hỗ trợ tiền bạc của anh, đã dựng lên một hội trường mới rộng rãi. Ngoài các mục đích sử dụng khác, nó còn có thể trở thành giảng đàn cho bất kỳ ai mang bất kỳ đức tin nào. “Kể cả khi một giáo sĩ Hồi giáo ở Constantinople* phái một sứ đồ tới giảng cho chúng ta về đạo Hồi, ông ấy cũng sẽ tìm được một giảng đàn để làm nhiệm vụ.”10

Niềm vui thích mang tính dân túy của Franklin trước sự bất an của giới tinh hoa thể hiện ở chỗ anh làm dấy lên cuộc tranh luận về một lá thư do một ai đó trong giới quý tộc nhỏ của thành phố gửi tới tờ Nhật báo. Người này viết rằng Whitefield “không mấy thành công với nhóm người cao quý hơn”. Tuần sau đó, sử dụng bút danh “Obadiah Thẳng thắn”, Franklin chế nhạo việc dùng cụm từ “nhóm người cao quý hơn” và ẩn ý của nó: những người ủng hộ Whitefield “là hạng người thập kém hơn, tức quần chúng hay đám tiện dân.” Obadiah nói anh và các bạn hữu kiêu hãnh tự nhận là một phần của đám tiện dân ấy nhưng họ căm ghét những kẻ tự nhận mình thuộc “nhóm người cao quý hơn” và dùng các từ ngữ đó với ẩn ý đông đảo người bình dân là “một lũ ngu ngốc”.

Vào tuần kế tiếp, một quý ông có vẻ ngạo mạn tên là Tom Đàn ông Đích thực (hoặc, có lẽ với tên này, Franklin đang vờ là một quý ông) viết cho tờ báo cao cấp hơn của William Bradford để chối bỏ việc đây là một sự xúc phạm có chủ ý và để buộc tội Người thẳng thắn vì tự cho mình quyền đại diện cho tầng lớp bình dân của thành phố. Một lần nữa, Franklin đáp trả dưới tên Người thẳng thắn. Anh nói mình đơn giản chỉ là một thợ thủ công “bình thường, nghèo khó”; sau giờ lao động, “thay vì đến quán rượu, đã tự mua vui với những cuốn sách của Công ty Thư viện.” Bằng cách này, anh giày vò những kẻ tự tuyên bố thuộc nhóm cao quý hơn và “nhìn xuống các đồng loại khác với sự khinh rẻ.” Dù trưởng thành trong xã hội theo cách cho phép Franklin khoác lên mình vẻ quý tộc nếu muốn, anh vẫn dị ứng với sự màu mè, và tự hào là một Người thẳng thắn đấu tranh cho tầng lớp bình dân.11

Mùa thu năm 1740, Franklin có dấu hiệu bớt say mê Whitefield, dù vẫn say mê nguồn lợi đến từ việc xuất bản tác phẩm của ông. Các nỗ lực của nhà truyền giáo để biến ông thành một tín đồ “mới ra đời” theo phái Calvin chính thống dần hết hiệu quả; trong khi các nhà bảo trợ quan trọng thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ tại Philadelphia bắt đầu lên án vai trò trung gian hăng hái của tờ Nhật báo. Đáp lại lời chỉ trích này, Franklin đã đăng một bài xã luận chối bỏ (một cách thiếu thuyết phục) bất cứ sự thiên lệch nào và tái khẳng định triết lý được anh đưa ra lần đầu trong một viết năm 1731 - “Lời biện bạch cho các chủ nhà in” - rằng “trong một trận đấu công bằng, sự thật sẽ luôn chiến thắng sự giả dối”. Song trong số báo này, anh cũng đăng lá thư của một nhà truyền giáo chỉ trích “sự say mê nhiệt tình” với Whitefield (vị này sau đó còn xuất bản hai cuốn sách nhỏ để đả kích Whitefield) và một lá thư hồi âm của Whitefield. Trong chín tháng đầu năm 1740, đến 90% thư từ đăng tải trên tờ Nhật báo của Franklin có nội dung ủng hộ Whitefield. Tình hình bắt đầu lật ngược từ tháng Chín, khi chúng chủ yếu có nội dung tiêu cực, cho dù các lá thư do chính Franklin viết vẫn có tính tích cực.

Cho dù với ít nhiệt tình hơn, Franklin tiếp tục ủng hộ Whitefield qua các năm sau và họ vẫn duy trì mối liên lạc thân thiết mãi cho đến khi Whitefield mất vào năm 1770. Trong tự truyện - được viết sau khi Whitefield qua đời - Franklin thêm một chút lãnh đạm mỉa mai khi nói về các buổi quyên tiền ấm áp của ông. Franklin nhớ lại lần anh tới dự một buổi giảng, thay vì xúc động trước lời lẽ của Whitefield, anh đã bỏ thời gian tính xem giọng nói của vị tu sĩ vang xa đến đâu. Về ảnh hưởng của Whitefield lên cuộc đời mình, Franklin khôi hài nhớ lại: “Thực tế, ông ấy thi thoảng có cầu nguyện để tôi cải đạo song chưa bao giờ thực sự tin những lời cầu nguyện ấy đã được lắng nghe.”12

NHỮNG CUỘC CHIẾN XUẤT BẢN

Khi nghề xuất bản của Franklin ngày một lớn mạnh, cuộc cạnh tranh giữa anh với chủ nhà in còn lại của thành phố, Andrew Bradford, cũng gay gắt hơn. Suốt đầu thập niên 1730, họ đem các sai sót của tờ báo đối thủ ra làm trò cười và đấu khẩu về các vấn đề như cái chết của một hội viên Hội Tam Điểm trẻ giàu khát vọng và các bài thuyết giảng của Samuel Hemphill. Sự đối nghịch này bắt nguồn từ cả lý do chính trị và xã hội. Sinh ra trong một gia đình danh giá, Bradford và Tuần báo Sao Thủy Hoa Kỳ đứng về phía “phái Nghiệp chủ” ở Pennsylvania, ủng hộ nhà Penn và các thống đốc do họ chỉ định. Còn Franklin vốn xuất thân từ tầng lớp lao động nên tờ Nhật báo Pennsylvania của anh luôn chống lại thiết chế định sẵn và có xu hướng ủng hộ quyền lực của Hội đồng Lập pháp dân cử.

Quan điểm chính trị của họ va chạm trong chiến dịch tái tranh cử năm 1733 của Andrew Hamilton*, phát ngôn viên của Hội đồng Lập pháp. Hamilton là một thủ lĩnh có tư tưởng chống nghiệp chủ và là người đã giúp Franklin lấy được mối in ấn tài liệu của chính quyền từ tay Bradford. Franklin khâm phục tư tưởng dân túy chống quý tộc của ông - “một người không bao giờ kết bạn với quyền lực”. Với Franklin, Hamilton “là bạn của người nghèo”. Ngược lại, Bradford đăng tải các bài viết đầy sôi sục để công kích ông; trong đó có tiểu luận “Bàn về sự bội tín” vốn nhằm vào Hamilton nhưng cũng động chạm tới cả Franklin. Một bài viết khác cáo buộc Hamilton mắc tội phỉ báng gia tộc Penn và lạm quyền khi giữ cương vị người đứng đầu văn phòng công trái.

Franklin đã bảo vệ Hamilton bằng một bài phản biện trang trọng nhưng đanh sắc. Được tung ra như bài tường thuật “Cuộc trò chuyện nửa giờ” với Hamilton, bài báo xoáy vào các tội lỗi của Bradford, từ tật dùng từ sai nghĩa (dùng từ “contemptibly” (đáng khinh) trong khi ý anh ta là “contemptuously” (khinh thường)), cho đến việc giấu mặt sau tấm áo choàng của sự vô danh (“thấy rằng người ta nhìn chung vẫn chấp nhận một bài báo vô danh, anh ta nghĩ sẽ không ai để ý đến nó”).

Hamilton xuất hiện như một vị khách lịch sự của Hội Kín, phảng phất những dấu ấn của Richard Nghèo Khổ. Ông than rằng: “Hãy cứ ném đi những thứ bẩn thỉu, nó sẽ dính lại chút ít trên tay.”13

Hamilton chiến thắng trong cuộc tái tranh cử và năm 1736, ông giúp Franklin được chọn làm thư ký Hội đồng Lập pháp. Một lần nữa công vụ và tư lợi lại được kết hợp. Franklin thản nhiên thừa nhận: “Công việc thư ký cho tôi cơ hội tốt hơn để giữ sự chú ý của các thành viên, điều đó giúp đảm bảo việc in phiếu bầu, luật pháp, tiền giấy cùng các việc thời vụ phục vụ cộng đồng khác. Về tổng thể, nó đem lại rất nhiều lợi nhuận”.

Nó cũng dạy anh một mẹo hữu hiệu để dụ dỗ các đối thủ. Khi một thành viên giàu có và có học thức phát biểu chống lại mình, Franklin quyết định lấy lòng ông ấy:

Tuy nhiên, tôi không định kiếm sự ủng hộ của người này bằng cách tôn kính ông ấy như kẻ nô lệ nên sau một hồi, tôi đã chọn phương cách khác. Được biết trong thư viện của ông ấy có một cuốn sách rất hiếm và đáng tò mò, tôi đã gửi một tin nhắn cho ông ấy, bày tỏ mơ ước được đọc kỹ cuốn sách đó và đề nghị ông ấy làm ơn cho tôi mượn nó vài ngày. Ông ấy gửi nó cho tôi ngay lập tức và tôi trả lại nó sau một tuần cùng một lời nhắn khác, thể hiện rõ nhận thức về sự giúp đỡ đó. Khi chúng tôi gặp lại nhau ở Hội đồng, ông ấy bắt chuyện với tôi (điều chưa từng làm trước đây) một cách hết sức lịch sự. Từ đó về sau, ông ấy luôn tỏ ra sẵn sàng tiếp đón tôi trong mọi dịp. Chúng tôi trở thành những người bạn lớn - tình bạn đó kéo dài cho đến khi ông ấy qua đời. Đây là một thí dụ cho câu châm ngôn cổ mà tôi học được, nói rằng: “Người nào đã đối xử tử tế với bạn một lần sẽ sẵn sàng đối xử tử tế với bạn lần nữa, hơn cả người mà chính bạn đã gia ơn.”14

Sự cạnh tranh của Franklin với Bradford có một khía cạnh thú vị, dường như bất thường song ngày nay lại khá bình thường. Ngay cả khi cạnh tranh với nhau trong một số lĩnh vực như các đại gia truyền thông hiện đại, họ vẫn hợp tác với nhau trên các lĩnh vực khác. Chẳng hạn, năm 1733, ngay khi đang đối đối đầu ác liệt trong cuộc bầu cử của Hamilton, họ vẫn thực hiện một thương vụ chung để chia sẻ rủi ro khi xuất bản một cuốn Thánh Vịnh đắt tiền. Theo đề nghị của Bradford, Franklin đảm nhiệm khâu in ấn, Bradford cung cấp giấy, họ chia đôi các chi phí và mỗi bên nhận được một nửa trong số 500 bản được in ra.15

Trong cuộc cạnh tranh với Bradford, Franklin có một bất lợi lớn. Bradford đã sử dụng vị trí giám đốc bưu điện Philadelphia để, ít nhất là chính thức, từ chối quyền được gửi tờ Nhật báo qua đường thư tín của Franklin. Cuộc đấu tranh tiếp theo của họ về vấn đề tự do vận chuyển là một trong những thí dụ sớm nhất cho thấy sự căng thẳng đến nay vẫn còn tồn tại giữa những người tạo ra nội dung và những người kiểm soát hệ thống phân phối.

Có lúc, Franklin đã vận động Alexander Spotswood, giám đốc bưu điện toàn thuộc địa, yêu cầu Bradford điều hành một hệ thống mở chấp nhận vận chuyển cả báo chí chí của đối thủ. Song Bradford tiếp tục gây khó khăn cho tờ báo của Franklin trong việc vận chuyển, buộc anh phải hối lộ các bưu tá. Franklin không chỉ lo lắng về chi phí mà còn về quan niệm của công chúng. Do Bradford kiểm soát hệ thống bưu điện của Philadelphia, Franklin viết, “có thể tưởng tượng được anh ta có cơ hội tốt hơn để thu thập tin tức và tờ báo của anh ta được xem là nơi quảng cáo tốt so với của tôi”.

Franklin thâu tóm được vị trí giám đốc bưu điện của Philadelphia khi người ta phát hiện ra Bradford đã cẩu thả trong việc kế toán. Năm 1737, đại tá Spotswood, được sự xúi giục của Franklin, đã rút lại ủy nhiệm từ Bradford và trao công việc này cho Franklin. “Tôi nhận nó ngay lập tức và nhận thấy nó đem lại lợi thế rất lớn,” Franklin nói. Dù mức lương thấp, nó tạo thuận lợi cho việc liên lạc, từ đó cải thiện tờ báo của tôi, tăng lượng đặt hàng cũng như lượng quảng cáo được chèn vào. Vì thế nó đem lại cho tôi nguồn thu nhập rất đáng kể.” Tờ báo của Bradford cũng vì thế mà suy yếu theo.

Thay vì trả đũa, Franklin chấp nhận cho tờ Sao Thủy của Bradford được vận chuyển qua hệ thống thư tín cùng tờ Nhật báo và các tờ báo khác, ít nhất là lúc đầu. Trong tự truyện của mình, Franklin ca ngợi bản thân vì đã cởi mở đến vậy. Tuy nhiên, trên thực tế, chính sách này chỉ kéo dài hai năm. Vì Bradford không bao giờ giải quyết xong sổ sách từ nhiệm kỳ làm giám đốc bưu điện Philadelphia, Spotswood ra lệnh cho Franklin “khởi kiện chống lại anh ta” và “không một tờ báo nào của Bradford tiếp tục được phép vận chuyển bằng đường bưu điện”.

Bradford phải dùng đến chiêu cũ của Franklin: hối lộ đám bưu tá để họ chuyển báo của anh ta một cách không chính thức. Franklin biết và dung thứ việc này, cũng như Bradford trước đây từng dung thứ cho anh. Song ngay cả sự ân xá một phần này của Franklin cũng không kéo dài.16

Năm 1740, anh và Bradford lao vào cuộc chạy đua ra mắt tạp chí đại chúng đầu tiên ở Mỹ. Franklin là người có ý tưởng nhưng một lần nữa lại bị một người bạn tâm giao phản bội. Sự việc xảy ra hệt như lần đầu anh lên kế hoạch ra mắt một tờ báo. Như Richard Nghèo Khổ, nay đã sành sỏi hơn, chua chát phát biểu trong niên giám 1741: “Nếu muốn giữ bí mật với kẻ thù, đừng tiết lộ nó cho bạn bè.”

Lần này, kẻ lật lọng là một luật sư có tên John Webbe, người đã đóng góp một số tiểu luận cho Nhật báo và được Franklin chọn để khởi kiện chống lại Bradford theo lệnh của đại tá Spotswood. Franklin phác ra ý tưởng về tạp chí cho Webbe và mời anh ta làm biên tập viên nhưng Webbe đã đưa ý tưởng này Bradford và đạt được một thỏa thuận có lợi hơn. Ngày 6 tháng 11 năm 1740, Bradford công bố kế hoạch về Tạp chí Hoa Kỳ. Một tuần sau, Franklin cũng công bố kế hoạch về tạp chí Tạp chí Đại chúng của mình.

Trong thông báo của anh, Franklin lên án sự phản bội của Webbe. “Tạp chí này... đã được lên kế hoạch từ lâu”, anh nói. “Thực tế, nó sẽ không được ra mắt sớm đến vậy nếu không phải vì một người - người đã được truyền đạt về kế hoạch với sự tin tưởng nhưng lại nghĩ thật phù hợp để đem nó quảng cáo trên tờ Sao Thủy mới nhất... và gặt hái hết mọi lợi thế về phía mình.” Cuộc cãi vã theo sau đó đã khiến Franklin cấm toàn bộ báo chí của Bradford khỏi hệ thống thư tín. Nó cũng biến câu hỏi về quyền tiếp cận bưu chính trở thành một vấn đề công cộng.

Webbe đáp trả trên số Sao Thủy của tuần kế tiếp với một đòn phản công sắc sảo. Anh ta đặc biệt phản đối một trong những điểm ít dễ mến của Franklin: sự khôn ngoan và cả tinh ranh của anh khi đưa ra các cáo buộc một cách ẩn ý thay vì nói toạc ra. Kiểu gián tiếp của Franklin - “tựa như sự quỷ quyệt của kẻ móc túi” - còn “đê tiện” hơn cả sự táo bạo của “kẻ nói dối trắng trợn”, Webbe viết. “Các cú đánh đều quanh co và gián tiếp khiến người ta không thể dễ dàng tự vệ.” Franklin muốn tin rằng phương pháp dùng sự ám chỉ gián tiếp của mình ít gây khó chịu hơn so với cách tranh cãi đối đầu nhưng đôi khi nó thậm chí dẫn đến sự thù địch lớn hơn và tai tiếng về sự lừa dối xảo trá.

Franklin không đáp lại. Với một ý thức tinh tế về việc nên khiêu khích Webbe và Bradford thế nào, anh chỉ đơn giản đăng lại thông báo ban đầu của mình trên số kế tiếp của tờ Nhật báo, trong đó giữ nguyên các cáo buộc về thói tráo trở của Webbe. Điều đó khiến Webbe phải viết thêm một bài phân trần trên tờ Sao Thủy. Một lần nữa, Franklin bộc lộ sự kiềm chế phẫn nộ: anh vẫn không trả lời và tiếp tục đăng lại bản thông báo cùng các cáo buộc ban đầu.

Webbe khiến tranh chấp lên cao trong số Sao Thủy ra ngày 4 tháng 12 với lời cáo buộc chắc chắn khiến Franklin phải hồi đáp. “Kể từ lá thư đầu tiên gửi cho tôi”, Webbe viết, Franklin đã “thề sẽ cướp đi lợi ích mà Bưu điện đem lại cho Sao Thủy”. Tuần sau đó, Franklin trả lời với lối giải thích có gì đó thiếu thành thật. Anh cho biết đã một năm kể từ khi tờ Sao Thủy của Bradford bị cấm sử dụng miễn phí hệ thống thư tín. Điều này không can hệ gì tới tranh chấp về các tạp chí. Ngược lại, đó là mệnh lệnh trực tiếp của đại tá Spotswood. Để chứng minh cho quan điểm của mình, Franklin đã đăng tải bức thư của Spotswood. Anh nói Bradford và Webbe đã biết rõ sự việc, nhất là Webbe, bởi anh ta là chính luật sư được mình thuê để khởi kiện.

Webbe trả lời bằng cách vạch ra lịch sử của thủ đoạn bưu chính. Anh ta thừa nhận việc Spotswood ra lệnh cho Franklin dừng chuyển phát tờ báo của Bradford. Nhưng, như Franklin cũng biết rõ, các bưu tá vẫn tiếp tục chuyển phát chúng một cách không chính thức. Hơn nữa, Webbe cáo buộc, chính Franklin đã giãi bày với người khác rằng anh ta chấp nhận sự dàn xếp này vì nó đảm bảo Bradford sẽ thận trọng tránh đăng tải bất cứ nội dung gì quá có hại cho anh. Webbe viết: “Franklin tuyên bố rằng vì anh ta đã ủng hộ ông Bradford bằng cách chấp nhận cho các bưu tá chuyển phát báo chí của ông ấy, anh ta đã nắm được ông ấy trong lòng bàn tay.”

Cuộc tranh luận công khai về mưu đồ bưu chính lắng xuống khi hai bên chạy đua để ra mắt tạp chí của họ. Sau cùng, Bradford và Webbe cán đích trước ba ngày. Tạp chí Hoa Kỳ của họ rời khuôn in ngày 13 tháng 2 năm 1741 còn Tạp chí Đại chúng của Franklin trình làng vào ngày 16.

Từ tạp chí khi đó thường được dùng với nghĩa sự góp nhặt từ báo chí hay các nguồn khác. Nội dung tạp chí của Franklin, phỏng theo tạp chí mười năm tuổi tại London - Tạp chí Quý ông, khô khan một cách đáng kinh ngạc: mấy tuyên bố chính thức, vài bài tường thuật về diễn tiến của chính quyền, bình luận về vấn đề tiền giấy, lõm bõm dăm bài thơ và một báo cáo về cô nhi viện của Whitefield.

Công thức đó thất bại. Tạp chí của Bradford đình bản sau ba tháng và của Franklin sau sáu tháng. Không có bài viết đáng nhớ nào của anh ra đời trong quá trình này, trừ một bài thơ viết bằng phương ngữ Ireland để nhại lại một mẩu quảng cáo trên tạp chí của Bradford. Song cuộc ganh đua để tung ra các tạp chí đã nhen lên mối quan tâm của Franklin với sức mạnh của hệ thống bưu điện.17

SALLY FRANKLIN

Năm 1743, 11 một năm sau khi cậu con trai vắn số của anh chào đời, nhà Franklin có thêm một bé gái. Cô bé được đặt tên theo tên mẹ của Deborah, Sarah, và thường được gọi là Sally. Cô bé làm cả cha lẫn mẹ vui lòng và say mê. Khi con gái lên 4 tuổi, Franklin viết thư cho mẹ mình và kể: “Cháu gái của mẹ là người yêu sách vở và trường học nhất trong tất cả mọi đứa trẻ con từng biết.” Hai năm sau, anh lại gửi một thông báo tương tự: “Sally ngày càng lớn, ra dáng một cô gái tốt, cực kỳ cần cù với kim may và say sưa với sách vở. Con bé có tính tình rất trìu mến, vô cùng biết nghe lời và sẵn lòng giúp đỡ cha mẹ và mọi người. Có thể con đang tự tâng bốc mình quá mức nhưng con hy vọng sau này Sally sẽ trở thành một người phụ nữ khéo léo, nhạy cảm, tần tảo và đáng kính trọng.”

Franklin nửa nghiêm túc theo đuổi ý kiến cho rằng cô con gái nhỏ của mình một ngày nào đó có thể kết hôn với con trai của William Strahan, một chủ nhà in ở London và là một trong những bạn hữu thường xuyên liên lạc thư từ với anh ở Anh quốc. (Về điểm này, Franklin không kỳ thị giới tính: anh cũng cố gắng mai mối cho con trai, William, và sau đó là hai cháu trai, với con của những người bạn ở Anh và Pháp; nhưng tất cả đều không thành.) Những lời miêu tả của anh về Sally trong bức thư gửi cho Strahan hé lộ cả tình cảm mà anh dành cho con gái và những tính nết anh mong con có được. “Con bé khám phá hằng ngày các mầm giống và biểu hiện của tính cần cù và tiết kiệm, hay nói ngắn gọn là mọi đức tính của nữ giới”, anh viết khi cô bé mới lên 7. Sáu năm sau, Franklin lại viết: “Sally thật sự là một cô gái tốt: tình cảm, biết vâng lời, siêng năng và có một tấm lòng rất thơm thảo.

Dù không phải quá thông minh, con bé cũng không thể nào bị xem là thiếu hiểu biết ở độ tuổi của mình.”

Trong một cuộc tranh luận với John Collins thời niên thiếu, Franklin từng lên tiếng ủng hộ việc đảm bảo công bằng trong giáo dục giữa nam và nữ, điều về sau được anh lặp lại qua nhân vật Silence Dogood. Ở một mức độ nào đó, anh đã thực hiện những lời diễn thuyết này với Sally; và như có thể dự đoán trước, anh chú trọng vào các môn học thực tế. Anh muốn con gái được dạy đọc, viết và số học. Theo yêu cầu của Sally, anh cho con học cả tiếng Pháp dù cô bé chỉ cả thèm chóng chán. Anh cũng nhất định muốn Sally học kế toán. Chuyện một đồng nghiệp trong ngành xuất bản ở Charleston qua đời và vợ ông phải đảm nhiệm công việc kinh doanh càng củng cố ý nghĩ thực tế của anh rằng các cô gái nên được dạy kế toán “vì nhiều khả năng khi rơi vào cảnh góa bụa, nó sẽ hữu dụng với họ và con cái họ hơn là âm nhạc hay khiêu vũ”.

Khi Sally mới lên 8 tuổi, Franklin nhập một lố sách lớn từ Anh về cho cô bé. Ý tưởng của anh là Sally sẽ phụ trách việc bán chúng ở cửa hàng in nhưng cũng có thể tự học được chút gì từ đó. Các sách trong đơn đặt hàng gồm ba tá sách học của Trường Winchester, bốn cuốn từ điển, hai tá bản sao của một tuyển tập “cổ tích và ngụ ngôn với những châm ngôn khôn ngoan”.

Tuy vậy, đa phần Franklin thúc giục Sally hoàn thiện kỹ năng nội trợ của cô bé. Một ngày, sau khi quan sát con gái cố gắng khâu một khuyết áo mà không được, anh cho mời ngay một thợ may đến nhà đề chỉ dạy cho cô vài bài. Sally không bao giờ được hưởng sự đào tạo bài bản - thứ mà anh dành cho William. Vào thời gian anh lên kế hoạch mở một học viện ở Philadelphia, Sally đã 6 tuổi, nhưng anh không đưa ra bất kỳ điều khoản nào về việc đào tạo cho nữ sinh.18

Chỉ có một con gái (và một con trai riêng của chồng), đàn con của Deborah nhỏ bất thường đối với một phụ nữ sung sức ở xứ thuộc địa thời đó. Bản thân cô sinh ra trong gia đình có bảy người con và cha của Franklin có cả thảy 17 người con sau hai lần kết hôn. Trung bình một gia đình lúc đó có khoảng tám đứa con. Franklin viết một cách hào hứng về trẻ em và đã để Richard Nghèo Khổ ca tụng vẻ đẹp của một người phụ nữ mang thai. Trong các bài châm biếm như “Polly Baker” và các tiểu luận nghiêm túc như “Quan sát về sự gia tăng của nhân loại”, anh tán dương các lợi ích của sự đông con. Vì thế, hạn chế về đường con cái dường như không phải là một quyết định có chủ ý của Franklin. Thay vào đó, nó cho thấy hoặc vợ chồng anh ít thời gian chung chăn gối hoặc gặp khó khăn trong việc thụ thai, hoặc cả hai. Song dù lý do là gì, điều đó cuối cùng lại giúp Franklin dễ dàng rút lui khỏi công việc làm ăn sớm hơn để theo đuổi các nỗ lực khoa học và thực hiện các chuyến đi ngoại giao kéo dài. Có lẽ, điều đó cũng đóng góp vào sự nghiệp suốt đời của Franklin - kết bạn với những người trẻ tuổi, nhất là phụ nữ, và xây đắp mối quan hệ với họ như thể họ là con cái anh.19

POLLY BAKER

Thái độ của Franklin đối với phụ nữ có thể được đặc trưng bởi một chút khai sáng trong bối cảnh thời đại của anh - nhưng chỉ một chút thôi. Tuy vậy, rõ ràng anh thật sự yêu quý phụ nữ, thích bầu bạn và trò chuyện cùng họ. Anh có thể vừa cư xử nghiêm túc với họ lại vừa tán tỉnh họ. Trong thời thơ ấu của Sally, Franklin viết hai tiểu luận nổi tiếng. Theo những cách khác nhau, chúng đã kết hợp một cách thú vị thái độ khoan dung của anh với tình dục ngoài hôn nhân với thái độ biết ơn của anh với phụ nữ.

“Lời khuyên dành cho một chàng trai trẻ về việc lựa chọn tình nhân” được viết năm 1745. Tuy hiện nay nó khá nổi tiếng, tiểu luận này đã bị cháu trai Franklin và những người sưu tầm tác phẩm của anh ỉm đi suốt thế kỷ 19. Họ cho là nó quá thiếu đứng đắn để in ra. Franklin bắt đầu bài tiểu luận ngắn bằng cách ca ngợi hôn nhân là “phương thuốc phù hợp” cho ham muốn tình dục. Song nếu độc giả của anh “không làm theo lời khuyên này” và vẫn thấy “tình dục là không thể thiếu”, Franklin khuyên họ “trong những chuyện ong bướm, bạn nên chọn đàn bà lớn tuổi hơn là các cô gái trẻ”.

Sau đó, Franklin đưa ra một danh sách với tám lý do “xấc xược”: bởi có kiến thức rộng hơn, họ biết trò chuyện giỏi hơn; khi mất đi vẻ đẹp bề ngoài, họ học được cả ngàn cách hữu hiệu “để duy trì uy lực với đàn ông”; “không có rủi ro về con cái”; họ thận trọng hơn; tuổi tác xuất hiện từ đầu xuống, do đó ngay cả khi trên mặt đã xuất hiện nếp nhăn, phần thân dưới của họ vẫn săn chắc, “đến mức nếu che hết phần trên bằng một cái rổ và chỉ nhìn từ dưới thắt lưng, sẽ không thể phân biệt nổi hai người đàn bà một già một trẻ”; làm hư một phụ nữ lớn tuổi sẽ ít tội lỗi hơn một trinh nữ; ít mang cảm giác tội lỗi vì ta đem lại cho phụ nữ lớn tuổi niềm sung sướng trong khi chỉ đem lại cho các cô gái trẻ nỗi đau khổ. Franklin tung cú đá hậu táo bạo để kết lại bài viết: “Sau cùng, họ sẽ rất biết ơn!!”20

“Lời Của Polly Baker” là một cầu chuyện về tình dục và nỗi thống khổ nhìn từ góc độ phụ nữ, một công cụ văn chương thường được Franklin sử dụng khéo léo đến mức nó thể hiện được sự đề cao nữ giới của anh. Nội dung của nó thuật lại lời của một phụ nữ trẻ tuổi phải ra hầu tòa vì có đứa con ngoài giá thú thứ năm. Được xuất bản lần đầu ở London, sau đó thường xuyên được tái bản tại Anh và Mỹ, nhiều người không biết đây là một tác phẩm hư cấu. Phải 30 năm sau, Franklin mới tiết lộ mình đã bịa ra câu chuyện.

Sự hài hước nhẹ nhàng của bài luận ẩn giấu việc thực chất nó là một cú tấn công mạnh mẽ vào thói đạo đức giả và thái độ bất công đối với phụ nữ và tình dục. Polly lập luận rằng cô đã làm việc tốt khi tuân theo mệnh lệnh của Chúa Trời về sự sinh sôi nẩy nở. “Tôi đã cho năm đứa trẻ chào đời dù việc đó đe dọa tới cả sinh mạng. Tôi đã nuôi nấng chúng bằng sự siêng năng.” Polly phàn nàn rằng lẽ ra cô có thể nuôi chúng tốt hơn đôi chút nếu không bị tòa án liên tiếp xử phạt. “Xét tới bản chất của những điều tôi nói, liệu đó có phải một tội ác không khi tôi tạo thêm thần dân cho nhà vua trong một quốc gia mới thực sự đang rất cần người? Thú thật, tôi nghĩ rằng việc đó nên được coi là một hành động đáng tưởng thưởng chứ không phải đáng bị trừng phạt.”

Franklin là cha của một đứa con hoang và chịu trách nhiệm về việc đó nên anh đặc biệt gay gắt trước thứ tiêu chuẩn kép chỉ nhằm vào Polly, chứ không phải là những người đàn ông đã quan hệ với cô, để hạ nhục. Như Polly nói: “Tôi đồng ý ngay với lời cầu hôn duy nhất từng nhận được khi còn là một trinh nữ nhưng đã quá dễ dãi tin vào sự chân thành của kẻ đã cầu hôn mình. Bất hạnh thay, tôi đã đánh mất danh dự của mình vì cả tin vào danh dự của hắn: hắn làm tôi có thai rồi bỏ rơi tôi. Chính kẻ mà quý vị biết ấy, giờ đây đã trở thành một quan tòa của nước ta.”

Bằng việc làm tròn bổn phận cho những đứa trẻ chào đời, bất chấp việc sẽ không ai kết hôn với cô và sự ruồng bỏ của xã hội, Polly lập luận rằng, theo thiển ý của cô, cô xứng đáng “được dựng tượng để tưởng nhớ thay vì nhận một trận đòn”. Franklin viết, tòa án xúc động trước lời lẽ của Polly đến mức họ tha bổng cho cô và một trong số các thẩm phán đã cưới cô ngay ngày hôm sau.21

HỘI TRIẾT HỌC MỸ

Franklin là một trong số những người đầu tiên nhìn nhận các khu vực cư trú của người Anh tại Mỹ không chỉ là các thuộc địa biệt lập mà còn là các vùng của một quốc gia có tiềm năng thống nhất. Góc nhìn đó một phần là do anh ít có tính cục bộ hơn hẳn phần lớn những người Mỹ khác. Anh đã đi du lịch từ thuộc địa này sang thuộc địa khác, thiết lập liên minh với các chủ nhà in từ Đảo Rhode cho tới Nam Carolina. Để thu thập tin tức cho tờ báo và tạp chí của mình, anh đọc rất nhiều xuất bản phẩm ở Mỹ. Giờ