Chuong 6 NHÀ KHOA HỌC VÀ NHÀ PHÁT MINH-Philadelphia, 1744-1751-BẾP LÒ, CƠN BÃO VÀ ỐNG THÔNG TIỂU
Từ khi còn trẻ, với đầu óc hiếu kỳ và sự choáng ngợp của thời đại Khai sáng trước trật tự của vũ trụ đã thu hút Franklin đến với khoa học. Ở tuổi 20, trên chuyến hải hành từ London về nhà, anh đã nghiên cứu cá heo và tính toán vị trí của mình nhờ phân tích hiện tượng nguyệt thực. Và ở Philadelphia, anh đã mượn tờ báo, niên giám, Hội Kín và hội triết học để thảo luận về các hiện tượng tự nhiên. Niềm yêu thích khoa học đó đã theo Franklin suốt cuộc đời, với các nghiên cứu về Dòng Vịnh, khí tượng, từ trường Trái Đất, và sự làm lạnh.
Quãng thời gian anh đắm chìm trong khoa học nồng nhiệt nhất là thập kỷ 1740 và lên đến đỉnh cao vào những năm sau khi rút lui khỏi công việc kinh doanh năm 1748. Franklin không được đào tạo bài bản cũng như không có nền tảng toán học để trở thành một lý thuyết gia vĩ đại. Việc theo đuổi thứ mà anh gọi là “thú vui khoa học” cũng khiến một số người gạt anh ra, xem anh chỉ là một gã thợ hàn. Nhưng trong suốt cuộc đời mình, Franklin nổi danh như một nhà khoa học đương đại vĩ đại nhất và các nghiên cứu học thuật gần đây đã khôi phục vị trí ấy trong ngôi đền khoa học. Như Dudley Herschbach, giáo sư Đại học Harvard, đã tuyên bố: “Công trình về điện của Franklin được ghi nhận mở ra một cuộc cách mạng khoa học, sánh ngang với những gì mà Newton trong thế kỷ trước, hoặc Watson và Crick trong đời đại chúng ta, đã kiến tạo ra.”1
Các câu hỏi khoa học của Franklin chủ yếu được dẫn lối bởi sự hiếu kỳ thuần túy và sự hồi hộp khi khám phá. Thật vậy, anh tìm được niềm vui trong sự hiếu kỳ lạ lùng đó, dù đó là việc dùng xung điện để nấu gà tây hay giết thì giờ trong khi làm thư ký cho Hội đồng Lập pháp pháp bằng cách xây dựng các “hình vuông ma thuật” phức tạp trong đó những con số thuộc các hàng, cột và đường chéo đều có tổng bằng nhau.
Khoa học không giống một vài thứ khác mà Franklin theo đuổi: anh không bị động cơ tiền bạc chi phối. Anh từ chối xin cấp bằng sáng chế cho nhiều phát minh nổi tiếng của mình và vui thích với việc chia sẻ các phát hiện. Động lực của anh cũng không chỉ là tìm kiếm những gì thực tế. Franklin thừa nhận các hình vuông ma thuật “không thể có ứng dụng hữu ích” và niềm yêu thích ban đầu của anh với điện được thúc đẩy bởi nỗi đam mê hơn là việc đi tìm sự hữu dụng.
Tuy vậy, Franklin luôn tâm niệm mục tiêu biến khoa học thành thứ có ích, giống như cô vợ của Richard Nghèo Khổ muốn đảm bảo rằng chồng cô sẽ làm điều gì đó thực tế với tất cả những chiếc “bẫy chuột” cũ của anh ta. Nhìn chung, anh bị chi phối bởi nỗi tò mò trí tuệ thuần túy khi bắt đầu một câu hỏi khoa học; sau đó mới nỗ lực tìm cách ứng dụng nó vào thực tế.
Nghiên cứu của Franklin về cơ chế hấp thụ nhiệt tốt hơn của vải tối màu so với vải sáng màu là một ví dụ về cách tiếp cận đó. Các thí nghiệm này (từng được một bạn hữu cùng Hội Kín, Joseph Breintnall, bắt đầu tiến hành từ những năm 1730, dựa trên lý thuyết của Isaac Newton và Robert Boyle) bao gồm việc đặt các mảnh vải có màu sắc khác nhau lên tuyết và xác định mặt trời hun nóng chúng đến mức nào bằng cách so sánh mức độ tan của tuyết. Về sau, khi mô tả lại thí nghiêm, Franklin đã hướng suy nghĩ của mình đến các hệ quả thực tế, thí dụ “không nên mặc quần áo đen trong thời tiết nóng nực” hoặc tường của các lán chứa trái cây nên được sơn đen. Khi trình bày các kết luận đó, anh đã nói một câu nổi tiếng: “Khoa học đâu có ý nghĩa nếu không được dùng vào việc gì!”2
Một thí dụ nổi bật khác cho thấy Franklin đã áp dụng lý thuyết khoa học vào mục đích thực tế là phát minh vào đầu thập niên 1740 - một bếp lò dùng củi, có thể gắn vào lò sưởi để tỏa nhiều nhiệt nhất và giảm thiểu khói và tro. Sử dụng kiến thức về đối lưu và truyền nhiệt, anh đã đưa ra một thiết kế khéo léo (và có phần quá phức tạp).
Lò được xây sao cho nhiệt và khói từ đám lửa bay lên sẽ làm nóng một phiến sắt trên đỉnh, rối được đưa xuống một ống kéo dài bên dưới thành lò sưởi và sau cùng được đưa lên qua ống khói theo nguyên tắc đối lưu. Trong quá trình này, lửa sẽ đốt nóng buồng kim loại bên trong, giúp hút không khí sạch, mát từ tầng hầm lên, đốt nóng nó và để nó thoát ra phòng qua các mái hắt. Đó là về lý thuyết.
Năm 1744, Franklin nhờ một thợ sắt, thành viên Hội Kín, giúp sản xuất chiếc bếp lò mới, sau đó nhờ hai người anh và một số bạn bè khác tiếp thị chúng trên khắp vùng đông bắc. Các tập sách quảng cáo nhỏ được Franklin viết với đầy tính khoa học lẫn nghệ thuật bán hàng. Anh kiến giải cụ thể vì sao không khí nóng sẽ nở ra và chiếm nhiều không gian hơn không khí lạnh, vì sao nó lại nhẹ hơn và vì sao nhiệt có thể tự tỏa ra trong khi khói chỉ có thể bay đi nhờ gió. Sau đó, anh cung cấp giấy tờ chứng thực thiết kế mới là của mình và chào hàng rằng nó giảm thiểu khói và tàn tro - do đó sẽ làm giảm nguy cơ mắc sốt và ho - và cũng quảng cáo rằng nó tiết kiệm nhiên liệu hơn.
Franklin gọi chúng là Lò Sưởi Pennsylvania kiểu mới. Ban đầu, chúng khá được ưa chuộng và được bán với giá 5 bảng một chiếc.
Những lời khen tặng ngập tràn trên báo chí khắp xứ thuộc địa. “Để công bằng và tỏ lòng biết ơn, chúng phải được gọi là Bếp Lò Ông Franklin,” một người viết thư tín trên tờ Bưu điện Boston Buổi tối tuyên bố. “Tôi tin tất cả những ai đã trải nghiệm sự thoải mái và lợi ích của chúng sẽ đồng ý với tôi rằng tác giả của phát minh tài tình này xứng đáng được dựng tượng.”
Thống đốc Pennsylvania nằm trong số những người nhiệt tình - ông đề nghị trao cho Franklin một bằng phát minh có thể sinh lợi. “Nhưng tôi đã từ chối nó”, Franklin viết trong tự truyện. “Bởi đã hưởng lợi nhiều từ các phát minh của người khác, chúng ta nên vui mừng vì có cơ hội phục vụ người khác bằng bất cứ phát minh nào của mình; và nên làm điều đó một cách tự nguyện và hào phóng.” Đó là một tình cảm cao quý và chân thành.
Cuối cùng, nghiên cứu thấu đáo của một học giả cho thấy thiết kế này tỏ ra ít có tính thực tế và ít hợp với đại chúng hơn những gì Franklin hy vọng. Trừ phi ống khói và các ống phía dưới luôn nóng, sẽ không đủ tính đối lưu đề ngăn khói bị hút ngược vào phòng. Từ đó, vấn đề nảy sinh. Doanh số đi xuống, việc sản xuất dừng lại trong hai thập kỷ và đa số mẫu mã bị người sở hữu điều chỉnh, loại bỏ buồng kim loại và ống dẫn phía sau. Trong quãng đời sau này, Franklin đã hoàn thiện lý thuyết về ống khói và thiết kế lò sưởi. Song thứ ngày nay được biết đến rộng rãi với tên gọi Bếp lò Franklin thực ra chỉ là một dụng cụ thay thế tạm thời, nó đơn giản hơn hình dung ban đầu của anh rất nhiều.3
Franklin cũng kết hợp khoa học và tính thiết thực của cơ khí khi thiết kế ống thông tiểu được sử dụng lần đầu ở Mỹ, dựa trên việc chỉnh sửa một phát minh của châu Âu. John, anh trai của Franklin, lâm bệnh nặng và biên thư từ Boston bày tỏ mơ ước có một chiếc ống giúp ông dễ dàng đi tiểu. Franklin nảy ra thiết kế và không chỉ đơn giản mô tả lại, anh đã tìm một thợ bạc và giám sát việc chế tạo nó. Chiếc ống đủ mỏng để mềm dẻo và anh luồn một sợi dây vào bên trong ống để tăng độ cứng khi đưa nó vào cơ thể. Sợi dây sẽ được rút ra dần khi chiếc ống đạt tới điểm cần uốn cong. Chiếc ống thông của Franklin có bộ phận vít đề nó được đưa vào bằng cách xoay; nó còn có thể gập lại để rút ra dễ dàng. “Cần có kinh nghiệm đề dùng mọi thiết bị và công cụ mới đúng cách, đồng thời điều đó có thể gợi ý cho một vài điểm cải thiện”, Franklin nói với anh trai.
Nghiên cứu về thiên nhiên tiếp tục hấp dẫn Franklin. Trong số những phát hiện đáng ghi nhận nhất của anh có phát hiện về các trận bão lớn ở Bờ Đông, thường được gọi là bão đông bắc do các cơn gió của chúng xuất phát từ phía đông bắc. Trên thực tế, bão lại di chuyển ngược chiều gió, dọc bờ biển hướng từ phía nam lên. Tối ngày 21 tháng 10 năm 1743, Franklin đang chờ quan sát hiện tượng nguyệt thực mà anh biết sẽ xảy ra lúc 8 giờ 30 phút thì một trận bão dữ dội tràn qua Philadelphia và làm bầu trời tối đen. Vài tuần sau đó, anh đọc được những bài tường thuật về tổn thất mà trận bão gây ra từ Virginia đến Boston. “Song điều làm tối ngạc nhiên là, các tờ báo ở Boston có thuật lại việc quan sát lần nguyệt thực đó”, sau này anh chia sẻ với người bạn Jared Eliot. Vì thế, Franklin đã gửi thư cho anh trai ở Boston và được xác nhận rằng trận bão chưa chạm đến đây trong khoảng một giờ sau khi hiện tượng nguyệt thực chấm dứt. Những truy vấn về thời điểm của trận bão này và các trận khác dọc bờ biển đưa Franklin tới “ý kiến duy nhất” - anh nói với Eliot - rằng “dù hướng gió là từ đông bắc xuống tây nam, song hướng của bão là từ tây nam lên đông bắc”. Anh phỏng đoán xa hơn và rất chính xác rằng không khí nóng bốc lên ở phía nam hình thành các cơ chế áp thấp hút gió từ phía bắc. Hơn 150 năm sau, học giả lớn William Morris Davis* tuyên bố: “Khoa học dự báo thời tiết khởi đầu từ đây.”4
Hàng loạt hiện tượng khoa học khác cũng nhận được sự quan tâm của Franklin trong thời gian này. Ví dụ, anh trao đổi qua thư với Cadwallader Colden* về sao chổi, sự truyền máu, sự tiết mồ hôi, quán tính và sự quay của Trái Đất. Nhưng chính một buổi trình diễn ảo thuật năm 1743 đã đưa Franklin đến với thứ được xem là nỗ lực khoa học nổi tiếng nhất của anh.
ĐIỆNTrong chuyến về thăm Boston vào mùa hè năm 1743, Franklin tình cờ có một buổi tối tiêu khiển với một người trình diễn khoa học lưu động - Tiến sĩ Archibald Spencer, đến từ Scotland. (Trong tự truyện, Franklin nhớ nhầm tên và năm gặp gỡ nên viết “Tiến sĩ Spence” và “năm 1746”.) Spencer chuyên tổ chức các màn trình diễn gây kinh ngạc rất gần với biểu diễn giải trí. Ông miêu tả các lý thuyết về ánh sáng của Newton và trưng ra một chiếc máy đo đạc lưu lượng máu, cả hai đều là mối quan tâm của Franklin. Nhưng quan trọng hơn, ông đã biểu diễn các trò ảo thuật với điện; chẳng hạn, tạo ra tĩnh điện bằng cách cọ xát một ống thủy tinh và kéo ra những tia lửa từ đôi chân của một cậu bé đang bị treo bằng các dải lụa rủ xuống từ trần nhà. “Những trò ảo thuật này liên quan tới một đề tài khá mới mẻ với tôi nên chúng khiến tôi ngạc nhiên lẫn thích thú,” Franklin nhớ lại.
Trong thế kỷ trước, Galileo và Newton đã giải mã bí ẩn của trọng lực. Tuy nhiên, điện, một lực vĩ đại khác của vũ trụ, vẫn chưa được hiểu rõ hơn là bao so với thời viễn cổ. Có những người, như Tiến sĩ Spencer, chơi đùa với nó để biểu diễn. Tu viện trưởng Nollet*, nhà khoa học trong triều đình vua Louis XV nước Pháp, đã kết nối 180 binh sĩ (và sau đó là 700 sĩ tu) lại với nhau bằng các đoạn sắt rồi truyền qua họ một xung tĩnh điện, bắt họ nhảy cùng nhịp để mua vui cho triều đình. Nhưng Franklin là người hoàn hảo để biến điện từ một trò ảo thuật nơi phòng khách trở thành một ngành khoa học. Nhiệm vụ này không đòi hỏi một học giả uyên thâm về lý thuyết hay toán học, mà cần một người nhanh trí, khéo léo và có óc tò mò để tiến hành các thí nghiệm thực tế; cùng tài năng cơ khí đủ để gò hàn nhiều thứ máy móc kỳ cục.
Mấy tháng sau khi Franklin trở về Philadelphia, Tiến sĩ Spencer cũng đến đây. Franklin đóng vai trò một người trung gian quảng cáo cho các bài giảng của ông và bán vé tại chính cửa hiệu của mình. Ngay từ năm 1747, Công ty Thư viện của anh đã được nhà đại diện tại London, Peter Collinson, gửi cho một ống thủy tinh dài để tạo tĩnh điện cùng các tài liệu mô tả một số thí nghiệm. Trong thư cảm ơn Collinson, Franklin kể lại niềm vui dạt dào mà thiết bị này đem đến: “Trước giờ, tôi chưa từng tham gia vào một nghiên cứu nào hoàn toàn chiếm lấy tâm trí tôi đến thế.” Anh ủy thác cho một thợ thổi thủy tinh ở địa phương và một thợ bạc chế tạo thêm các thiết bị tương tự và mời các bạn bè ở Hội Kín cùng tiến hành thí nghiệm.5
Các thí nghiệm nghiêm túc đầu tiên của anh bao gồm việc thu lấy một điện tích sau đó nghiên cứu tính chất của nó. Franklin nhờ bạn bè nhận điện từ chiếc ống thủy tinh đang quay, sau đó để họ chạm vào nhau đề xem liệu các tia lửa điện có phát ra. Kết quả của thí nghiệm này giúp Franklin khám phá ra điện “không được tạo ra do ma sát mà chỉ có thể được thu nhận". Nói cách khác, một điện tích có thể bị hút vào người A và hút ra khỏi người B. Điện tích sẽ chảy trở lại nếu hai người chạm vào nhau.
Để giải thích rõ hàm ý của mình, Franklin sáng tạo ra một vài thuật ngữ mới trong thư gửi Collinson. “Ta nói B nhiễm điện tích dương còn A nhiễm điện tích âm; hoặc B nhiễm điện tích cộng còn A nhiễm điện tích trừ” Franklin xin lỗi người bạn Anh về việc đặt ra các từ mới: “Có thể dùng các thuật ngữ này cho đến khi các nhà khoa học cho chúng ta các thuật ngữ tốt hơn.”
Thực tế, các thuật ngữ đó vẫn được sử dụng cho đến nay cùng với nhiều từ ngữ mới khác được Franklin đặt ra để diễn tả các phát hiện của mình: pin, nhiễm điện, trung hòa, mật độ và chất dẫn điện. Một điểm quan trọng phải nói về Franklin trong vai trò một nhà khoa học là cách sử dụng lối viết tường minh. “Ông viết sao cho người lạ lẫm với khoa học lẫn triết gia đều có thể hiểu được và làm cho các nội dung chi tiết vừa thú vị lại vừa dễ hiểu” - nhà hóa học đầu thế kỹ 19 Ngài Humphry Davy* nhận xét.
Cho đến lúc đó, người ta vẫn cho là điện bao gồm hai loại dòng - gọi là thủy tinh và nhựa* - và có thể được tạo ra một cách độc lập. Phát hiện của Franklin cho thấy, việc tạo ra một điện tích dương sẽ dẫn tới tạo ra một điện tích âm tương đương, được biết đến như thuyết bảo toàn điện tích và dòng điện đơn nhất. Các khái niệm trên phản ánh tư duy kế toán của Franklin - từng bộc lộ lần đầu qua tác phẩm Luận văn viết tại London, nêu quan điểm rằng niềm vui sướng và nỗi đau khổ luôn cân bằng.
Đây là một cú đột phá có tầm vóc lịch sự. “Là một sự khái quát hóa rộng đã trải qua kiểm nghiệm sau hai trăm năm áp dụng thành công, định luật bảo toàn điện tích của Franklin phải được xem là có ý nghĩa quan trọng căn bản đối với ngành vật lý giống như định luật bảo toàn động lượng của Newton” - giáo sư Đại học Harvard I. Bernard Cohen phát biểu.
Franklin cũng khám phá ra một tính chất của sự tích điện, “hiệu ứng kỳ diệu của các mũi nhọn”, và sớm ứng dụng nó vào thực tế. Anh làm nhiễm điện một viên bi sắt nhỏ và đung đưa một chiếc nút bần gần nó, chiếc nút bật ra do lực của điện tích trên viên bi. Khi đưa đầu nhọn của một miếng kim loại đến gần viên bi, nó sẽ hút lượng điện tích đó. Nhưng một miếng kim loại tù sẽ không hút điện hoặc phát tia lửa dễ dàng như vậy; còn nếu nó được cách ly thay vì nối đất, nó sẽ không hề hút điện.
Franklin tiếp tục thí nghiệm của anh bằng việc thu và cất trữ điện trong một dạng tụ điện sơ khai có tên là bình Leyden, tên của thị trấn ở Hà Lan nơi nó được phát minh. Những chiếc bình như vậy có một lá kim loại bên ngoài; và ở bên trong, tách biệt với lá kim loại này bằng một lớp thủy tinh cách điện, là chì hoặc nước hoặc một kim loại có thể được tích điện qua dây dẫn. Franklin chỉ ra: khi phần trong bình được tích điện, lá kim loại bên ngoài cũng tích một lượng điện tích tương đương và trái dấu.
Đồng thời, bằng việc đổ nước và kim loại trong bình Leyden ra mà không thể phát tia lửa điện, Franklin nhận thấy điện tích không thật sự nằm trong chúng. Thay vào đó, anh kết luận đúng đắn rằng chính lớp thủy tinh đang giữ lượng điện tích đó. Vì thế, anh đã xếp một chồng đĩa thủy tinh bọc thép, truyền điện và nối chúng lại với nhau. Vậy là, Franklin đã tạo ra và đặt tên cho một thiết bị mới - “thứ chúng ta gọi là pin điện”.6
Điện cũng tiếp thêm năng lượng cho óc vui đùa khôi hài của anh. Anh làm ra một con nhện bằng kim loại tích điện biết nhảy nhót như thật. Anh làm nhiễm điện hàng rào sắt quanh nhà để tạo các tia lửa khiến khách khứa vui thích. Anh còn dựng một bức tranh của Vua George II và tạo ra một cú sốc điện “mưu phản” khi có ai đó chạm vào vương miện mạ vàng của nhà vua. Franklin nói đùa rằng, “nếu cả vòng người quanh bức tranh bị điện giật thì thí nghiệm này có thể gọi là Những Kẻ Âm Mưu.” Đông đảo bạn bè kéo đến xem các buổi biểu diễn của anh, làm anh càng được tiếng là người thích vui đùa. (Ở một trong các cảnh kì quặc hơn nữa, trong tiểu thuyết Mason ở Dixon của Thomas Pynchon, Franklin cho các thanh niên trong một quán rượu xếp hàng rồi dùng pin của mình sốc điện họ và la lớn: “Các công tử bột, tất cả hãy nắm tay!”)
Vì mùa hè năm 1749 đang tới gần nên độ ẩm tăng lên khiến việc làm thí nghiệm khó khăn hơn, Franklin quyết định dừng chúng lại chờ sang mùa thu. Dù các phát hiện của anh có ý nghĩa lịch sử lớn lao, anh vẫn chưa áp dụng được chúng vào thực tế. Franklin than thở với Collinson rằng anh thấy “hơi bẽ mặt vì cho đến nay chúng tôi vẫn chưa khám phá được thứ gì mới theo nghĩa hữu ích cho nhân loại”. Thực tế, sau nhiều lần hiệu chỉnh lý thuyết và một vài cú điện giật mạnh đến mức làm anh choáng váng mất cảm giác, “mục đích sử dụng duy nhất của điện được phát hiện ra là nó giúp một gã đàn ông thích hư danh biết khiêm tốn”, người đàn ông luôn ngăn cản thói tự cao của bản thân nói.
Kết thúc mùa thí nghiệm là dịp để tổ chức “bữa tiệc vui vẻ” bên bờ sông. Franklin kể lại nó trong bức thư gửi Collinson: “Một con gà tây bị giật điện chết để dùng cho bữa tối của chúng tôi và được quay bằng lò nướng điện, trước đám lửa nhen lên từ cái chai nhiễm điện. Chúng tôi nâng những chiếc cốc nhiễm điện để chúc sức khỏe tất cả các nhà điện học lừng danh đến từ Anh, Pháp, Đức dưới tiếng đại bác phát ra từ chiếc pin điện.”
Sự phù phiếm diễn ra tốt đẹp. Dù gà tây tỏ ra khó hạ hơn gà thường, Franklin và các bạn cuối cùng cũng thành công trong việc kết nối một chiếc pin lớn. “Gia cầm bị giết theo cách này có thịt mềm một cách không bình thường,” anh viết. Franklin trở thành đầu bếp tiên phong của món gà tây quay; còn về những việc thực tế hơn sẽ có thời gian dành cho chúng vào mùa thu.7
TÓM LẤY SÉT TỪ BẦU TRỜITrong cuốn sổ ghi chép lại các thí nghiệm, vào tháng 11 năm 1749, Franklin ghi chú một vài điểm giống nhau gây tò mò giữa các tia lửa điện và sét. Anh liệt kê ra 12 điểm, bao gồm: “1. Đem lại ánh sáng. 2. Màu sắc ánh sáng. 3. Các hướng ngoằn ngoèo. 4. Chuyển động nhanh. 5. Được kim loại truyền dẫn. 6. Tiếng vỡ hay tiếng ồn khi nổ... 9. Làm hại các loài động vật. 12. Mùi lưu huỳnh.”
Quan trọng hơn, anh kết nối giữa sự phỏng đoán về sét này và các thí nghiệm trước đây về khả năng hút điện tích của các vật bằng kim loại có đầu nhọn. “Dòng điện bị hút bởi các đầu nhọn. Chúng ta không biết tính chất này có đúng với sét không. Nhưng vì chúng giống nhau ở tất cả những đặc tính mà chúng ta có thể so sánh, có thể nào chúng lại khác nhau ở đặc tính này?” Tới đây, anh có một lời hiệu triệu quan trọng nữa: “Hãy cứ làm thí nghiệm!”
Suốt nhiều thế kỷ, tai họa có tính tàn phá do sét gây ra vẫn được coi là hiện tượng siêu nhiên hay sự biểu hiện ý chí của Chúa. Khi một trận bão sắp ập đến, chuông nhà thờ sẽ được rung lên để chống sét. “Những thanh âm của kim khí thần thánh có thể đẩy lùi quỷ dữ và tránh xa bão, sét” - Thánh Thomas Aquinas dạy. Nhưng ngay cả các tín hữu thuần thành nhất cũng có thể nhận ra cách đó không hiệu quả lắm. Giữa thập nhiên 1700, trong một giai đoạn kéo dài 35 năm, chỉ riêng ở Đức, 386 nhà thờ đã bị sét đánh và hơn 100 phu kéo chuông đã mất mạng, ở Venice, khoảng 3.000 người đã chết khi hàng tấn thuốc nổ trữ trong một nhà thờ bị sét đánh trúng. Như Franklin về sau kể lại với John Winthrop, giáo sư đại học Harvard: “Dường như sét chủ ý đánh các tháp chuông đúng lúc tiếng chuông vang lên; ấy vậy mà họ vẫn tiếp tục ban phước cho những quả chuông mới và rung những quả chuông cũ bất cứ khi nào nó nổ ra. Đã đến lúc người ta thử một trò gì khác.”8
Nhiều nhà khoa học, trong đó có Newton, đã để ý tới mối liên hệ rõ ràng giữa sét và điện. Nhưng chưa ai từng tuyên bố “Hãy cứ làm thí nghiệm”, hoặc thiết kế một thí nghiệm có phương pháp, hoặc nghĩ tới tính thiết thực của việc kết nối tất cả mọi điều này với sức mạnh của các cột kim loại có đầu nhọn.
Franklin lần đầu phác thảo ra các lý thuyết về sét vào tháng 4 năm 1749, ngay trước buổi tiệc gà tây quay cuối mùa. Anh đoán rằng hơi nước trong một đám mây có thể tích điện và điện tích dương sẽ tách biệt với điện tích âm. Anh nói thêm, khi “các đám mây nhiễm điện này bay qua thì các cây cao, các tháp cao, các chóp nhọn, các cột buồm của tàu thuyền... sẽ hút lửa điện và toàn bộ đám mây sẽ phóng điện.” Đây không phải một phỏng đoán tồi và nó dẫn tới một lời khuyên thực tế: “Vì thế sẽ thật nguy hiểm nếu trú ẩn dưới tán cây trong cơn sấm sét.” Nó cũng dẫn tới thí nghiệm nổi tiếng nhất mà anh từng làm.9
Trước khi tự cố gắng tiến hành các thí nghiệm do anh đề xướng, Franklin mô tả chúng trong hai lá thư nổi tiếng gửi Collinson vào năm 1750. Hai lá thư này đã được trình bày trước Hội Hoàng gia ở London, sau đó được xuất bản rộng rãi. Ý tưởng cơ bản là dùng một cột kim loại cao để hút điện tích từ các đám mây theo cách anh dùng cây kim để hút điện tích từ quả bóng sắt trong phòng thí nghiệm. Anh mô tả thí nghiệm mà anh đề xuất như sau:
Trên đỉnh của một ngọn tháp hay gác chuông cao, ta đặt một chòi canh đủ lớn để chứa một người và một bục thiết bị. Từ giữa bục, dựng lên một cột sắt thẳng đứng có đầu rất nhọn, cao khoảng 6-9 m. Nếu bục thiết bị đó được giữ sạch và khô, người đứng trên nó khi các đám mây mang điện tích bay qua ở tầm thấp có thể bị nhiễm điện đủ đề phóng tia lửa điện, chiếc cột sẽ hút điện tích từ đám mây về phía anh ta. Nếu e sợ xảy ra bất cứ nguy hiểm nào với người này (dù tôi nghĩ sẽ không có gì nguy hiểm), hãy để anh ta đứng trên sàn chòi và thỉnh thoảng đưa đến gần chiếc cột một vòng dây có một đầu cố định vào mái lợp tấm chì, còn anh ta giữ một đầu của nó bằng tay cắm bọc sáp (để cách ly với nó). Nếu chiếc cột nhiễm điện, khi đó, các tia lửa điện sẽ đánh từ cây cột vào sợi dây mà không ảnh hưởng đến anh ta.
Franklin đã lầm khi cho rằng sẽ không có nguy hiểm gì, vì ít nhất một một nhà thí nghiệm tại châu Âu đã phát hiện điểm chết người này. Đề xuất dùng sợi dây được giữ bằng sáp cách điện là cách tiếp cận khôn ngoan hơn.
Nếu các giả thiết này đúng - Franklin viết trong một lá thư khác gửi cho Collinson - thì cột thu lôi có thể thuần phục được một trong các hiểm họa tự nhiên lớn nhất mà con người phải đối diện. “Sẽ có cách hiệu quả để bảo đảm nhà cửa, tàu bè và cả các thành phố, nhà thờ không bị sét đánh,” anh dự đoán. “Tôi nghĩ, tia lửa điện sẽ được lặng lẽ hút khỏi các đám mây.” Tuy vậy, anh không dám chắc. “Điều này có vẻ bất thường, tạm thời hãy gác nó qua một bên cho đến khi tôi gửi các thí nghiệm tổng quát.”10
Những bức thư của Franklin được Tạp chí Quý ông tại London trích đăng vào năm 1750 và được xuất bản thành một cuốn sách nhỏ dày 86 trang vào năm sau. Đáng lưu ý hơn, vào đầu năm 1752, chúng được dịch sang tiếng Pháp và trở thành một tin chấn động. Vua Louis XV hạ lệnh muốn xem các phép thử tại phòng thí nghiệm, và các thí nghiệm đã được tiến hành vào tháng Hai bởi ba người Pháp đã chuyển ngữ các thí nghiệm của Franklin, dẫn đầu là các nhà tự nhiên học và Bá tước Buffon* và Thomas-François D’Alibard. Nhà vua hào hứng đến mức đã khích lệ nhóm này thử làm thí nghiệm về cột thu lôi mà Franklin đề xuất. Một lá thư gửi tới Hội Hoàng gia London thừa nhận: “Sự tán dương của Bệ hạ đã khơi dậy trong các ngài de Buffon, D’Alibard và de Lor nỗi khao khát được xác quyết các phỏng đoán của ông Franklin về mối tương đồng giữa sét và điện nên họ đã tự chuẩn bị để tiến hành thí nghiệm.”
Tại ngôi làng Marly, một vùng ngoại ô phía bắc Paris, người Pháp dựng một chòi canh với một cột thu lôi bằng sắt cao 12m và bắt một người lính đã giải ngũ đóng vai Prometheus.* Vào lúc hơn 2 giờ chiều ngày 10 tháng 5 năm 1752, một đám mây giông bay ngang qua: người lính có thể hút tia lửa điện đúng như Franklin đã phỏng đoán. Một tu viện trưởng ở địa phương đã háo hức nắm sợi dây cách điện và lặp lại thí nghiệm sáu lần. Ông ta bị giật một lần nhưng vẫn sống sót để mừng thành công. Trong vòng vài tuần, thí nghiệm được lặp lại hàng chục lần trên khắp châu Âu. “Ý tưởng của ông Franklin không còn là phỏng đoán nữa” - D’Alibard báo cáo với Viện Hoàng gia Pháp. “Giờ đây nó đã trở thành sự thật.”
Franklin đã trở thành một xúc cảm quốc tế dù chính anh chưa biết điều đó. Từ London, trong nỗi ngây ngất, Collinson viết thư cho bạn báo tin “Đại đế của nước Pháp nghiêm chỉnh hạ lệnh” yêu cầu các nhà khoa học của ngài chuyển lời “khen tặng đến ông Franklin tại Philadelphia theo lối hỏa tốc vì các phát hiện hữu dụng về điện và tính ứng dụng của các cột nhọn trong việc chống lại tác động khủng khiếp của bão tố có sấm sét”.11
Tháng sau đó, trước khi lời khen của người Pháp đến Mỹ, Franklin tự nghĩ ra một cách làm thí nghiệm khéo léo theo những gì về sau chính anh và người bạn, khoa học gia Joseph Priestley, kể lại. Anh đã chờ tháp chuông Nhà thờ Cơ đốc Philadelphia hoàn thiện để có thể tận dụng lợi thế về độ cao của nó. Vì bất nhẫn, Franklin nảy ra ý định dùng một con diều - món đồ chơi anh đã thích thú thả và làm thí nghiệm khoa học từ thời niên thiếu ở Boston - để thay thế. Để tiến hành thí nghiệm với một sự bí mật nhất định, Franklin nhờ William thả một con diều bằng lụa. Một dây sắt nhọn nhô lên từ đỉnh con diều và một chiếc chìa khóa được buộc gần cuối cuộn dây diều ướt để có thề đưa một sợi dây kim loại đến gần nó nhằm hút các tia lửa điện.
Các đám mây trôi qua mà không có tác động gì. Vừa lúc Franklin bắt đầu thất vọng, bỗng vài đoạn của sợi dây căng lên. Đặt đốt ngón tay của mình vào chiếc chìa khóa, anh có thể hút được các tia lửa điện - và đáng nói là vẫn còn sống. Anh tiếp tục thu thêm điện vào bình Leyden và nhận thấy nó có cùng đặc tính như điện được tạo ra trong phòng thí nghiệm. “Đến đây, sự tương đồng giữa điện và sét đã hoàn toàn được chứng tỏ”, anh trình bày trong một bức thư gửi vào tháng Mười năm đó.
Franklin và cánh diều của mình không chỉ được ngợi ca một cách tất yếu trong biên niên sử khoa học mà còn đi vào tri thức quần chúng. Bức tranh nổi tiếng do Benjamin West vẽ năm 1805, Franklin hút điện từ bầu trời, đã nhầm lẫn khi khắc họa Franklin như một vị hiền triết nhăn nheo thay vì một người đàn ông 46 tuổi tràn đầy sinh khí. Một ảnh in nổi tiếng không kém vào thế kỷ 19 của Currier và Ives lại khắc họa William như một cậu bé chứ không phải một chàng trai 21 tuổi.
Ngay trong giới sử gia khoa học, vẫn có một vài bí ẩn về câu chuyện thả diều nổi tiếng của Franklin. Mặc dù nó phải diễn ra vào tháng 6 năm 1752, trước khi tin tức về các thí nghiệm của người Pháp vài tuần trước đó đến nơi, Franklin không thông báo rộng rãi về nó suốt mấy tháng. Anh thậm chí không đề cập tới nó trong những lá thư gửi Collinson vào mùa hè năm ấy và rõ ràng cũng không nói gì với Ebenezer Kinnersley, một người bạn đang giảng về điện tại Philadelphia cùng thời gian đó. Anh cũng không đưa tin về thí nghiệm thả diều ra công chúng ngay cả sau khi nhận được tin về sự thành công của người Pháp, có lẽ vào cuối tháng Bảy hoặc tháng Tám. Nhật báo Pennsylvania ra ngày 27 tháng 8 năm 1752 có đăng một lá thư thuật lại các thí nghiệm ở Pháp, song không hề để cập việc cha con Franklin cũng đã xác nhận kết quả này một cách độc lập.
Báo cáo công khai đầu tiên xuất hiện vào tháng Mười, bốn tháng sau khi cuộc thí nghiệm diễn ra, trong một bức thư Franklin gửi tới Collinson, được đăng trên tờ Nhật báo Pennsylvania. “Khi báo chí châu Âu liên tục nói về thành công của Thí nghiệm Philadelphia, liên quan đến việc hút lửa điện từ các đám mây, những người hiếu kỳ có thể hài lòng khi biết rằng, một thí nghiệm tương tự đã thành công ở Philadelphia dù được tiến hành theo một cách khác biệt và dễ dàng hơn,” anh viết. Franklin đi vào miêu tả chi tiết việc chế tạo con diều và các dụng cụ khác, song theo một cách bâng quơ kỳ lạ, không hề sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất đề nói rõ chính hai cha con anh đã làm việc đó. Franklin kết thúc bằng cách bày tỏ sự hài lòng khi biết thành công của các thí nghiệm ở Pháp đã đẩy nhanh việc lắp đặt các cột thu lôi tại đây. Anh cũng nhấn mạnh điểm: “trước đó chúng tôi đã lắp cột thu lôi trên nóc học viện và chóp nhọn tòa nhà chính phủ”. Số báo này cũng quảng cáo ấn bản mới của Niên giảm Richard Nghèo Khổ, với một bài tường thuật về “cách chống sét cho nhà cửa, v.v.”.
Một bài tường thuật sinh động hơn và đích danh hơn về việc thả diều, trong đó có cả các chi tiết về sự tham gia của William, được Joseph Priestley đưa ra trong cuốn Lịch sử và tình trạng hiện nay của điện, xuất bản lần đầu năm 1767. “Ông nảy ra suy nghĩ rằng, bằng một cánh diều bình thường, ông có cách tiếp cận các khu vực có sấm sét chủ động hơn và tốt hơn bất cứ chóp nhọn nào,” Priestley viết về Franklin, và “ông đã nắm lấy cơ hội ngay khi cơn bão sét đầu tiên ập đến - ông đi bộ ra cánh đồng, ở đó có một căn lều thuận tiện để làm thí nghiệm.” Priestley, một nhà khoa học người Anh có tiếng, đã mô tả dựa trên thông tin trực tiếp nhận được từ Franklin. Hai người gặp nhau lần đầu ở London năm 1766. Franklin cung cấp cho Priestley tài liệu khoa học và hiệu đính bản thảo. Đoạn tường thuật kết thúc với lời tuyên bố rõ ràng: “Sự việc này diễn ra vào tháng 6 năm 1752 - một tháng sau khi các nhà điện học ở Pháp xác minh chính lý thuyết này - song trước đó ông không hề hay biết gì về những việc họ đã làm.”12
Sự trì hoãn việc thông báo về thí nghiệm thả diều của Franklin khiến một số sử gia hoài nghi, liệu anh có thật sự thực hiện nó vào mùa hè năm 1752. Gần đây, có một cuốn sách còn cáo buộc rằng lời tuyên bố đó chỉ là bịa đặt. Một lần nữa, I. Bernard Cohen tỉ mỉ đã tiến hành nghiên cứu thấu đáo dưới dạng trinh sát lịch sử. Dựa trên thư tín, các bài tường thuật và sự thật rằng nhiều cột thu lôi đã được dựng lên tại Philadelphia vào mùa hè năm đó, ông đi đến kết luận sau một bài phân tích dài 40 trang, rằng: “Không có lý do gì để hồ nghi việc Franklin đã thai nghén và thực hiện thí nghiệm thả diều trước khi biết tin về việc tổ chức thí nghiệm tại Pháp.” Cohen nói thêm rằng, nó “không chỉ được Franklin tiến hành mà có cả những người khác” và nhấn mạnh: “Chúng ta có thể tự tin kết luận Franklin đã làm thí nghiệm thả diều vào tháng 6 năm 1752. Không lâu sau đó, vào cuối tháng Sáu hoặc tháng Bảy cùng năm, tại Philadelphia những cây cột thu lôi đầu trên thế giới đã bắt đầu được dựng lên để phục vụ con người.”13
Thực chất, theo tôi nghĩ, thật bất hợp lý khi cho rằng Franklin bịa ra một ngày tháng Sáu hoặc những thông tin khác về thí nghiệm thả diều của anh. Người ta chưa từng thấy Franklin thêm thắt vào thành tựu khoa học của mình bao giờ. Chưa kể, lời thuật của Priestley chứa đựng nhiều chi tiết và màu sắc cụ thể đủ sức thuyết phục. Nếu muốn tô vẽ cho bản thân, Franklin có thể tuyên bố là anh đã thả diều trước khi giới khoa học Pháp tiến hành phiên bản thí nghiệm mà anh đề xướng. Thay vào đó, anh hào phóng thừa nhận họ là những người đầu tiên chứng tỏ lý thuyết của anh. Và dù sau này hai cha con Franklin có mối bất hòa sâu sắc, William chưa bao giờ phủ nhận câu chuyện nổi tiếng về cánh diều.
Vậy, tại sao Franklin lại trì hoãn thông báo một điều có thể trở thành kỳ tích khoa học lừng lẫy nhất trong đời? Có rất nhiều cách lý giải. Franklin hầu như không bao giờ lập tức tường thuật về các thí nghiệm trên tờ Nhật báo hay bất cứ nơi nào khác. Anh thường chờ, giống như việc anh có thể đã làm trong trường hợp này, để chuẩn bị cho một bài tường thuật đầy đủ hơn, thay vì một thông báo nhanh gọn. Việc này thường tốn khá nhiều thời gian viết ra rồi cho chép lại. Thí dụ, anh không báo cáo rộng rãi về các thí nghiệm của năm 1748 cho đến tháng 4 năm 1749 khi gửi thư cho Collinson. Một sự trì hoãn tương tự trong việc truyền đạt các kết quả nghiên cứu cũng xảy ra vào năm sau.
Cũng có thể Franklin sợ bị chê cười nếu các phát hiện ban đầu của mình thành ra sai lầm. Nói về lịch sử ngành điện, Priestley đã lấy mối băn khoăn này làm lý do lý giải tại sao Franklin lại thả diều bí mật. Thực tế, chính các thí nghiệm khác được tiến hành vào mùa hè năm đó cũng bị nhiều nhà khoa học và nhà bình luận, trong đó có Tu viện trưởng Nollet, gọi là ngu ngốc. Do đó, Cohen phỏng đoán có thể anh đã đợi để lặp lại và hoàn thiện thí nghiệm. Một khả năng khác do Van Doren đưa ra: Franklin muốn thời điểm thông báo trùng với lúc bài viết về cột thu lôi được đăng tải trong ấn bản niên giám mới vào tháng Mười.14
Dù lý do trì hoãn việc đưa tin về thí nghiêm là gì, từ mùa hè đó Franklin có động lực đề thuyết phục công dân Philadelphia dựng ít nhất hai cột thu lôi nối đất trên nóc các tòa nhà cao - rõ ràng đây là nơi đầu tiên trên thế giới chúng được dùng với mục đích bảo vệ. Tháng chín năm đó, anh cũng dựng một cột thu lôi tại chính nhà mình với một thiết bị báo bão khéo léo. Chiếc cột thu lôi được mô tả trong một lá thư gửi cho Collinson: nó được nối đất bởi một sợi dây nối với chiếc máy bơm của giếng nước; song anh để lại một khoảng trống 15 cm khi nó chạy qua cửa phòng ngủ. Trong khoảng trống, anh để một quả bóng và hai quả chuông - chúng sẽ ngân lên khi có một đám mây giông phóng điện vào cột thu lôi. Đây là sự kết hợp điển hình giữa thú tiêu khiển, nghiên cứu và tính thực tế. Anh dùng nó để thu điện tích phục vụ cho các thí nghiệm của mình, nhưng để một khoảng trống đủ nhỏ để lượng điện phóng vẫn an toàn nếu sét đánh thật. Tuy nhiên, Deborah không thích thú đến vậy. Nhiều năm về sau, khi đang ở London, Franklin hồi âm một lá thư phàn nàn của vợ bằng việc chỉ dẫn nếu tiếng chuông làm cô sợ, hãy lấp khoảng trống đó bằng một dây kim loại để chiếc cột thu lôi sẽ bảo vệ ngôi nhà trong yên lặng.
Trong một số nhóm - nhất là những nhóm tôn giáo - các phát hiện của Franklin đã khuấy lên sự tranh cãi. Tu viện trưởng Nollet tiếp tục gièm pha các ý tưởng của anh vì đố kỵ và tuyên bố rằng cột thu lôi là một sự xúc phạm Chúa. Franklin viết thư cho một người bạn và nói: “Như thể ông ta nghĩ việc con người đề ra cách tự bảo vệ mình trước những trận sấm sét từ Thiên đàng là một sự tự phụ! Chắc chắn so với mưa, mưa đá hay ánh mặt trời từ Thiên đàng, sấm sét từ Thiên đàng không hề siêu nhiên hơn; và để chống lại sự bất tiện của chúng, con người đã tự bảo vệ mình bằng mái nhà và bóng cây mà không do dự gì.”
Phần lớn thế giới sớm tán thành ý kiến này, và cột thu lôi bắt đầu mọc lên trên khắp châu Âu và các thuộc địa. Franklin bỗng nhiên trở thành người nổi tiếng - được đại học Harvard và Yale trao bằng danh dự vào mùa hè năm 1753 và là người đầu tiên còn sống và ở ngoài nước Anh được Hội Hoàng gia London tặng thưởng Huy chương Copley vàng danh giá.* Đáp từ của Franklin tới Hội này vẫn dí dỏm như thường lệ: “Tôi không biết có ai trong cơ quan học thuật của quý vị đã đạt được môn nghệ thuật cổ đại đầy khoa trương - làm nhân lên số vàng; song quý vị chắc chắn đã tìm ra nghệ thuật khiến vàng trở nên có giá trị hơn nhiều nhiều lần.”15
VỊ TRÍ TRONG NGÔI ĐỀN KHOA HỌC
Khi mô tả cho Collinson cách thức các mũi kim loại nhọn hút điện tích, Franklin mạnh dạn phỏng đoán các lý thuyết về vật lý ẩn sau nó. Nhưng anh thừa nhận mình có “một số hoài nghi” về các phỏng đoán này. Anh nói thêm rằng, hiểu được tự nhiên vận động như thế nào quan trọng hơn trả lời câu hỏi vì sao về mặt lý thuyết: “Việc biết cách thức mà tự nhiên thực thi các quy luật của nó không quá quan trọng; chỉ cần ta biết đến bản thân các quy luật đó là đủ rồi. Ta biết rằng đồ sứ để trong không khí sẽ rơi và vỡ nếu không được nâng đỡ - và hiểu biết này có công dụng thực tế. Nhưng vì sao nó rơi và vì sao nó vỡ là những vấn đề cần suy xét. Sẽ rất thú vị nếu thật sự hiểu được chúng, song ta vẫn có thể bảo vệ được đồ sứ của mình mà không cần điều đó.”
Thái độ này và sự thiếu nền tảng vật lý và toán học lý thuyết là lý do khiến Franklin, dù rất khéo léo, nhưng đã không trở thành Galileo hay Newton. Franklin là một nhà thực nghiệm thực tế chứ không phải một lý thuyết gia có hệ thống. Cũng như với triết học về tôn giáo và đạo đức, công việc khoa học của Franklin khác biệt vì nó tập trung tìm kiếm sự thật và ứng dụng chúng hơn là xây dựng các lý thuyết trừu tượng, phức tạp.
Tuy vậy, chúng ta không nên thu nhỏ tầm quan trọng của các khám phá đó. Franklin là một trong số những nhà khoa học hàng đầu trong thời đại ấy, người đã nhận thức và chứng minh một trong các khái niệm căn bản nhất của tự nhiên - điện là dòng đơn nhất. J. J. Thompson, nhà vật lý người Anh vĩ đại của thế kỷ 19 đã tìm ra electron 150 năm sau các thí nghiệm của Franklin, cho rằng: “Công dụng của thuyết dòng điện đơn nhất cho ngành khoa học về điện gần như không thể bị phóng đại.” Franklin là người phân biệt chất cách điện và chất dẫn điện, đưa ra ý tưởng về dây tiếp đất cùng các khái niệm về tụ điện và pin. Như Van Doren nhận định: “Ông tìm ra điện bởi một sự hiếu kỳ và để lại nó như một môn khoa học.”
Chúng ta cũng không nên đánh giá thấp ý nghĩa thực tiễn của việc chứng minh sét, một trong những bí ẩn chết chóc, là một loại điện và có thể bị thuần phục. Ít phát hiện khoa học nào có thể ngay lập tức phụng sự nhân loại như vậy. Nhà triết học người Đức vĩ đại Immanuel Kant* gọi Franklin là “Prometheus mới” vì dám ăn cắp lửa từ thiên đàng. Không chỉ nhanh chóng trở thành nhà khoa học nổi tiếng nhất ở Mỹ và châu Âu, Franklin còn là người hùng của quần chúng. Khi giải mã một trong những bí mật lớn nhất của vũ trụ, anh đã chế ngự một trong những tai họa khủng khiếp nhất của tự nhiên.
Nhưng dù thích theo đuổi khoa học tới đâu, Franklin cảm thấy nó không có nhiều giá trị hơn các nỗ lực trong lĩnh vực công vụ. Vào thời điểm đó, chính trị gia và nhà tự nhiên học Cadwallader Colden bạn anh cũng nghỉ hưu và tuyên bố ý định dành toàn thời gian cho các “niềm vui triết học” - thuật ngữ của thế kỷ 18 chỉ các thí nghiệm khoa học. Franklin hối thúc Colden trong bức thư hồi âm: “Đừng để tình yêu với các niềm vui triết học có tầm quan trọng với ông hơn mức nó đáng được nhận. Nếu Newton là hoa tiêu của một con tàu chung thì ngay cả phát hiện vĩ đại nhất của ông cũng khó có thể bào chữa hoặc chuộc tội cho việc ông rời bỏ vị trí trong giờ phút nguy nan; và còn khó hơn nữa nếu con tàu đó mang theo số phận của toàn thể nhân dân.”
Vì thế, Franklin sẽ sớm áp dụng phong cách lập luận khoa học có tính thực nghiệm, thực tế của anh không chỉ vào khoa học tự nhiên mà cả trong công vụ. Những mưu cầu chính trị sẽ được nâng đỡ nhờ sự nổi tiếng anh sẵn có trong vai trò một nhà khoa học. Con người của một khoa học gia và một chính trị gia từ nay về sau sẽ đan cài trong nhau, phần này củng cố phần kia, đến mức có thể mượn câu thơ dí dỏm gồm hai vế của chính khách người Pháp Turgot* để nói về Franklin: “Ông tóm lấy sét từ bầu trời và vương trượng từ bạo chúa.”16