Chuong 7 CHÍNH TRỊ GIA-Philadelphia, 1749-1756-HỌC VIỆN VÀ BỆNH VIỆN
Chàng trai khéo léo, người không có cơ hội vào học ở Harvard, người đã đá xéo những đòi hỏi của ngôi trường này bằng sự đố kỵ được ngụy trang sơ sài khi còn là một nhà bình luận tuổi thiếu niên, người có niềm khao khát kiến thức lớn đến mức biến anh trở thành nhà văn và nhà khoa học tự học giỏi nhất đương thời, suốt nhiều năm đã nuôi ước mơ lập một trường đại học riêng. Đã từng thảo luận ý tưởng này trong Hội Kín ngay từ năm 1743, từ khi nghỉ hưu, Franklin tiếp tục được khích lệ thêm nhờ niềm vui tìm thấy trong khoa học và sách vở. Vì vậy, năm 1749, ông xuất bản một cuốn sách nhỏ có nhan đề “Đề xuất liên quan đến giáo dục thanh niên ở Pennsylvania”. Với niềm đam mê về chi tiết như thường thấy ở Franklin, cuốn sách trả lời câu hỏi tại sao lại cần một học viện, nó nên dạy cái gì và làm sao để gây quỹ.
Đây sẽ không phải là một thành lũy của giới tinh hoa, có liên hệ chặt chẽ với tôn giáo giống như bốn trường đại học còn lại (Harvard, William & Mary, Yale và Princeton) vốn đã tồn tại ở các thuộc địa. Theo kỳ vọng của Franklin, học viện sẽ tập trung truyền dạy kiến thức thực tế, thí dụ viết luận, số học, kế toán, hùng biện, sử học cùng kỹ năng kinh doanh “có xét đến một số nghề nghiệp được dự tính cho sinh viên”. Sinh viên sẽ thấm nhuần các đức tính thế tục; họ sẽ sống “giản dị, chừng mực và căn cơ”, đồng thời “thường xuyên tập chạy, nhảy cao, đấu vật và bơi lội”.
Kế hoạch của Franklin thể hiện tư tưởng của một nhà cải cách giáo dục trong sự tranh biện với các học giả cứng nhắc. Theo ông, học viện mới không nên đào tạo các học trò chỉ biết tán dương Thiên Chúa hoặc tìm đến sự học vì lợi ích riêng. Thay vào đó, thứ nên được trau dồi là “thiên hướng cùng khả năng phụng sự nhân loại, tổ quốc, bằng hữu và gia đình của người đó”. Franklin tuyên bố ở đoạn kết, điều này “thực chất nên là mục tiêu và đích đến lớn lao của toàn bộ sự học”.
Cuốn sách nhỏ được chêm đầy những chú thích trích dẫn các bậc hiền triết cổ đại và trải nghiệm của chính ông về mọi thứ, từ bơi lội cho đến phong cách viết. Giống như bất cứ nhà tư tưởng Khai sáng tài giỏi nào, Franklin thích trật tự và quy trình chính xác. Ông thể hiện xu hướng này bằng cách phác ra, với tính chi tiết tỉ mỉ nhất có thể tưởng tượng được, các điều lệ giúp vận hành Hội Kín, hội quán Tam Điểm, thư viện, Hội Triết học Mỹ, đội cứu hỏa, toán cảnh sát và đội dân quân. Đề xuất thành lập học viện của ông là một thí dụ tột bậc với đầy ắp những quy trình thấu đáo về cách thức tốt nhất để giảng dạy, từ phát âm cho tới lịch sử quân sự.
Franklin nhanh chóng kêu gọi quyên góp được 2.000 bảng (không phải 5.000 bảng như ông hồi tưởng trong tự truyện). Ông đã soạn một bản điều lệ chi tiết như đề xuất ban đầu và được bầu làm chủ tịch ban quản trị. Ông tình cờ cũng thuộc ban điều hành Hội trường Lớn - vốn được xây cho mục sư Whitefield nhưng đã bị bỏ không từ khi phong trào chấn hưng tôn giáo suy yếu. Vì thế, ông có thể thương lượng để học viện mới tiếp quản tòa nhà này, sau đó chia nó thành các tầng và phòng học. Franklin chừa lại không gian dành cho các nhà truyền giáo ghé qua và một trường học miễn phí cho trẻ em nghèo.
Học viện mở cửa từ tháng 1 năm 1751, trở thành trường đại học phi giáo phái đầu tiên ở Mỹ (từ năm 1791, nó trở nên nổi tiếng với tên gọi Đại học Pennsylvania). Bản năng cải cách của Franklin đôi lúc bị cản trở. Đa số các ủy viên quản trị đều thuộc tầng lớp Anh giáo giàu có; và bất chấp sự phản đối của Franklin, họ bỏ phiếu bầu một thầy tu tiếng Latin thay vì tiếng Anh làm hiệu trưởng. William Smith - một mục sư gàn đến từ Scotland và đã kết bạn với Franklin - được bầu vào vị trí này. Nhưng chẳng bao lâu, họ đã nảy sinh mối bất hòa gay gắt về chính trị. Tuy nhiên, suốt quãng đời còn lại, Franklin vẫn là một ủy viên quản trị và xem ngôi trường này là một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của mình.1
Rất nhanh sau khi trường mở cửa, Franklin đã chuyển sang dự án tiếp theo - quyên tiền cho một bệnh viện. Lời kêu gọi công chúng được đăng trên tờ Nhật báo mô tả một cách sống động bổn phận đạo đức mà con người phải có với người bệnh. Nó vang vọng điệp khúc quen thuộc của Franklin: “Những điều tốt đẹp mỗi cá thể có thể làm được để chia sẻ nỗi đau bệnh tật thật nhỏ bé so với những gì một tập thể chung tay làm cùng nhau.”
Quyên tiền là việc khó khăn, vì thế ông bày ra một kế hoạch khôn khéo: ông vận động Hội đồng Lập pháp chấp thuận việc, nếu số tiền do tư nhân đóng góp lên đến 2.000 bảng, nó sẽ được đối ứng bằng 2.000 bảng trích từ công quỹ. Như Franklin nhớ lại, kế hoạch này khiến người dân “có thêm động lực để cho đi, vì sự hiến tặng của mỗi người sẽ được nhân đôi.” Các đối thủ chính trị về sau đã chỉ trích ông vì quá thâm hiểm, nhưng ông có được niềm hân hoan lớn trong thí dụ về sự khôn khéo này. “Tôi không nhớ khi ấy có thủ đoạn chính trị nào khác của mình mà khi thành công đem lại nhiều niềm vui hơn thế; hoặc có một thủ đoạn nào khác mà về sau nghĩ lại, tôi dễ dàng tha thứ cho bản thân vì lợi dụng sự láu cá hơn.”2
TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ MỸBằng việc đề xuất thứ ngày nay được gọi là “vốn đối ứng”, Franklin đã chỉ ra cách thức mà chính quyền và sự khởi xướng của tư nhân có thể kết hợp với nhau. Cho đến nay, đây vẫn là một cách tiếp cận đặc trưng kiểu Mỹ. Ông ủng hộ chủ nghĩa tình nguyện và quyền lực giới hạn của chính phủ, song cũng tin rằng chính phủ có vai trò chính thống để thúc đẩy lợi ích chung. Ông cảm thấy thông qua đẩy mạnh hợp tác công - tư, các chính phủ có thể có sức ảnh hưởng lớn nhất mà vẫn tránh được việc áp đặt quyền uy quá nhiều từ bên trên.
Phong cách chính trị của Franklin vẫn có dấu vết của chủ nghĩa bảo thủ, dù ngày nay chúng sẽ được coi là bảo thủ từ bi. Franklin rất tin vào trật tự; kết cục là phải tốn nhiều thời gian để ông đủ cấp tiến và tham gia vào cuộc cách mạng Mỹ. Tuy là người nhân từ và có nhiều nét của một nhà hoạt động công dân, ông lại rất cảnh giác với các hậu quả ngoài ý muốn của việc cải biến xã hội thái quá.
Điều này được phản ánh trong một bức thư đầy tư lự về bản tính con người mà ông gửi sang London cho Peter Collinson. Franklin viết: “Bất cứ khi nào định sửa chữa sự sắp đặt của ý trời, chúng ta cần phải hết sức thận trọng vì e rằng lợi bất cập hại.” Ngay cả phúc lợi cho người nghèo có lẽ cũng là một thí dụ về sự cảnh giác này. Franklin đặt câu hỏi: “Các luật lệ đặc thù ở nước Anh buộc người giàu cưu mang người nghèo lẽ nào không khiến người nghèo bị lệ thuộc?” Ông nói thêm, “san sẻ nỗi bất hạnh với đồng loại” là “thánh thiện” và đáng khen ngợi, song cuối cùng phải chăng nó “khuyến khích sự lười biếng”? Ông dẫn ra một câu chuyện cảnh giác về những người New England quyết định tiêu diệt chim sáo phá hại mùa màng. Kết quả là các loài sâu bệnh mà chim sáo từng ăn đã sinh sôi, phát triển và tán phá những cánh đồng cỏ và lúa mì.
Có điều, chúng giống những câu hỏi hơn là sự khẳng định. Trong triết lý chính trị của mình, cũng như với tôn giáo và khoa học, nói chung Franklin luôn tránh lý tưởng hóa. Thực tế, ông dị ứng với bất cứ thứ gì thoáng mùi tín điều. Trái lại, cũng như hầu hết mọi phương diện của đời mình, ông thích đi tìm thứ có hiệu quả. Như một nhà văn nhận xét, Franklin đặc trưng cho thời kỳ Khai sáng ở “sự chú tâm vào nguyên nhân và bản chất, ý thức xã hội, chủ nghĩa tiến bộ, chủ nghĩa thế giới, lòng khoan dung và hoạt động từ thiện ôn hòa”. Ông mang khí chất của một con người thực nghiệm, nhìn chung không ưa những thứ tình cảm nồng nàn thoáng qua. Ông cũng tán thành một loại chủ nghĩa nhân văn tử tế nhấn mạnh mục tiêu thế tục tuy ủy mị (nhưng vẫn thực tế), đó là làm điều có lợi cho đồng loại.3
Điều khiến ông có đôi chút nổi loạn và về sau càng rõ hơn là tính phản kháng bẩm sinh với quyền lực định sẵn. Không e dè trước quyền thế, ông tha thiết tránh việc du nhập bộ máy cứng nhắc của Anh vào Mỹ. Thay vào đó, ngay cả khi đã nghỉ hưu như một quý ông ra vẻ, trong các tiểu luận và thư tín, Franklin tiếp tục ca tụng sự cần cù của tầng lớp trung lưu, gồm các thương nhân, chủ cửa hiệu và thợ thủ công.
Đây là xuất phát điểm của tầm nhìn xem Mỹ là một đất nước nơi con người ta, bất kể dòng dõi và tầng lớp xã hội, có thể vươn lên (như chính ông) để đạt được sự sung túc và địa vị xã hội nhờ việc sẵn sàng sống tùng tiệm và trau dồi đạo đức của bản thân. Về khía cạnh này, tư tưởng của ông có tính bình quân chủ nghĩa và dân chủ hơn cả quan điểm của Thomas Jefferson về “chế độ quý tộc tự nhiên”, tức nhặt ra những người được chọn lựa, hứa hẹn có “đạo đức và tài năng” và chải chuốt cho họ trở thành một phần của tầng lớp tinh hoa lãnh đạo mới. Ý tưởng của Franklin bao quát hơn: ông tin vào việc khuyến khích và tạo cơ hội cho tất cả mọi người dựa trên sự cần mẫn, chăm chỉ, đức hạnh và hoài bão của họ. Các đề xuất mà về sau trở thành Đại học Pennsylvania - trái ngược với các đề xuất về Đại học Virginia của Jefferson - không nhằm sàng lọc ra tầng lớp tinh hoa mới, mà hướng đến khuyến khích và chăm lo cho tất cả những người trẻ có khao khát.
Ở Franklin, thái độ chính trị hòa trộn với thái độ tôn giáo và khoa học thành một quan điểm khá chặt chẽ. Tuy vậy, giống như ông không phải là một lý thuyết gia khoa học hay tôn giáo uyên thâm như Aquinas* hay Newton, ông cũng không phải là một triết gia chính trị uyên thâm có thể sánh ngang với Locke và cả Jefferson. Cũng như ở những lĩnh vực khác, thế mạnh của ông trong vai trò một nhà tư tưởng chính trị có tính thực tế hơn là trừu tượng.
Điều này thể hiện rõ trong một trong những luận văn về chính trị quan trọng nhất của ông, được viết năm 1751, “Quan sát về sự gia tăng của nhân loại”. Theo Franklin, quỹ đất chưa có người ở rất dồi dào của Mỹ dẫn tới tốc độ tăng dân số nhanh hơn. Đây không phải là một ước đoán triết học mà dựa trên tính toán thực nghiệm. Ông nhận thấy, so với người Anh, những người đến thuộc địa khẩn hoang có tỷ lệ độc thân chỉ bằng một nửa, họ kết hôn sớm hơn (khoảng 20 tuổi) và trung bình họ có nhiều con cái gấp đôi (xấp xỉ 8 con). Vì thế, ông kết luận, cứ sau hai thập kỷ, dân số Mỹ sẽ tăng lên gấp hai lần và sẽ vượt qua Anh sau một thế kỷ.
Franklin đã đúng. Dân số Mỹ vượt qua Anh vào năm 1851, và liên tục tăng gấp đôi sau mỗi hai thập kỷ cho đến cuối thế kỷ đó, khi vùng biên giới hết đất. Adam Smith* đã trích dẫn luận văn của Franklin trong kiệt tác viết năm 1776, Sự giàu có của các quốc gia. Thomas Malthus,* người nổi tiếng với quan điểm u ám về quá tải dân số và tính tất yếu của đói nghèo, cũng sử dụng những phép tính toán của Franklin.
Tuy nhiên, Franklin không phải là người bi quan theo chủ nghĩa Malthus. Ông tin rằng, ít nhất ở Mỹ, mức tăng năng suất lao động sẽ cao hơn mức tăng dân số. Điều này khiến mọi người đều khấm khá hơn khi đất nước ngày một vương trưởng. Ông tiên đoán (và lại chính xác) rằng, trên thực tế, thứ sẽ kìm hãm tốc độ tăng dân số của Mỹ trong tương lai nhiều khả năng là sự giàu có chứ không phải nghèo khổ. Lý do là người giàu có xu hướng thận trọng hơn khi kết hôn và sinh con đẻ cái.
Lập luận có ảnh hưởng nhất của Franklin và đóng vai trò quan trọng trong những cuộc đấu tranh sắp tới là lập luận chống lại mệnh lệnh có màu sắc trọng thương* vốn đang thịnh hành ở Anh: hạn chế sản xuất ở Mỹ. Quốc hội Anh đã thông qua dự luật cấm nghề chế tạo đồ sắt ở Mỹ. Nước Anh gắn chặt vào hệ thống kinh tế lợi dụng thuộc địa làm nguồn cung cấp nguyên liệu thô và là thị trường của thành phẩm.
Franklin phản bác rằng lượng đất trống dồi dào ở Mỹ sẽ ngăn ngừa sự hình thành của một đám đông lao động thành thị giá rẻ. “Vì thế, nguy cơ các thuộc địa gây cản trở cho mẫu quốc trong các ngành thương mại phụ thuộc vào lao động, sản xuất, v.v. quá xa vời để nước Anh phải bận tâm đến.” Chẳng bao lâu, nước Anh sẽ không thể đáp ứng hết tất cả nhu cầu của Mỹ. “Vì thế, nước Anh không nên giới hạn quá mức việc sản xuất ở các thuộc địa. Một người mẹ khôn ngoan và tốt bụng sẽ không làm như vậy. Làm đau đớn đồng nghĩa với việc làm suy yếu và làm suy yếu con cái sẽ khiến cả gia đình suy yếu theo.”4
Tính nghiêm nghị của luận văn bàn về các vấn đề của đế quốc này được ông cân bằng với một bài viết theo lối châm biếm khác được ông viết vào cùng thời gian đó. Nước Anh vẫn luôn trục xuất phạm nhân đến Mỹ và biện minh rằng việc đó giúp xứ thuộc địa phát triển. Viết trên tờ Nhật báo dưới tên Americanus, ông mỉa mai nhận định: “Sự quan tâm tế nhị của bậc cha mẹ nơi mẫu quốc đối với phúc lợi của con cái đòi hỏi phải được đáp trả bằng lòng biết ơn cao nhất.” Do đó, Americanus đề xuất Mỹ chuyển một tàu đầy rắn chuông về Anh. Có thể sự thay đổi khí hậu sẽ thuần phục được chúng - điều người Anh tuyên bố sẽ xảy ra với các phạm nhân. Kể cả không phải vậy, người Anh vẫn có một vụ trao đổi hời “vì rắn chuông sẽ cảnh báo trước khi làm điều ác, còn phạm nhân thì không”.5
CHẾ ĐỘ NÔ LỆ VÀ CHỦNG TỘCMột vấn đề đạo đức lớn buộc các sử gia phải trăn trở khi đánh giá về các nhà lập quốc của nước Mỹ là chế độ nô lệ, và chính Franklin cũng trăn trở về nó. Nô lệ chiếm khoảng 6% dân số Philadelphia thời ấy và Franklin đã tạo điều kiện cho việc mua bán nô lệ qua mục quảng cáo trên tờ Nhật báo. “Có bán một phụ nữ da đen biết việc. Liên hệ bà quả phụ Read” - đó là một tin quảng cáo mà Franklin rao thay mẹ vợ. Một tin khác rao bán một “anh chàng da đen trẻ có năng lực” và kết thúc bằng cụm từ “liên hệ chủ nhà in của báo này”. Chính Franklin từng sở hữu một cặp nô lệ song đã quyết định bán họ đi vào năm 1751 vì, như ông nói với mẹ, ông không thích có “những người hầu da đen” và thấy họ không hiệu quả. Tuy vậy, sau này, đôi lúc ông vẫn dùng một nô lệ làm người hầu riêng.
Trong “Quan sát về sự gia tăng của nhân loại”, ông công kích chế độ nô lệ trên cơ sở kinh tế. So sánh chi phí và lợi ích của việc sở hữu nô lệ, ông kết luận rằng nó không hợp lý. “Việc đưa chế độ nô lệ vào”, ông viết, là một trong những thứ làm “quốc gia suy thoái”. Song chủ yếu ông tập trung vào các hệ lụy với người sở hữu hơn là sự phi đạo đức gây ra cho người nô lệ. “Những người da trắng sở hữu nô lệ sẽ yếu dần đi do không phải lao động”, ông nói. “Nô lệ cũng là tác nhân khiến các gia đình chủ nhân trở nên xấu đi - trẻ con người da trắng thành ra kiêu ngạo hơn và khinh thường lao động.”
Thực ra, luận văn này có một số điểm khá thiên kiến. Ông chỉ trích sự nhập cư của người Đức và hối thúc rằng Mỹ chỉ nên là nơi định cư chủ yếu của người da trắng có dòng dõi Anh. “Người da trắng thuần chủng trên thế giới rất ít về tỷ lệ”, ông viết. “Vì sao lại gia tăng nòi giống của người châu Phi bằng cách đưa họ sang Mỹ, nơi chúng ta có một cơ hội thuận lợi đến thế để gia tăng số người da trắng và da đỏ dễ thương bằng cách loại trừ tất cả những người da đen và da nâu? Có lẽ tôi hơi thiên vị về màu da của đất nước mình, nhưng một sự thiên vị như thế là điều tự nhiên đối với nhân loại.”
Câu cuối cùng là chỉ dấu cho thấy Franklin sẽ bắt đầu xét lại “sự thiên vị” với chính chủng tộc của mình. Trong lần ấn bản đầu tiên của “Những quan sát”, ông đánh giá “hầu như mỗi kẻ nô lệ về bản chất đã là một kẻ cắp”. Khi in lại nó 18 năm sau, ông thay đổi câu này và nói việc họ trở thành trộm cắp “xuất phát từ bản chất của chế độ nô lệ”. Ông cũng xóa hết phần nói về mong muốn giữ cho nước Mỹ chỉ toàn người da trắng.6
Thứ giúp ông thay đổi thái độ là một nỗ lực từ thiện khác. Cuối thập niên 1750, ông đóng vai trò tích cực trong một tổ chức xây dựng trường học cho các trẻ em da đen ở Philadelphia và một số nơi khác ở Mỹ. Sau khi đến thăm trường Philadelphia vào năm 1763, ông viết một bức tâm thư về những định kiến trước đây của mình:
Về tổng thể, tôi rất hài lòng, và từ những gì nhìn thấy khi đó, tôi nhận thức và đánh giá cao hơn khả năng bẩm sinh của người da đen so với những gì tôi luôn ảo tưởng trước đây. Trẻ em da đen cũng lĩnh hội nhanh, ghi nhớ lâu và về mọi góc độ cũng ngoan ngoãn không kém gì lũ trẻ da trắng. Có lẽ ông sẽ băn khoăn rằng lẽ ra tôi nên hoài nghi điều này sớm hơn, và tôi không định biện hộ gì cho tất cả những thiên kiến của mình.7
Trong nửa sau của đời mình, như ta sẽ thấy, Franklin trở thành một trong những nhà hoạt động tích cực nhất ở Mỹ - một người lên án chế độ nô lệ trên cơ sở đạo đức và góp phần tăng cường các quyền lợi của người da đen.
Từ ngữ ông sử dụng trong “Những quan sát” để nói về việc làm tăng những gương mặt “da trắng và da đỏ dễ thương” ở Mỹ cho thấy cảm nhận của Franklin về người Anh-điêng nhìn chung khá tích cực. Trong một lá thư gửi Collinson, ông kinh ngạc khi thấy sự đơn giản trong cuộc sống hoang dã của người Anh-điêng lại có sự hấp dẫn rất mơ mộng. “Họ chưa bao giờ tỏ ý thay đổi lối sống của họ vì chúng ta”, ông viết. “Khi một đứa trẻ Anh-điêng được nuôi lớn cùng chúng ta, được dạy ngôn ngữ và làm quen với các tập tục của chúng ta; nhưng nếu cậu bé đi gặp họ hàng của mình và làm một cuộc dạo chơi kiểu Anh-điêng với họ, không có gì đảm bảo cậu ta sẽ trở về.”
Franklin nhận định người da trắng đôi khi cũng thích lối sống của người da đỏ hơn. Có những đứa trẻ da trắng bị người Anh-điêng bắt đi và nuôi nấng, sau đó khi trở về với xã hội da trắng, “chẳng bao lâu chúng cảm thấy kinh sợ lối sống của chúng ta, cùng những mối bận tâm và đau khổ cần có để chịu đựng nó, và chỉ cần chớp được cơ hội đầu tiên, họ sẽ nhăm nhăm trốn lại về rừng.”
Ông cũng kể câu chuyện một số ủy viên hội đồng của Massachusetts đề nghị người Anh-điêng gửi một tá thanh niên đến học miễn phí tại Harvard. Các thổ dân đáp rằng, ba năm trước, một số chiến binh trẻ đã được cử đến học ở đây, nhưng khi trở về, “chúng hoàn toàn không được tích sự gì - không quen với cách săn hươu, bắt hải ly thực thụ, mà cũng chẳng biết đánh úp kẻ thù.” Thay vào đó, người Anh-điêng đề nghị giúp dạy dỗ khoảng một tá trẻ em da trắng theo cách của họ để “biến chúng trở thành những người đàn ông”.8
DÂN BIỂU, NHÀ NGOẠI GIAO VỚI NGƯỜI ANH-ĐIÊNG VÀ GIÁM ĐỐC BƯU ĐIỆNViệc làm thư ký cho Hội đồng Lập pháp pháp Pennsylvania từ năm 1736 khiến Franklin vỡ mộng. Không thể dự phần vào các cuộc tranh luận, ông đành tự tiêu khiển bằng việc đặt ra các ô vuông số ma thuật. Bởi vậy, khi một trong số các thành viên đến từ Philadelphia qua đời vào năm 1751, Franklin sẵn sàng chấp nhận ra tranh cử vào vị trí này (và nhường lại công việc thư ký cho cậu con trai thất nghiệp, William). “Tôi tưởng tượng trở thành một thành viên Hội đồng sẽ cho tôi thêm sức mạnh để làm nhiều điều có ích,” ông nhớ lại, nhưng sau đó thừa nhận: “Tuy vậy, tôi không cần phải bóng gió rằng hoài bão của mình không có phần hão huyền.”9
Vậy là sự nghiệp chính trị của Franklin bắt đầu. Nó kéo dài gần 37 năm cho đến khi ông rời vị trí chủ tịch Hội đồng Hành pháp Pennsylvania về nghỉ hưu. Với tư cách cá nhân của một công dân, ông đã đề xuất nhiều kế hoạch phát triển cộng đồng như thư viện, đội cứu hỏa, đội cảnh sát. Giờ đây, trong vai trò một thành viên Hội đồng Lập pháp pháp, Franklin thậm chí có thể làm nhiều hơn nữa để trở thành “người khởi xướng vĩ đại của những dự án có ích”, như cách nói của ông.
Cốt lõi của các dự án đó là nỗ lực của ông nhằm quét sạch, lát đá và chiếu sáng đường phố. Mọi việc bắt đầu từ khi ông thấy phiền toái với bụi bặm phía trước nhà mình, vốn đối diện với một cái chợ của nông dân. Vì thế, ông đã tìm “một người đàn ông nghèo siêng năng” sẵn sàng quét cả dãy nhà và nhận một khoản thù lao mỗi tháng. Sau đó, Franklin viết một bài mô tả tất cả lợi ích của việc thuê anh ta. Ông lưu ý, dãy nhà sẽ được giữ sạch sẽ hơn và các cửa hiệu sẽ thu hút nhiều khách hơn. Ông đã gửi bài báo cho hàng xóm chung quanh và họ đều đồng ý đóng góp một phần vào số tiền trả cho người quét đường mỗi tháng. Vẻ đẹp của kế hoạch này là ở chỗ, nó mở đường cho các cải tiến công ích lớn hơn. “Điều này đã khơi dậy mong muốn chung về việc lát toàn bộ đường phố và làm người ta sẵn sàng nộp một khoản thuế để phục vụ mục đích đó”, ông nhớ lại.
Kết quả, Franklin có thể đưa ra một dự luật trong Hội đồng Lập pháp để trả tiền lát đường. Cùng với nó, ông đề xuất lắp đèn đường trước mỗi ngôi nhà. Với tình yêu đối với khoa học và sự chi tiết, Franklin thậm chí còn bắt tay vào thiết kế ngọn đèn. Ông nhận thấy các chao đèn nhập từ London không có lỗ thông ở đáy để không khí lọt vào, khiến khói tích tụ làm mờ phần kính. Franklin đưa ra một thiết kế mới với các lỗ thông và một ống khói để giữ đèn luôn sạch và sáng. Ông cũng thiết kế kiểu dáng đèn - cho đến nay vẫn thông dụng - với bốn phiến kính phẳng thay vì một chao đèn tròn, để dễ thay thế hơn nếu bị vỡ. “Một số người có thể cho là các vấn đề vụn vặt này không đáng bận tâm”, Franklin nói, song họ nên nhớ “hạnh phúc lớn lao của con người được sinh ra... nhờ những tiến bộ nhỏ xảy ra hằng ngày.”10
Tất nhiên, còn nhiều vấn đề trọng yếu cần tranh luận. Phái Quaker khi đó đang chiếm ưu thế trong Hội đồng; nói chung họ là những người yêu chuộng hòa bình, sống căn cơ và thường mâu thuẫn với gia tộc của các nghiệp chủ - do Thomas, người con trai không-vĩ-đại lắm-của William Penn vĩ đại - lãnh đạo. Thomas không giúp ích gì cho các mối quan hệ bởi ông ta cưới một người vợ theo Anh giáo và xa rời đức tin Quaker. Mối quan tâm chính của các Nghiệp chủ là chiếm thêm nhiều đất từ người Anh-điêng và đảm bảo tài sản của họ luôn được miễn thuế.
(Pennsylvania là một thuộc địa nghiệp chủ - nghĩa là nó được quản lý bởi một gia đình tư nhân sở hữu đa số phần đất chưa có người định cư. Năm 1681, vua Charles II ban đặc quyền như vậy cho William Penn để hoàn trả một khoản nợ. Phần lớn các thuộc địa ban đầu đều là thuộc địa nghiệp chủ, song vào khoảng thập niên 1720, chúng đã trở thành thuộc địa hoàng gia, thuộc về nhà vua và các bộ trưởng. Riêng Pennsylvania, Maryland và Delaware vẫn thuộc về các nghiệp chủ cho đến tận khi Cánh mạng nổ ra.)
Có hai vấn đề mà Pennsylvania phải đối diện lúc bấy giờ: hun đúc mối quan hệ tốt với người Anh-điêng và bảo vệ thuộc địa khỏi quân Pháp. Hai vấn đề này có liên quan tới nhau vì liên minh với người Anh- điêng luôn trở thành việc quan trọng hơn bất cứ khi nào các cuộc chiến trở đi trở lại với Pháp bùng phát.
Duy trì mối quan hệ tốt với người Anh-điêng đòi hỏi phải chi một số tiền cho quà cáp và việc bảo vệ thuộc địa cũng rất tốn kém. Điều này dẫn tới những cuộc đấu tranh chính trị phức tạp ở Pennsylvania. Về nguyên tắc, các tín hữu Quaker phản đối chi tiêu cho quân sự còn nhà Penn (hoạt động thông qua một loạt các thống đốc tay sai được chỉ định) phản đối bất cứ thứ gì tiêu tốn tiền của họ hoặc bắt đất đai của họ phải chịu thuế.
Franklin từng là nhân tố chủ chốt giúp định đoạt các vấn đề này vào một cách khéo léo vào năm 1747, khi ông thành lập đội dân quân tự nguyện. Song vào đầu thập niên 1750, những căng thẳng với Pháp về việc kiểm soát thung lũng Ohio lại gia tăng và sớm nổ ra thành cuộc chiến giữa Pháp và người Anh-điêng (một nhánh của cuộc chiến mà châu Âu gọi là Chiến tranh Bảy năm*). Tình thế đó khiến Franklin phải có hai sự khởi xướng quan trọng, không chỉ định hình sự nghiệp chính trị của ông mà cả số phận của nước Mỹ:
• Ông ngày càng sôi sục chống đối giới nghiệp chủ và cuối cùng là nước Anh vì họ ngoan cố đòi quyền thu thuế và cai trị thuộc địa. Đây là một thái độ phản ánh tình cảm dân túy chống độc tài của Franklin.
• Ông trở thành người đi đầu trong nỗ lực giúp các thuộc địa, cho tới lúc đó vẫn độc lập và xung đột với nhau, liên hiệp lại và thống nhất vì những mục đích chung. Điều đó phản ánh thiên hướng của ông trong việc thúc đẩy sự liên kết, quan điểm phi cục bộ của ông về nước Mỹ và niềm tin của ông rằng người dân sẽ đạt thành tựu lớn hơn khi họ làm việc cùng nhau so với khi họ đứng riêng lẻ.
Quá trình bắt đầu từ năm 1753, khi Franklin được chỉ định làm một trong ba ủy viên đại diện cho Pennsylvania tới tham dự một hội nghị thượng đỉnh với một nhóm thủ lĩnh của người Anh-điêng tại Carlisle, một vùng đất nằm giữa Philadelphia và sông Ohio. Mục đích của hội nghị là đảm bảo lòng trung thành của người Anh-điêng ở Delaware - vốn đang nổi giận với nhà Penn vì đã lừa dối họ trong vụ việc có tên “Tậu Đất Đi Bộ.”* (Một khế ước cũ đã đem lại cho nhà Penn một dải đất của người Anh-điêng, được xác định bằng khoảng cách mà một người có thể đi trong một ngày rưỡi. Thomas Penn liền thuê ba thanh niên chạy giỏi chạy hết tốc lực trong 36 giờ, vì thế chiếm được nhiều đất hơn ý định của khế ước.) Đồng minh đứng về phía người Pennsylvania gồm có sáu quốc gia của Bang liên Iroquois, trong đó có bộ lạc Seneca và Mohawk.*
Hơn một trăm người Anh-điêng đã đền dự hội nghị. Sau khi phía Pennsylvania tặng chuỗi vỏ sò truyền thống, trong trường hợp này có giá trị đặc biệt lớn, tương đương với 800 bảng tiền quà cáp, Scaroyady, lãnh tụ Iroquois, liền đề xuất một kế hoạch hòa bình. Theo đó, những người da trắng định cư sẽ lui về phía đông dãy Appalachian; các nhà buôn của họ cần được chỉnh điều để hoạt động trung thực, bán cho người Anh-điêng nhiều đạn dược hơn và ít rượu rum đi. Họ cũng muốn được người Anh bảo đảm sẽ giúp họ phòng vệ trước sự đe dọa của người Pháp, lúc đó đang quân sự hóa thung lũng Ohio.
Kết cục, bên Pennsylvania không cam kết gì hơn một quy định chặt chẽ hơn với các thương gia - điều đó cuối cùng đã đẩy Delaware ngả sang phía Pháp. Vào đêm cuối cùng, Franklin bắt gặp sự phô bày đáng sợ của mối nguy hại từ rượu rum. Người Pennsylvania đã không để người Anh-điêng uống chút rượu nào cho đến khi hội nghị kết thúc. Vì thế, khi lệnh cấm được dỡ bỏ, một cuộc chè chén ồn ào đã nổ ra. Franklin tả lại cảnh tượng này như sau:
Họ đốt một đám lửa lớn giữa một bãi đất. Tất cả đàn ông lẫn đàn bà đều say mèm, cãi vã và gây lộn. Những thân thể sẫm màu, nửa trần truồng, chỉ có thể nhìn rõ qua ánh sáng u ám của ngọn lửa, đuổi đánh nhau với những khúc củi cháy dở. Cùng những tiếng la hét rùng rợn, họ tạo ra một cảnh tượng giống với ý niệm về địa ngục nhất mà ta có thể tưởng tượng ra.
Ông và các ủy viên cùng đi đã phẫn nộ viết một báo cáo lên án các thương nhân da trắng vì thường xuyên bán rượu cho người Anh- điêng. Bởi lẽ việc đó đe dọa “cầm tù liên tục những người Anh-điêng khốn khổ dưới mãnh lực của hơi men” và “đẩy hết thiện cảm của người Anh-điêng xa khỏi người Anh”.11
Khi trở về, Franklin biết tin ông đã được chính quyền Anh chỉ định vào chức vụ cao nhất trong ngành bưu điện Mỹ - Phó Giám đốc Bưu điện của các Thuộc địa - và chia sẻ vị trí này cùng William Hunter ở Virginia. Ông đã hăm hở mưu cầu vị trí này suốt hai năm và còn ủy quyền cho Collinson bỏ ra đến 300 bảng để thay mặt mình vận động hành lang tại London. “Nhưng càng tốn ít tiền càng tốt vì vị trí này là chung thân, mà đó không phải một nhiệm kỳ chắc chắn,” Franklin nói đùa.
Như thường thấy, việc mưu cầu của Franklin chịu chi phối bởi nhiều động cơ đan xen: kiểm soát hệ thống bưu điện sẽ giúp ông tiếp sức cho Hội Triết học Mỹ, mở mang mạng lưới xuất bản bằng cách sắp xếp người thân, bạn bè vào các vị trí trong ngành bưu chính trên khắp nước Mỹ và có thể kiếm được ít nhiều tiền bạc. Ông đã đặt William vào vị trí giám đốc bưu điện Philadelphia và tạo công ăn việc làm ở nhiều thành phố cho hai anh trai Peter và John, con trai riêng của John, con trai của Jane - em gái ông, hai người họ hàng của Deborah, và James Parker, một đối tác trong ngành in ấn của ông ở New York.
Franklin vạch ra các quy trình chi tiết như thường lệ để cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn. Ông thiết lập hệ thống giao tận nhà và văn phòng xử lý thư chết* đầu tiên, đồng thời thực hiện những chuyến kiểm tra thường xuyên. Chỉ sau một năm, ông đã giảm thời gian chuyển một lá thư từ New York đến Philadelphia xuống còn một ngày. Các cải cách này rất tốn kém, vì thế ông và Hunter đã nợ đến 900 bảng trong bốn năm đầu. Nhưng sau đó họ bắt đầu có lợi nhuận, thu được ít nhất 300 bảng mỗi năm.
Vào năm 1774, khi bị người Anh sa thải vì lập trường chính trị chống đối, lợi nhuận ông thu được mỗi năm là hơn 700 bảng. Nhưng một lợi ích lớn hơn nữa của công việc này, cả đối với Franklin và lịch sử, là nó đẩy xa hơn nữa nhận thức của ông về khả năng các thuộc địa Mỹ khác biệt có thể trở thành một quốc gia thống nhất với các nhu cầu và lợi ích chung.12
KẾ HOẠCH ALBANY VÌ MỘT LIÊN BANG MỸ
Hội nghị cấp cao Carlisle giữa Pennsylvania và người Anh-điêng đã không giúp ích gì trong việc ngăn cản quân Pháp. Mục tiêu của Pháp là giam hãm những người Anh đến thuộc địa lập nghiệp ở phía Bờ Đông bằng cách dựng hàng loạt công sự dọc sông Ohio để tạo ra một cánh cung Pháp kéo từ Canada đến Louisiana. Để đáp trả, thống đốc Virginia đã phái một người lính trẻ đầy triển vọng tên là George Washington* đến thung lũng Ohio vào cuối năm 1753 đề yêu cầu người Pháp rút quân. Tuy thất bại, nhưng lời trần thuật sinh động về nhiệm vụ, đã biến Washington thành anh hùng và được thăng lên đại tá. Mùa xuân năm sau, anh bắt đầu một chuỗi tập kích ngẫu nhiên vào các công sự của Pháp và nó sớm trở thành một cuộc chiến tranh quy mô.
Các vị bộ trưởng người Anh vẫn luôn dè chừng trước việc khuyến khích các thuộc địa hợp tác quá mức nhưng sự đe dọa của quân Pháp khiến điều đó giờ đây trở nên cần thiết. Do đó, ủy ban Thương mại tại London yêu cầu mỗi thuộc địa cử đại biểu tới dự hội nghị ở Albany, New York, vào tháng 6 năm 1754. Họ có hai nhiệm vụ: gặp mặt Bang liên Iroquois đề tái củng cố sự phục tùng của người Anh-điêng và thảo luận với nhau về những cách thức để tạo ra một sự phòng thủ thống nhất hơn trên toàn xứ thuộc địa.
Sự hợp tác giữa các thuộc địa không đến một cách tự nhiên. Một số hội đồng lập pháp đã khước từ lời mời và trong bảy thuộc địa chấp nhận tới dự, đa phần đã chỉ đạo các đại biểu tránh xa bất cứ kế hoạch liên minh thuộc địa nào. Ngược lại, Franklin luôn háo hức thúc đẩy sự thống nhất. “Sẽ là một điều kỳ lạ” - ông viết thư cho người bạn James Parker vào năm 1751 - “nếu sáu quốc gia của bọn man di dốt nát [tức Iroquois] có thể lập kề hoạch cho một liên minh như thế... mà một liên minh tương tự cho một chục hoặc một tá thuộc địa của Anh lại bị xem là phi thực tế, trong khi với họ điều đó còn cần thiết hơn.”
Franklin phác ra cấu trúc hợp tác thuộc địa trong thư gửi Parker. Ông nói, nên có một Đại Hội đồng với các đại biểu đến từ tất cả thuộc địa - số đại biểu của mỗi thuộc địa cơ bản tương ứng với tỷ lệ đóng góp dưới dạng thuế vào ngân sách chung của thuộc địa đó - cùng một thống đốc do nhà vua bổ nhiệm. Địa điểm họp nên luân chuyển giữa thủ phủ của các thuộc địa để giúp các đại biểu hiểu phẩn còn lại của nước Mỹ rõ hơn; và tiền có thể thu được từ thuế đánh lên rượu. Điển hình, ông cảm thấy hội đồng nên được hình thành tự nguyện thay vì bị London áp đặt. Ông nghĩ, cách tốt nhất để triển khai kế hoạch là chọn ra một nhóm người khéo léo để đến gặp những người có vai vế ở tất cả các thuộc địa nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của họ. “Những người hợp lý, nhạy bén luôn có thể khiến một kế hoạch hợp lý cũng trở nên hợp lý trong mắt những người hợp lý khác.”
Khi tin chiến bại của Washington bay về Philadelphia vào tháng 5 năm 1754, ngay trước thềm Hội nghị Albany, Franklin liền viết một xã luận trên tờ Nhật báo. Ông đổ lỗi việc quân Pháp chiến thắng là bởi “tình trạng chia rẽ giữa các thuộc địa của Anh hiện nay”. Cạnh bài báo, ông đăng bức biếm họa của chủ bút đầu tiên và nổi tiếng nhất trong lịch sử nước Mỹ: một con rắn bị chặt làm nhiều khúc, trên đó đề tên của từng thuộc địa cùng lời chú thích: “Liên kết hay là Chết”.13
Franklin là một trong bốn ủy viên được chọn đại diện Pennsylvania tại Hội nghị Albany (cùng thư ký riêng của phe nghiệp chủ - Richard Peters, cháu trai của Thomas Penn - John và người phát ngôn của Hội đồng Lập pháp - Isaac Norris). Franklin lấy làm tiếc rằng Hội đồng đã công khai phản đối “những đề xuất về một liên minh giữa các thuộc địa” nhưng không hề nao núng. Khi rời Philadelphia, ông mang theo một luận văn mà ông đã viết có tên là “Những gợi ý vắn tắt hướng tới một kế hoạch để thống nhất các thuộc địa phía Bắc”. Có một điểm thay đổi so với kế hoạch thống nhất mà ông mô tả trong lá thư gửi tới James Parker trước đó: bởi hội đồng lập pháp của các thuộc địa dường như sẽ chống lại kế hoạch này; cho nên nếu các ủy viên ở Albany chấp thuận một kế hoạch như vậy, có lẽ tốt nhất nó nên được gửi về London để “giành một đạo luật của Quốc hội nhằm xác lập nó”.
Khi dừng chân ở New York, Franklin chia sẻ với bạn bè về kế hoạch mà ông đã thảo ra. Trong lúc đó, Peters và những người khác dùng chuỗi vỏ sò trị giá 500 bảng* mà Hội đồng Lập pháp đã giao để đi mua quà tặng cho người Anh-điêng: chăn, ruy băng, thuốc súng, súng, son vẽ mặt, ấm đun nước và vải vóc. Sau đó, vào ngày 9 tháng 6, họ lên đường đến Albany trên một con thuyền nhỏ nặng trĩu với một “thùng rượu vang Madeira hảo hạng nhất và lâu năm nhất”.14
Trước khi người Anh-điêng đến, 24 ủy viên từ các thuộc địa đã họp lại đề thảo luận việc riêng của họ. James De Lancey, thống đốc New York, đề xuất kế hoạch xây hai công sự ở phía tây nhưng đề xuất này sa lầy vì các đại biểu không thể thống nhất việc chia sẻ chi phí. Vì thế, một bản kiến nghị được thông qua - có thể do Franklin thúc giục - một ủy ban cần được lập ra để “chuẩn bị và tiếp nhận các chương trình, kế hoạch thống nhất thuộc địa”. Franklin là một trong bảy thành viên của ủy ban, điều đó đem lại cho ông một điểm hẹn hoàn hảo để tập hợp sự ủng hộ cho kế hoạch mà ông bỏ sẵn trong túi.
Vào lúc đó, người Anh-điêng đã đến nơi, dẫn đầu là thủ lĩnh bộ lạc Mohawk, Tiyanoga, còn có tên là Hendrick Peters. Ông ta là một người đầy khinh miệt. Sáu quốc gia đã bị sao lãng, ông ta nói, “và khi quý vị sao lãng nhiệm vụ, người Pháp đã lợi dụng cơ hội”. Trong một tràng đả kích khác, ông ta nói thêm: “Hãy nhìn vào người Pháp! Họ là những người đàn ông, họ đang củng cố khắp nơi. Nhưng chúng tôi lấy làm hổ thẹn phải nói rằng, quý vị đều giống như đàn bà.”
Sau nhiều tuần thảo luận, các ủy viên đã đưa ra hàng loạt lời hứa với người Anh-điêng: sẽ có thêm tham vấn về việc định cư cùng các tuyến đường mậu dịch, một số giao dịch đất đai sẽ bị điều tra và luật pháp sẽ được thông qua để hạn chế mua bán rượu. Vốn không có nhiều lựa chọn, người Anh-điêng đành chấp nhận tặng phẩm và tuyên bố mối ràng buộc bằng giao ước của họ với người Anh được “long trọng tái tục”. Franklin không lấy làm ấn tượng với kết quả này. Ông viết thư cho Peter Collinson: “Chúng tôi đã đánh bóng mối ràng buộc với họ song theo ý kiến của tôi, không thể trông đợi gì vào sự hỗ trợ của họ trong bất cứ tranh chấp nào với người Pháp cho đến tận khi có một liên minh giữa chính chúng tôi - nhờ đó chúng tôi có thể hỗ trợ họ trong trường hợp họ bị tấn công.”
Đồng minh then chốt của Franklin trong nỗ lực thúc đẩy một sự thống nhất như vậy tại Albany là một thương nhân hàng hải giàu có ở Massachusetts có tên Thomas Hutchinson.* (Hãy nhớ cái tên này vì về sau ông ta sẽ trở thành một kẻ thù tiền định.) Kế hoạch được ủy ban chấp thuận dựa trên những điều Franklin đã thảo ra. Sẽ có một Quốc hội toàn quốc với các đại biểu được lựa chọn từ mỗi bang, cơ bản tỷ lệ thuận với dân số và độ giàu có của nó. Người điều hành là một “Tổng Thống đốc” do nhà vua chỉ định.
Ở trung tâm của nó là một khái niệm tương đối mới mẻ, đó chính là liên bang. Một “Tổng Chính phủ” sẽ đảm nhiệm các vấn đề về quốc phòng và mở rộng về phía tây nhưng mỗi thuộc địa vẫn giữ hiến pháp và quyền quản lý địa phương của mình. Dù đôi khi Franklin bị coi là người thiên về thực tiễn hơn là có tầm nhìn xa, chính tại Albany, ông đã góp phần xây dựng khái niệm liên bang - một cách có trật tự, cân bằng và khai sáng. Khái niệm đó cuối cùng sẽ tạo thành cơ sở của một quốc gia Mỹ thống nhất.
Hơn một tuần kể từ khi người Anh-điêng rời Albany, cuối cùng, vào ngày 10 tháng 7, toàn thể các ủy viên cũng bỏ phiếu về kế hoạch. Một số đại biểu đến từ New York phản đối nó, cũng như Isaac Norris, thủ lĩnh phái Quaker trong Hội đồng Lập pháp Pennsylvania. Tuy vậy, nó được thông qua khá dễ dàng. Chỉ có một số chỉnh sửa so với kế hoạch mà Franklin phác ra trong “Những gợi ý vắn tắt” ông đã mang đến Albany. Ông chấp nhận chúng trên tinh thần thỏa hiệp. Ông giải thích với người bạn Cadwallader Golden: “Khi quá nhiều người khác nhau với những quan điểm khác nhau phải thương thảo về một vấn đề mới, đôi khi mỗi người có nghĩa vụ từ bỏ một vài điểm nhỏ để đạt được những điều lớn hơn.” Tình cảm đó sẽ được ông thể hiện bằng từ ngữ tương tự khi đóng vai trò là người hòa giải chủ chốt tại Hội nghị Lập hiến 33 năm sau.
Các ủy viên quyết định rằng bản kế hoạch phải được gửi cho cả các hội đồng lập pháp và Quốc hội Anh để phê chuẩn, và Franklin lập tức khởi động một chiến dịch công khai ủng hộ nó. Chiến dịch bao gồm việc trao đổi thư ngỏ hăng say với William Shirley, Thống đốc Massachusetts - người cho rằng chính đức vua nên lựa chọn Quốc hội liên bang chứ không phải hội đồng lập pháp tại các thuộc địa. Franklin đáp lại Shirley bằng một nguyên tắc sẽ trở thành trọng tâm của các cuộc đấu tranh phía trước: “Người Anh có một quyền bất khả tư nghị: họ không bị đánh thuế mà chỉ ưng thuận hiến tặng thông qua các đại biểu của họ.”
Chiến dịch của Franklin bất thành. Kế hoạch Albany bị tất cả hội đồng lập pháp của các thuộc địa phản đối bởi nó tước đoạt quá nhiều quyền lực của họ, và nó bị xếp xó ở London vì đem lại quá nhiều quyền lực cho cử tri, đồng thời khuyến khích sự thống nhất đầy nguy hiểm giữa các thuộc địa. “Các hội đồng lập pháp không chấp nhận vì họ đều nghĩ có quá nhiều đặc quyền trong đó; và ở nước Anh, nó bị phán xét là có quá nhiều tính dân chủ”, ông nhớ lại.
Gần cuối đời, khi nhìn lại, Franklin tin rằng nếu được chấp thuận, Kế hoạch Albany của ông có thể đã ngăn cản Cách mạng nổ ra và tạo nên một đế quốc hòa hợp. “Các thuộc địa thống nhất như thế có thể đủ mạnh để tự bảo vệ mình. Vì vậy, lẽ ra đã không cần các binh đoàn từ Anh sang. Và tất nhiên, như vậy kéo theo việc tránh được cả sự ngụy tạo nhằm thu thuế của nước Mỹ và cuộc chiến đẫm máu nảy sinh từ đó,” ông lập luận.
Về điểm này, có lẽ Franklin đã sai. Các tranh chấp xa hơn về quyền của nước Anh trong việc thu thuế và hưởng lợi từ các thuộc địa là gần như không thể tránh khỏi.* Nhưng suốt hai thập kỷ tiếp theo, ông còn tiếp tục đấu tranh để tìm ra một giải pháp hài hòa kể cả khi ông càng lúc càng tin vào nhu cầu thống nhất của các thuộc địa.15
CATHERINE RAYSau Hội nghị Albany, Franklin bắt đầu chuyến thị sát các địa hạt bưu chính của mình, trong đó cao điểm là ghé thăm Boston. Ông vẫn chưa trở về đây từ khi mẹ ông qua đời hai năm trước. Lần này ông đã dành thời gian cho gia đình ngổn ngang này, thu xếp việc làm và việc học nghề cho họ. Trong thời gian ở cùng anh trai John, ông đã gặp một người đàn bà trẻ hấp dẫn, người trở thành thí dụ gợi trí tò mò đầu tiên về những cuộc tán tỉnh say mê và lãng mạn nhưng có lẽ không bao giờ đi đến đích của ông.
Catherine Ray đến từ Đảo Block*, khi đó 23 tuổi, tươi tắn và tràn đầy sức sống. Chị gái cô kết hôn với con trai riêng của John. Benjamin Franklin, khi đó 48 tuổi, lập tức vừa bị cô quyến rũ lại vừa quyến rũ cô. Cô là người nói chuyện giỏi và ông cũng vậy mỗi khi ông muốn tâng bốc ai; và ông cũng là một người rất biết lắng nghe. Họ chơi một trò chơi trong đó ông cố gắng đọc suy nghĩ của cô. Cô gọi ông là pháp sư và thích thú với sự chăm chú của ông. Cô làm kẹo bòn bon và ông nhất định nói đó là món kẹo bòn bon ngon nhất ông từng ăn.
Sau một tuần, đến lúc Catherine phải rời Boston đề đi thăm một người chị khác ở Newport, ông quyết định hộ tống cô. Dọc đường, lũ ngựa được đóng móng tồi của họ gặp trục trặc trên những ngọn đồi băng giá. Họ kẹt trong mưa lạnh và đã một lần lạc lối. Nhưng như họ hồi tưởng nhiều năm sau, họ đã có nhiều giờ vui vẻ bên nhau, cùng khám phá những ý tưởng và nhẹ nhàng đùa vui. Sau hai ngày ở cùng gia đình cô tại Newport, ông ra cảng tiễn cô lên tàu về Đảo Block. “Tôi đứng trên bờ biển và nhìn theo em cho đến khi không còn nhận ra em nữa dù tôi đã đeo kính vào”, ông viết thư cho cô không lâu sau đó.
Ông chậm chạp và miễn cưỡng về lại Philadelphia, la cà trên đường suốt nhiều tuần. Khi cuối cùng cũng về tới nhà, ông nhận được một bức thư của Catherine. Suốt vài tháng tiếp theo, ông đã viết cho cô 6 lần và trong phần đời còn lại, hơn 40 bức thư được gửi qua lại giữa hai người. Franklin không giữ lại phần lớn thư từ của cô, có lẽ vì thận trọng, song những gì còn sót lại đủ hé lộ một tình bạn đặc biệt và giúp người ta hiểu rõ hơn về những mối quan hệ của Franklin với phụ nữ.
Đọc những lá thư của họ và đọc những ẩn ý đằng sau câu chữ, bạn sẽ có ấn tượng Franklin đã có những bước tấn công tinh nghịch mà Caty dịu dàng lảng đi. Dường như chính điều đó lại càng khiến ông tôn trọng cô hơn. “Tôi viết thư này trong một cơn bão tuyết Đông Bắc”, ông viết trong lá thư đầu tiên gửi cô sau lần hạnh ngộ. “Những bông tuyết thuần khiết như sự thơ ngây trinh bạch nơi em, trắng như ngực áo thân thương của em - và cũng lạnh giá như thế.” Trong một lá thư vài tháng sau, ông nói về cuộc đời, toán học cùng vai trò của “sự nhân lên” trong hôn nhân và nói thêm một cách ranh mãnh: “Tôi sẽ vui mừng xiết bao nếu được tự mình dạy cho em điều đó, còn em nghĩ vẫn còn nhiều thời gian mà và sẽ chẳng buồn học.”
Tuy thế, những lá thư mà Caty gửi cho Franklin cũng chứa chất sự nồng nàn. “Xa vắng chỉ làm tình cảm của em đầy thêm chứ đâu thể vơi đi”, cô viết. “Hãy yêu em bằng một phần ngàn tình yêu em dành cho ông.” Những lá thư của cô thấm đẫm tình cảm và nước mắt, vừa trao gửi tình cảm dành cho Franklin vừa kể về những gã đàn ông đang tán tỉnh mình. Cô xin ông hãy hủy chúng đi ngay sau khi đọc xong. “Em đã nói cả ngàn điều mà lẽ ra không nên để điều gì xui khiến em nói ra.”
Franklin đảm bảo với cô rằng ông sẽ kín đáo. “Em cứ tự do viết tất cả những điều em cho là phù hợp mà chẳng cần mảy may bận tậm sẽ có người khác đọc được thư em ngoài chính tôi ra,” ông hứa. “Tôi biết rất rõ rằng những biểu hiện trong sáng nhất của một tình bạn ấm áp... giữa hai người khác giới có thể bị những cái đầu đa nghi hiểu sai.” Ông giải thích đó là lý do vì sao ông luôn thận trọng trong các lá thư của mình. “Dù em nói nhiều hơn, tôi vẫn nói ít hơn những gì tôi nghĩ.”
Và vì thế những gì còn lại với chúng ta chỉ là một xấp thư không chứa gì ngoài những lời bông đùa trêu ngươi. Cô gửi cho ông một ít kẹo bòn bon mà cô đánh dấu bằng một nụ hôn (người ta giả định). “Mỗi chiếc đều ngọt ngào như ông từng thích”, cô nói. Ông đáp: “Những trái mận đã đến nơi an toàn và cái cớ em nhắc đến ngọt ngào đến nỗi tôi chẳng còn nhận ra vị đường.”* Ông nói về những “thú vui của cuộc đời” và nhấn mạnh: “Tôi vẫn còn tất cả chúng dưới quyền mình.” Cô viết về việc quay một sợi tơ dài và ông trả lời: “Tôi ước gì mình được giữ đầu bên kia để kéo em về phía tôi.”
Làm sao để đặt người vợ thủy chung và nhẫn nại của ông, Deborah, vào đầu trong trò tán tỉnh từ xa này? Thật lạ lùng, dường như Franklin đã dùng chính vợ mình làm bình phong, cả với Caty và những người phụ nữ trẻ khác mà sau này ông vui đùa, để giữ cho các mối quan hệ đó luôn ở bên bờ an toàn của sự chừng mực. Ông luôn nhắc tên Deborah và ngợi ca đức hạnh của bà trong mọi lá thư gửi cho Caty. Như thế ông muốn Caty giữ sự cháy bỏng của cô trong mức hợp lý và nhận ra rằng, dù tình cảm của ông là thật, những lời ve vãn của ông chỉ đơn giản là đùa cợt. Hoặc có lẽ, khi các bước tiến có dục tính của mình bị cự tuyệt, ông muốn tỏ rõ (hoặc giả vờ) rằng ông không hề nghiêm túc. “Tôi gần như quên mất mình có một tổ ấm”, ông viết cho Caty để kể về chuyến trở về nhà sau lần gặp gỡ đầu tiên. Song chẳng bao lâu ông bắt đầu “nghĩ tới và ao ước về nhà; càng đến gần hơn tôi càng thấy sức hút đó cứ lớn dần, lớn dần”. Và thế là ông rảo bước nhanh hơn, “về phía ngôi nhà của riêng tôi, trong vòng tay của bà vợ già và đàn con, nơi tôi ở lại, nhờ ơn Chúa.”
Cuối mùa thu năm đó, Franklin thậm chí còn rõ ràng hơn khi nhắc nhở Caty rằng ông là một người đàn ông đã có vợ. Khi cô gửi cho ông một chút pho-mát làm quà, ông đáp lại: “Bà Franklin rất tự hào vì một quý cô trẻ như em lại có lòng yêu mến ông chồng già của mình đến thế khi gửi món quà này. Chúng tôi nói chuyện về em mỗi khi nó được đặt lên bàn.” Thực tế, có một khía cạnh thú vị trong lá thư này và các lá thư sau ông viết cho cô: chúng ít tiết lộ về bản chất mối quan hệ giữa hai người hơn mối quan hệ tuy kém nồng nàn nhưng vô cùng dễ chịu giữa ông và vợ. Như ông nói với Caty: “Bà ấy đoan chắc em là một cô gái nhạy cảm và... nói về việc để tôi lại cho em như một món đồ thừa kế. Song tôi cần ước cho em điều tốt hơn thế và mong là bà ấy sẽ sống lâu trăm tuổi; chúng tôi sẽ già đi cùng nhau và dù bà ấy có mắc bất cứ lỗi sai gì thì tôi cũng đã quá quen đến mức không còn nhận ra được nữa... Ta hãy cùng cầu chúc cho quý bà nhiều tuổi ấy một cuộc đời dài lâu và hạnh phúc.”
Thay vì chỉ đơn giản tiếp tục trò tán tỉnh, Franklin bắt đầu cho Caty những lời giáo huấn của bậc làm cha về bổn phận và đức hạnh. “Hãy là một cô gái ngoan cho đến khi em có một tấm chồng tốt; lúc đó hãy ở nhà, chăm sóc bọn trẻ và sống đời một Ki-tô hữu”, ông khuyên. Franklin hy vọng rằng khi đến thăm cô lần tới, ông sẽ được thấy “bọn nhóc tròn trịa, ngọt ngào, má hây đỏ và xinh như mẹ chúng” vây quanh cô. Điều đó đã xảy ra - khi họ gặp lại nhau, cô đã kết hôn với William Greene, thống đốc tương lai của Đảo Rhode và về sau có với nhau sáu mặt con.16
Vậy thì chúng ta có thể nói gì về mối quan hệ của họ? Rõ ràng, có những chỉ dấu ngọt ngào của sự hấp dẫn đầy lãng mạn. Nhưng trừ phi Franklin đã giấu giếm trong các thư tín để bảo vệ thanh danh của cô (và của ông), nỗi hân hoan đến từ sự tưởng tượng vui vẻ hơn là nhục cảm thực tế. Có lẽ đó là đặc trưng của nhiều cuộc tán tỉnh giữa ông và những người phụ nữ trẻ tuổi trong suốt nhiều năm: có chút nghịch ngợm theo cách vui đùa, tâng bốc cả hai bên, chứa đầy gợi ý về sự thân mật, hấp dẫn cả trái tim và tâm hồn. Dù có tiếng là người phóng túng - điều mà Franklin không hề cố gắng chối bỏ - chưa có bằng chứng về bất cứ bê bối tình dục nghiêm trọng nào xảy đến với ông sau khi cưới Deborah.
Claude-Anne Lopez, cựu biên tập viên của dự án Các Tác phẩm của Franklin tại Đại học Yale, đã dành nhiều năm nghiên cứu đời tư của ông. Phân tích của bà về kiểu quan hệ giữa Franklin với những người phụ nữ như Catherine Ray dường như vừa sắc sảo lại vừa đáng tin cậy:
Một mối tình lãng mạn? Đúng, nhưng đó là một mối tình lãng mạn kiểu Franklin: một chút suồng sã, một chút như cha chú; cứ liều lĩnh tiến một bước về phía trước lại khôi hài lùi một bước về phía sau, như thể hàm ý rằng ông có thể bị cám dỗ như một gã đàn ông nhưng cũng đầy trách nhiệm như một người bạn. Trong tất cả sắc thái cảm xúc thì nó, thứ mà người Pháp gọi là tình bạn nồng nàn - hơi vượt quá lý tưởng thuần khiết nhưng thiếu đam mê lớn - có lẽ là tinh tế nhất.17
Chỉ thỉnh thoảng Franklin mới tạo dựng mối quan hệ thân mật với các bạn bè nam giới, họ thường là bạn đồng hành về trí tuệ hoặc bạn đồng nghiệp vui tính cùng hội. Nhưng ông thích được ở bên phụ nữ và đã xây dựng các mối quan hệ sâu sắc và bền lâu với nhiều người. Với ông, các mối quan hệ như thế không phải là một môn thể thao hay trò tiêu khiển tầm thường mà là niềm vui thích được thưởng vị và kính trọng, dù bề ngoài của chúng thế nào. Suốt cuộc đời, Franklin có thể mất đi nhiều bạn bè là nam giới nhưng chưa từng mất một người bạn là phụ nữ nào, trong đó có Caty Ray. Như ông đã nói với cô 35 năm sau, chỉ một năm trước khi qua đời: “Trong các diễm phúc của đời mình, tôi tính đếm cả tình bạn với em.”18
TIẾP TẾ CHO TƯỚNG BRADDOCKĐầu năm 1755, Franklin trở về Philadelphia sau cuộc đi lại với Caty Ray. Vào lúc đó, ông đã tạo dựng được mối quan hệ khả dụng với đa số các lãnh đạo chính trị tại đây. Các nghiệp chủ đã chọn Robert Hunter Morris làm thống đốc mới. Franklin trấn an rằng nhiệm kỳ của ông ta sẽ dễ thở, “chỉ cần ông cẩn trọng, không sa đà vào bất cứ cuộc tranh luận nào với Hội đồng Lập pháp”. Morris đáp lại nửa đùa nửa thật: “Ông biết đó, tôi rất thích tranh lu?