Chuong 8 VÙNG NƯỚC BẤT ỔN-London, 1757-1762-KHÁCH TRỌ CỦA BÀ STEVENSON
Mùa hè năm 1757, khi vượt Đại Tây Dương, Franklin quan sát thấy vài hiện tượng về những con tàu khác trong đoàn. Đa số chúng đều khuấy nước tạo ra các vết lằn lớn. Song một hôm, phần nước biển giữa hai con tàu tĩnh lặng một cách lạ thường. Vốn tò mò, ông hỏi về hiện tượng này và được người ta cho biết: “Các đầu bếp đã đổ nước dính đầy dầu mỡ qua các lỗ thông vì thế hai bên mạn những con tàu đó đã được bôi trơn.”
Franklin không thỏa mãn với lời giải thích này. Thay vào đó, ông nhớ mình đã đọc cách nghị sĩ và khoa học gia người La Mã thế kỷ 1 - Pliny Già* - điều hòa nước sóng sánh bằng cách đổ dầu lên nó. Các năm sau đó, Franklin đã tiến hành nhiều thí nghiệm về dầu và nước. Ông thậm chí còn nghĩ ra một trò ảo thuật phòng khách - chạm cây gậy có giấu một chai dầu bên trong vào những ngọn sóng để chúng ngừng lại. Ẩn dụ này, dù rõ ràng, nhưng thật khó cưỡng: bản năng của Franklin là thích tìm những cách khéo léo để làm dịu đi các vùng nước nhiễu động. Song trong thời gian làm một nhà ngoại giao ở Anh, bản năng này đã khiến ông thất bại.1
Cũng trong chuyến vượt biển, tàu của ông tránh khỏi bị đắm ở quần đảo Scilly* trong gang tấc khi nó tìm cách tránh các tàu lùng của Pháp trong sương mù. Franklin kể lại phản ứng biết ơn của mình trong lá thư gửi về nhà cho vợ. “Nếu là một tín hữu Công giáo La Mã, hẳn nhân dịp này anh sẽ thề xây một nhà thờ nhỏ cho một vị thánh nào đó”, ông viết. “Song vì không phải, cho nên nếu anh phải thề thốt điều gì, thì đó là việc dựng một ngọn hải đăng.” Franklin luôn tự hào về bản năng về các giải pháp thực tế nhưng cũng chính điều đó lại khiến ông thất bại ở Anh.2
Lần trở lại London ở tuổi 51 này của Franklin diễn ra ngót 30 năm sau chuyến thăm đầu tiên, khi ông còn là một chàng thợ in trẻ tuổi. Sứ mệnh của người đại diện cho Pennsylvania là kết hợp vận động hành lang và ngoại giao khôn khéo. Không may, tài quan sát, óc nhạy bén về tính thực tế, sự cẩn trọng cùng tính khí ôn hòa và cái đầu lạnh như vẫn thấy nơi Franklin đã bị nỗi thất vọng và sau đó là cay đắng lấn át. Song kể cả khi nhiệm vụ ngoại giao của ông sa lầy, có các phương diện khác trong đời sống ở London - bầu bạn cùng các trí thức quốc tế say mê ông, một cuộc sống gia đình mãn nguyện như ở Philadelphia - khiến ông rất khó rời xa nơi này. Ban đầu ông nghĩ nhiệm vụ của mình sẽ hoàn tất sau 5 tháng, thế rồi ông đã ở lại hơn 5 năm. Và sau một quãng nghỉ trở về nhà ngắn ngủi, ông đã ở London thêm 10 năm nữa.
Franklin tới London vào tháng Bảy cùng William, con trai ông, khi đó khoảng 26 tuổi, và hai nô lệ từ lâu đã làm người hầu của gia đình. Họ được Peter Collinson, người bạn thư từ lâu nay của Franklin, chào đón. Collinson, một tín hữu Quaker, là một thương gia kiêm nhà thực vật học ở London. Chính Collinson đã giúp thu gom sách cho thư viện đầu tiên của Hội kín, sau đó xuất bản những bức thư về điện của Franklin. Ông để cha con Franklin sống trong ngôi nhà bề thế tọa lạc ngay ở phía bắc London và lập tức mời các khách khứa khác như chủ nhà in William Strahan - những người cũng vui mừng không kém vì sau cùng đã được gặp nhân vật huyền thoại mà họ đã biết tiếng nhiều năm nay qua thư tín.3
Vài ngày sau, Franklin tìm được nhà trọ (có cả phòng để ông làm các thí nghiêm điện) trong một dãy nhà bốn tầng ấm cúng và tiện nghi trên phố Craven. Ngôi nhà này ẩn mình giữa phố Strand và sông Thames, nằm cạnh nơi ngày nay là Quảng trường Trafalgar và chỉ cách phố Whitehall, nơi đặt trụ sở các bộ, một quãng ngắn. Bà chủ nhà là Margaret Stevenson, một quả phụ trung niên nhạy cảm và khiêm nhường - người sẽ cùng ông xây dựng một mối quan hệ có tính gia đình. Mối quan hệ ấy vừa thế tục lại vừa đầy hiếu kỳ, nó như bản sao cuộc hôn nhân thoải mái với sự thuận tiện dễ chịu ở Philadelphia giữa ông và Deborah. Bạn hữu của Franklin ở London thường coi ông và bà Stevenson là một cặp, hay mời họ đến ăn tối cùng nhau và thăm hỏi cả hai người trong thư từ. Cho dù mối quan hệ của họ có thể có yếu tố tình dục nào đó, song nó không chứa niềm đam mê đặc biệt nào và hầu như không gây ra lời đàm tiếu hay tai tiếng nào ở London.4
Thứ phức tạp hơn là quan hệ giữa ông và con gái của bà Stevenson, Mary, hay còn gọi là Polly. Polly là một cô gái 18 tuổi tràn đầy sức sống và dễ mến, có tính hiếu kỳ trí tuệ mà Franklin yêu mến ở phụ nữ. Ở một phương diện nào đó, Polly như thể là bản sao ở London của Sally, con gái ông. Ông đối xử với cô như một người chú và đôi khi là một người cha, chỉ dẫn cho cô về cuộc đời, đạo đức, khoa học và cả giáo dục. Song cô cũng là phiên bản Anh quốc của Caty Ray, một phụ nữ trẻ đẹp có cử chỉ vui tươi và tâm hồn sinh động. Thư từ ông viết cho Polly đôi lúc cũng chứa những lời tán tỉnh và khiến cô hãnh diện bằng sự ân cần có chủ đích mà ông hào phóng dành cho những người phụ nữ ông thích.
Franklin dành nhiều giờ nói chuyện với Polly - chính sự hiếu kỳ hăng hái của cô đã lôi cuốn ông. Về sau, khi cô đến sống với một người dì ở vùng quê, hai người đã giữ mối liên lạc đáng kinh ngạc. Trong suốt những năm sống ở London, ông viết cho cô thường xuyên hơn hẳn viết cho gia đình. Một vài lá thư có tính bông lơn: “Không ngày nào trôi qua ta không nghĩ đến cháu”, ông viết cho Polly chưa đầy một năm sau lần gặp đầu tiên. Cô cũng gửi cho ông những món quà nhỏ. “Ta đã nhận được những chiếc nịt vớ mà cháu tốt bụng đan cho ta”, Franklin viết trong một lá thư khác. “Chúng là loại duy nhất ta có thể mang. Ta chưa từng dùng bất cứ chiếc nịt vớ nào suốt 20 năm cho đến tận khi cháu bắt đầu cung cấp cho ta... Chắc hẳn ta sẽ thường nghĩ đến cháu khi dùng, cũng như cháu nghĩ đến ta khi đan chúng.”
Cũng như với Caty, mối quan hệ của ông với Polly là một sự gắn bó của cả tầm hồn và trái tim. Ông viết cho cô rất nhiều và mô tả cực kỹ tỉ mỉ về cách phong vũ biểu vận hành, cách màu sắc hấp thụ nhiệt, tính dẫn điện, cách làm ra máng xối và ảnh hưởng của mặt trăng đến thủy triều. Tám trong số các bức thư này chứa đựng một phiên bản hiệu chỉnh các tác phẩm về điện nguyên bản của ông.
Ông cũng cùng Polly tạo ra thứ thực chất là một khóa học qua thư để dạy cô về rất nhiều chủ đề. “Phương pháp tiến hành dễ nhất, theo ta, chính là việc cháu nên đọc một số cuốn sách do ta giới thiệu”, ông đề xuất. “Sách sẽ cung cấp nội dung cho các thư từ cháu gửi cho ta - và do đó, cả các thư từ ta gửi cho cháu.” Đối với Franklin, sự kèm cặp về trí tuệ này là cách tốt nhất để tâng bốc phụ nữ trẻ. Ông kết lại một lá thư gửi cho cô: “Sau sáu trang giấy đúp đầy triết lý viết cho một cô gái trẻ, liệu có cần kết thúc một lá thư như thế với một lời khen? Chẳng phải chính lá thư đã là một lời khen sao? Chẳng phải nó cho thấy cô ấy có tâm hồn khát khao tri thức và có khả năng tiếp thu sao?”5
Một điều khiến ông lo ngại là Polly quá coi trọng việc học. Dù ngưỡng mộ trí tuệ của cô, Franklin lưỡng lự khi cô bóng gió bày tỏ mơ ước dành cả cuộc đời để học hành mà không cần kết hôn và chăm lo gia đình. Vì thế, ông đã giáo huấn cô như một người cha. Đáp lại suy nghĩ về việc sống độc thân suốt phần đời còn lại của cô, ông giảng cho cô về bổn phận chăm lo gia đình của người phụ nữ:
Tuy nhiên, cần có một sự chừng mực thận trọng việc học tập kiểu này. Tri thức về tự nhiên có thể dùng để trang trí và có thể hữu dụng. Nhưng nếu để có được một địa vị về kiến thức mà chúng ta coi nhẹ sự hiểu biết và thực hành các bổn phận thiết yếu, chúng ta đáng bị quở trách. Bởi lẽ không có sự phân cao thấp, nên tri thức về tự nhiên cũng có phẩm giá và tầm quan trọng ngang hàng với việc làm một người cha, người mẹ, người con, người chồng, người vợ tốt.
Polly ghi lòng tạc dạ lời huấn thị. “Cảm tạ người thầy kính mến vì đã nuông chiều để thỏa mãn thói hiếu kỳ của cháu”, cô đáp. “Vì khát vọng lớn nhất của cháu là giữ cho mình luôn đáng yêu trong mắt bác, cháu sẽ thận trọng để không bao giờ đi quá giới hạn của sự chừng mực mà bác đã định ra.” Sau đó, trong mấy tuần tiếp theo, họ tiếp tục tiến hành một cuộc thảo luận sâu rộng, với đầy đủ nghiên cứu thực tiễn và lý thuyết phong phú về cơ chế thủy triều ảnh hưởng tới lưu lượng nước nơi cửa một con sông.6
Polly cuối cùng đã lấy chồng và có ba con, và về sau trở thành góa phụ. Nhưng trải qua tất cả cô vẫn thân thiết một cách lạ lùng với Franklin. Ông đã viết thư cho cô vào năm 1783, khi đã gần cuối cuộc đời: “Tình bạn của chúng ta vẫn luôn là ánh dương trong sáng không có dù chỉ một gợn mây trên khắp bán cầu.” Cô cũng có mặt bên giường lúc ông lâm chung, 33 năm sau lần gặp gỡ đầu tiên.7
Margaret và Polly Stevenson đem lại một bản sao của đời sống gia đình mà ông đã rời xa ở Philadelphia, cũng dễ chịu tương tự và có tính khuyến khích trí tuệ hơn. Vậy đối với gia đình thật của ông, điều này có ý nghĩa ra sao? Chính người bạn Anh của Franklin - William Strahan - là người tỏ rõ sự lo lắng. Ông viết thư cho Deborah để gắng thuyết phục bà đến sống cùng chồng tại London. Trái với một Franklin thích xê dịch, bà không có sở thích đi đây đi đó và rất sợ biển. Strahan trấn an bà rằng chưa có ai từng chết khi vượt biển từ Philadelphia đến London, song ông không để cập rằng thống kê này bỏ qua việc có rất nhiều người đã chết trên những tuyến đường tương tự. Strahan tiếp tục hối thúc bà rằng chuyến đi sẽ là trải nghiệm tuyệt vời cho Sally.
Đó là phần ngọt ngào của lá thư, là “củ cà rốt” được đưa ra để lôi kéo. Nhưng, gần như một cách thô lỗ, theo sau nó là một vài lời khuyên tự phụ đến chối tai. Dù được khoác vẻ ngoài lịch sự, song chúng chứa đựng những lời cảnh báo được che đậy sơ sài, phản ánh sự thấu hiểu của Strahan về bản tính Franklin: “Thưa bà, hiện thời tôi biết các quý cô nơi đây nhìn thấy ở ông ấy cùng thứ ánh sáng như tôi thấy. Khi đọc được những lời này, tôi nghĩ bà nên qua đây nhanh nhất có thể để coi sóc quyền lợi của mình. Dù tôi tin ông ấy chung thủy với Joan - cái tên Franklin đặt cho Deborah trong thơ ca - như bất cứ ai cần hơi thở, nhưng ai biết được những cám dỗ mạnh mẽ và lặp đi lặp lại, nhất là khi ông ấy ở xa bà đến vậy, có thể một lúc nào đó đem lại điều gì.” Đề phòng khi Deborah không hiểu ý mình, Strahan đã buông một lời trấn an nhuốm màu độc địa ở cuối bức thư: “Tôi không thể từ biệt mà không báo với bà rằng ông F. đã rất may mắn được cho trọ tại nhà một quý bà cực kỳ kín đáo, người đã đặc biệt săn sóc ông, đã ở bên ông trong một trận cảm lạnh nguy cấp bằng một sự ân cần, quan tâm và dịu dàng mà có lẽ chỉ bà mới sánh được. Vì vậy, tôi không nghĩ bà còn có thể có một người thay thế nào tốt hơn cho tới khi bà qua đây và đặt ông ấy dưới sự chăm nom của mình.”8
Franklin thích Deborah, tin tưởng bà và tôn trọng lối sống đơn giản và thuần nhất của bà. Nhưng ông hiểu bà sẽ lạc lõng ở London, nơi thế giới phức tạp hơn nhiều. Vì thế, dường như ông hơi mâu thuẫn trong hy vọng lôi kéo bà sang Anh - và vẫn như tính cách đặc trưng, rất thực tế về khả năng điều đó xảy ra. “ [Strahan] đã đặt cược với anh rằng chỉ cần một lá thư, ông ấy có thể đưa em tới đây ngay lập tức”, ông viết. “Anh nói rằng anh sẽ không lấy tiền trong túi ông ấy vì anh dám chắc không sự dụ dỗ nào đủ lớn đề thuyết phục em vượt biển.” Khi Deborah đáp, bà thật sự sẽ ở lại Philadelphia, Franklin không tỏ ra mấy buồn bã. “Câu trả lời của em với ông Strahan chỉ là điều nên như vậy; và anh rất hài lòng về nó. Ông ấy tưởng tài hùng biện và mưu kế của mình chắc chắn sẽ đưa em qua đây.”
Trong thư từ gửi về nhà, Franklin khéo léo cân đầu não giữa việc làm Deborah an tâm rằng ông được chăm lo tốt và việc trấn an bà rằng ông nhớ tình yêu của bà. Sau trận ốm xảy ra vài tháng sau khi đến London, ông viết: “Anh đã chuyển lời khen của em tới bà Stevenson. Bà ấy thật sự rất sốt sắng, hết sức quan tâm tới sức khỏe của anh và rất cần mẫn khi anh khó ở theo mọi kiểu; song anh vẫn ngàn lần ao ước có em và Sally ở đây bên mình... Có một sự khác biệt lớn khi đau ốm mà được săn sóc và sự dịu dàng ân cần xuất phát từ tình yêu chân thành.”
Đi cùng bức thư là một bộ quà tặng, trong đó ông cho bà biết một số do bà Stevenson chọn. Lô hàng gồm có đồ sứ, bốn chiếc muôi xúc muối “mới nhất nhưng xấu nhất” của London, “một dụng cụ gọt táo nhỏ và một dụng cụ khác đề cắt gọt củ cải to thành các phần nhỏ”, một chiếc giỏ mà bà Stevenson tặng Sally, những chiếc nịt tất do Polly đan cho Deborah (“con bé cũng tặng cho anh một đôi cùng loại”), những chiếc thảm, chăn, khăn bàn, vải may áo choàng do bà Stevenson lựa cho Deborah, chân nến cùng nhiều món đồ khác đủ đề xoa dịu bất cứ tội lỗi nào.9
Deborah nói chung luôn tin cậy những người phụ nữ trong đời Franklin. Bà cung cấp cho ông mọi tin tức và lời đồn thổi nơi quê nhà, trong đó có cả tin mới nhất bà nhận được từ Caty Ray, khi cô xin lời khuyên về tình yêu (bên cạnh nhiều thứ khác). Franklin đáp, “anh vui mừng được biết cô Ray vẫn khỏe và hai người vẫn liên lạc với nhau” song ông khuyến khích bà không nên “sốt sắng đưa ra lời khuyên trong những trường hợp thế này”.
Thư từ giữa họ nói chung chứa đựng ít nội dung xúc cảm và trí tuệ như có thể thấy trong các bức thư qua lại giữa Franklin và Polly hay Caty Ray, hoặc sau này với các bạn bè nữ giới của ông ở Paris. Ông cũng không thảo luận nhiều với vợ về các đề tài chính trị giống như với em gái, Jane Mecom. Dù thư từ của ông toát lên thứ tình cảm giống như sự yêu mến chân thành với Deborah và dù bản chất thực tế của mối quan hệ giữa họ là sự hợp tác, không có dấu hiệu rõ rệt về sự hợp tác sâu sắc hơn, thí dụ giống như trong thư từ giữa John Adams và vợ ông, Abigail.
Cuối cùng, khi nhiệm vụ của Franklin kéo dài, những lá thư của Deborah gửi cho ông trở nên trống trải và mang tính than thân hơn, nhất là sau khi mẹ bà tử nạn trong một vụ cháy nhà bếp kinh hoàng năm 1760. Không lâu sau, bà ngượng nghịu viết về sự đơn độc của mình và nỗi lo âu trước các tin đồn bà nghe được về ông và những phụ nữ khác. Thư hồi âm của Franklin, dù vẫn trấn an vợ, được viết theo lối trừu tượng lãnh đạm. “Anh lo rằng lời đồn của những kẻ ăn không ngồi rồi đó đã mang cho em quá nhiều rắc rối”, ông viết. “Em yêu ạ, hãy yên tâm rằng, một khi anh còn có tri giác và Chúa Trời còn chiếu cố cho anh sự che chở của Người, anh không được phép làm điều gì không xứng với nhân cách của một người đàn ông trung thực, một người luôn yêu quý gia đình mình.”10
THẾ GIỚI LONDON CỦA FRANKLINVới 75 vạn dân và đang phát triển nhanh, vào thập niên 1750, London là thành phố lớn nhất châu Âu và lớn thứ hai trên toàn thế giới, chỉ đứng sau Bắc Kinh (90 vạn). Nó chật chội, bẩn thỉu, đầy rẫy bệnh tật, đĩ điếm, tội ác và từ lâu đã có sự phân hóa giữa tầng lớp trên của giới quý tộc có tước hiệu và tầng lớp dưới của giới lao động nghèo khổ luôn phải vật lộn với cái đói. Nhưng nó cũng là một thành phố có sức rung động và tính quốc tế. Chưa kể, vào những năm 1750, ở London đã nổi lên tầng lớp trung lưu của các thương nhân và các nhà tư bản công nghiệp cũng như cộng đồng ngày một lớn mạnh của giới trí thức, văn nghệ sĩ. Dù Philadelphia là thành phố lớn nhất ở Mỹ, so với London, nó chỉ như một ngôi làng nhỏ với 23.000 dân (tương đương kích thước của thị trấn Franklin, Wisconsin hoặc quận Franklin, Massachusetts ngày nay).
Trong sự pha trộn có tính quốc tế của các tầng lớp cũ và mới tạo ra London, Franklin nhanh chóng tìm được sự ủng hộ từ giới văn chương và trí thức. Mặc dù có tiếng là người giỏi thăng tiến về xã hội, ông không tỏ ý muốn làm thân với các thành viên của tầng lớp quý tộc phái Tory, và phía bên kia cũng vậy. Ông thích sống giữa những người có tinh thần tươi trẻ và đức tính giản dị. Ông bẩm sinh đã ác cảm với quyền lực định sẵn và giới tinh hoa lười biếng. Một trong những nơi ông ghé thăm đầu tiên là nhà in mà ông làm việc trước đây. Khi đến, ông đã mua nhiều thùng bia và nâng cốc chúc mừng “thành công của ngành in”.
Strahan và Collinson trở thành hạt nhân của tập hợp bạn bè mới, mà với Franklin, nó như một bản sao của Hội Kín xưa kia nhưng phức tạp và ưu tú hơn. Từ năm 1743, ông đã liên lạc với Strahan - một chủ nhà in và là người đồng sở hữu tờ Biên niên ký London - khi Strahan viết thư giới thiệu người thợ tập sự David Hall. Franklin đã tuyển Hall vào làm và sau này chọn anh làm cộng sự. Hai người đã trao đổi hơn 60 bức thư trước khi gặp gỡ ngoài đời. Cuối cùng, khi họ gặp mặt, Strahan hết sức ấn tượng trước tầm vóc lớn lao của Franklin: “Tôi chưa từng gặp ai tâm đầu ý hợp với tôi một cách hoàn toàn về mọi khía cạnh như thế” - ông nói với Deborah. “Có người dễ mến ở góc độ này, có người dễ mến ở góc độ khác, riêng ông ấy thì tất cả.”
Collinson, vị thương gia từng trao đổi với Franklin về điện, đã giới thiệu ông với Hội Hoàng gia. Một năm trước khi ông đến, Hội đã bầu ông làm hội viên người Mỹ đầu tiên. Qua Collinson, ông gặp Tiến sĩ John Fothergill, một nhà vật lý hàng đầu ở London, người trở thành bác sĩ của ông và giúp tư vấn cho ông cách xử trí với nhà Penn. Ông còn được gặp ngài John Pringle, một giáo sư triết học đạo đức người Scotland tính khí cộc cằn, về sau trở thành một thầy thuốc hoàng gia và là bạn du lịch của ông. Collinson còn giới thiệu ông với Honest Whigs, một tổ thảo luận của các trí thức tự do thân Mỹ. Trong số các hội viên, ông kết bạn với Joseph Priestley, người viết cuốn về lịch sử ngành điện đã củng cố tên tuổi ông, sau về còn tiếp tục tìm cách tách khí ô-xi.* Ngoài ra, ông còn gặp Jonathan Shipley - giám mục thành phố Saint Asaph - Franklin đã viết phần lớn cuốn tự truyện của mình chính tại nhà ông.11
Franklin cũng bắt liên lạc với James Ralph, người bạn ương bướng đã đồng hành cùng ông trong chuyến đi đến London hồi trẻ. Lần đó, họ gây hấn về tiền bạc và một cô gái. Tính khí của Ralph vẫn không mấy thay đổi. Franklin mang từ Philadelphia một lá thư do đứa con gái bị Ralph bỏ rơi, nay đã là mẹ của mười đứa trẻ, viết cho cha. Song Ralph không muốn vợ và con gái bên Anh biết ông ta có mối quan hê bên Mỹ nên đã từ chối viết thư hồi âm và chỉ nhờ Franklin chuyển cho cô “tình cảm to lớn”. Sau lần đó, Franklin không còn việc gì dính dáng tới Ralph nữa.12
Với các quý ông hợp thời của giới quý tộc, ở St. James đang mọc lên các câu lạc bộ bài bạc và ẩm thực trang nhã như White và sau này là Brookes và Boodle. Với giai tầng mới đang phát triển của giới văn sĩ, ký giả, chuyên gia và trí thức, những bạn đồng hành mà Franklin yêu mến, thì có các quán cà phê. Vào thời đó, có hơn 500 quán như thế ở London. Chúng có báo và tạp chí để khách đọc và quầy bàn xung quanh để phục vụ các tổ thảo luận. Các học giả của Hội Hoàng gia thường gặp nhau ở quán Grecian trên khu Strand, cách Phố Craven một quãng đi bộ ngắn. Câu lạc bộ Honest Whigs cứ cách tuần lại gặp gỡ vào ngày thứ Năm tại quán St. Paul. Các quán khác như Massachusetts hay Pennsylvania thì đem lại mối liên hệ với xứ Mỹ. Vốn thích hội nhóm và thi thoảng làm một ly Madeira, Franklin thường ghé hai quán này và những quán khác.13
Nhờ đó, ông đã tạo ra quanh mình một nhóm bạn bè và nơi lui tới mới, nó đem lại cho ông niềm vui giống như Hội Kín và một nền tảng quyền lực khiêm tốn giữa các trí thức của London. Song đúng như Thomas Penn dự đoán, nền tảng quyền lực đó khá hạn chế. Sau khi gặp Franklin, nhà nghiệp chủ đã trấn an các đồng minh của mình rằng, Franklin có thể nhận được sự ủng hộ từ những người quan tâm tới các thí nghiệm khoa học, song các trí thức theo phái whig đó không phải là những người sẽ định đoạt số phận của Pennsylvania. “Tôi thấy có rất ít hệ lụy từ các thí nghiệm của hắn, các vấn đề đó chỉ thu hút một nhóm người nhất định. Nhưng nhóm người có quyền phân định tranh chấp giữa chúng ta lại hoàn toàn khác” - Penn viết. Và sự thật là như vậy.14
CUỘC CHIẾN VỚI NHÀ PENNFranklin không chỉ tới London trong tâm thế của một người trung thành với triều đình mà còn là một người sốt sắng vì đế chế mà ông cảm thấy nước Mỹ sẽ là một phần không tách rời. Nhưng ông sớm nhận ra rằng mình đã bị một quan niệm sai lầm giày vò. Ông tin rằng các thần dân của Nhà Vua vô tình sống tại các thuộc địa không phải là công dân hạng hai. Trái lại, ông cảm thấy họ nên có tất cả quyền hạn của mọi công dân Anh, trong đó có quyền bầu ra các hội đồng lập pháp với quyền làm luật và đánh thuế tương tự như Quốc hội Anh. Nhà Penn có thể có suy nghĩ khác, nhưng ông tin chắc các bộ trưởng người Anh được khai sáng sẽ giúp ông tạo áp lực lên gia tộc này để sửa lối hành xử chuyên quyền của họ.
Sau khi tới London ít lâu, ông gặp gỡ Ngài Granville, chủ tịch Cơ mật Viện, một cơ quan của các bộ trưởng cao cấp đại diện cho đức vua. Niềm tin của Franklin lý giải vì sao đối với ông cuộc gặp lại là một bất ngờ cực điểm. “Người Mỹ các vị có tư tưởng sai lầm về bản chất hiến pháp của mình”, Granville nói. Những chỉ thị được đưa ra cho các thống đốc ở thuộc địa là “lệ làng” và luật pháp thuộc địa không được bỏ qua chúng. Franklin đáp: “Đây là một học thuyết mới đối với tôi”. Ông lập luận, các hiến chương thuộc địa vạch rõ: luật pháp phải do các hội đồng lập pháp của thuộc địa làm ra; dù các thống đốc có quyền phủ quyết, song họ không thể áp đặt chúng. “Ông ấy đảm bảo với tôi rằng tôi đã hoàn toàn nhầm lẫn”, Franklin nhớ lại. Ông hoảng hốt đến mức phải ghi lại nguyên văn cuộc trò chuyện ngay khi trở về Phố Craven.15
Lối diễn giải của Franklin có giá trị: nhiều năm trước, Quốc hội đã bác bỏ một điều khoản coi các chỉ thị đối với các thống đốc có hiệu lực như luật. Nhưng lời khiển trách của Granville, người có mối quan hệ thông gia với nhà Penn, đóng vai trò một lời cảnh báo rằng lối diễn giải của phe nghiệp chủ nhận được sự ủng hộ trong giới quần thần.
Vài hôm sau, vào tháng 8 năm 1757, Franklin bắt đầu chuỗi các buổi gặp gỡ với Thomas Penn, nghiệp chủ quan trọng nhất, và Richard, con trai ông ta. Franklin vốn đã biết Thomas, người sống một thời gian ở Philadelphia và thậm chí từng đặt in các nhãn sở hữu sách tại cửa hiệu của ông (dù các sổ sách kế toán của Franklin cho thấy ông ta không trả hết các hóa đơn của mình). Ban đầu, các buổi gặp gỡ khá chân thành - hai bên tuyên bố mong muốn cư xử hợp lý. Nhưng như Franklin về sau nhận xét: “Tôi cho rằng mỗi bên đều có ý niệm riêng về cách hiểu của từ hợp lý.16
Nhà Penn đòi hỏi Hội đồng Lập pháp đưa ra đơn kiện bằng văn bản và Franklin đã viết xong trong hai ngày. Có tiêu đề “Các khiếu nại chính”, giác thư của Franklin kiến nghị rằng vị thống đốc được bổ nhiệm phải có quyền “tự chủ cao nhất” và thấy việc miễn cho giới nghiệp chủ các loại thuế giúp bảo vệ đất đai của họ là một điều “bất công và tàn nhẫn”. Khiêu khích hơn cả nội dung trên là cách viết không trang trọng mà Franklin sử dụng. Ông không trực tiếp nhắm bài viết vào gia tộc Penn hoặc dùng danh xưng chính xác của họ - “Các nghiệp chủ đích thực và tuyệt đối”.
Bị xúc phạm vì sự sỉ nhục, nhà Penn khuyên Franklin rằng, từ nay trở đi ông chỉ nên thương lượng qua luật sư của họ, Ferdinand John Paris. Franklin từ chối. Ông xem Paris là một “kẻ tự cao và hay cáu bẳn”, người đã xây sẵn mối “thù hằn chết người” với ông. Sự bế tắc này đáp ứng mục đích của các nghiệp chủ - suốt một năm họ tránh đưa ra bất cứ phản hồi nào trong lúc chờ đợi phán quyết từ phía các luật sư của chính phủ.17
Franklin đã đánh mất khả năng giữ bình tĩnh và thân thiện nổi tiếng của mình trong một cuộc họp đầy thù oán với Thomas Penn vào tháng 1 năm 1758. Vấn đề đưa ra thảo luận là quyền phủ quyết của nhà Penn trước việc Hội đồng Lập pháp bổ nhiệm một loạt ủy viên để thương lượng với người Anh-điêng. Nhưng Franklin đã tận dụng cuộc họp để đưa thêm một yêu sách lớn hơn, rằng quyền lực của Hội đồng Lập pháp ở Pennsylvania phải tương tự như Quốc hội ở Anh. Ông lập luận, chính người cha đáng kính của Thomas, William Penn, đã công khai trao những quyền đó cho Hội đồng Lập pháp Pennsylvania vào năm 1701 trong “Hiến chương về các Đặc ân” dành cho những thực dân đến định cư ở thuộc địa.
Thomas cho rằng hiến chương hoàng gia mà William giữ không cho phép ông trao quyền như vậy. Theo Penn, “nếu cha tôi trao các đặc ân trái với sự cho phép của hiến chương hoàng gia, thì không thể đòi hỏi gì từ một sự trao quyền như thế.”
Franklin trả lời: “Khi ấy nếu cha ngài không có quyền trao những đặc ân mà ông ấy giả vờ trao - và bố cáo khắp châu Âu như thể chúng đã được trao, thì những ai đến định cư ở tỉnh này... đã bị lừa gạt, dối trá và phản bội.”
“Hiến chương hoàng gia không phải điều bí mật; nếu họ bị lừa gạt thì đó là lỗi của họ,” Penn cự lại.
Franklin không đúng toàn bộ. Thực chất, hiến chương 1701 của William Penn tuyên bố rằng, Hội đồng Lập pháp Pennsylvania có “quyền lực và các đặc quyền của một hội đồng lập pháp theo các quyền của mọi thần dân Anh sinh ra tự do và theo thông lệ ở mọi thuộc địa của Đức Vua tại Mỹ” vì thế nó cần được diễn giải thêm. Tuy vậy, Franklin thật sự tức giận. Trong bài tường thuật sinh động về cuộc tranh cãi mà ông gửi cho Isaac Norris, phát ngôn viên của Hội đồng, Franklin đã dùng các từ ngữ mà về sau, khi bức thư bị rò rỉ ra ngoài, nó đã hủy hoại cơ hội trở thành nhà vận động hành lang các nghiệp chủ của ông - “ [Penn nói] với một sự xấc xược đắc thắng, cợt nhả theo kiểu một gã lái ngựa hèn kém sẽ làm khi bị khách mua phàn nàn rằng gã đã nói dối về một con ngựa. Tôi kinh ngạc khi thấy ông ta đã hèn hạ vứt bỏ hết tiếng tăm của cha mình. Vào lúc đó, tôi cảm nhận được một nỗi khinh bỉ sâu sắc và chân thật với ông ta hơn tất cả những gì tôi từng cảm thấy với bất cứ ai trên đời.”
Franklin thấy mặt mình nóng bừng lên, cơn giận của ông bắt đầu trỗi dậy. Vì thế, ông thận trọng nói thật ít để tránh cảm xúc phản lại ông. “Tôi không đưa ra câu trả lời nào khác ngoài việc bản thân người nghèo không phải là luật sư và vì tin tưởng cha của ông ta nên họ đã không hề nghĩ rằng cần tham khảo ý kiến của ai,” ông nhớ lại.18
Cuộc họp đầy thù hận này là bước ngoặt trong nhiệm vụ của Franklin. Penn đã từ chối bất cứ cuộc đàm phán cá nhân nào. Ông ta mô tả Franklin như một “nhân vật phản diện độc ác” và tuyên bố “từ nay trở đi, ta sẽ không thảo luận bất cứ điều gì với hắn về bất cứ yêu sách nào.” Sau đó, cứ khi nào họ tình cờ gặp nhau, “dường như trong vẻ mặt khốn khổ của ông ta có một sự kết hợp kỳ lạ của nỗi căm ghét, tức giận, sợ hãi và bực bội,” Franklin thuật lại.
Rời bỏ chủ nghĩa thực dụng như thường thấy ở ông, Franklin bắt đầu trút cơn giận của ông lên các đồng minh ở Pennsylvania. “Sự kiên nhẫn của tôi với các nghiệp chủ dù chưa đến mức hoàn toàn song đã gần như cạn kiệt” - ông viết cho Joseph Galloway, một đồng minh Pennsylvania. Cùng với con trai mình, ông chuẩn bị xuất bản một cuốn sách về lịch sử tranh chấp ở Pennsylvania, “trong đó, giới nghiệp chủ sẽ bị treo cổ lên như chúng đáng bị thế, đến mức thối rữa và bốc mùi trong lỗ mũi của hậu thế.”19
Khả năng vào vai một người đại diện của Franklin do đó gần như đã chấm hết, ít nhất là vào thời điểm này. Dù vậy, ông vẫn có thể cung cấp tin tức tình báo nội bộ cho các bạn hữu ở Philadelphia, chẳng hạn báo trước việc nhà Penn sắp sửa phế bỏ Thống đốc William Denny, người đã vi phạm chỉ thị của họ khi chấp nhận một thỏa hiệp đánh thuế lên tài sản của giới nghiệp chủ. “Điều này phải được giữ bí mật với anh”, ông viết cho Deborah và thêm vào chút tinh quái của Richard Nghèo Khổ: “Vì thế em cũng có thể biến nó thành bí mật nếu em muốn và dùng nó đề cưỡng bách tất cả bạn bè em.”
Ông cũng hiệu quả như xưa nay, từ thời niên thiếu, trong việc sử dụng báo chí để tiến hành một chiến dịch tuyên truyền. Viết những bài vô danh trên tờ báo của Strahan - Biên niên ký London - ông lên án các hành vi của nhà Penn đã đi ngược lại lợi ích của nước Anh. Một bức thư ký tên William Franklin, nhưng rõ ràng được viết dưới sự hỗ trợ của cha, đã tấn công nhà Penn một cách có danh tính hơn. Về sau, nó được in lại trong một cuốn sách về lịch sử của Pennsylvania mà Franklin góp phần tuyển chọn.20
Khi mùa hè năm 1758 đến gần, Franklin đối diện với hai lựa chọn: ông có thể trở về nhà với gia đình đúng như dự tính, song sứ mệnh của ông như vậy xem như đã thất bại. Thay vào đó, ông có thể dành thời gian đi du ngoạn khắp nước Anh và tận hưởng lời tán thưởng của những người ngưỡng mộ ông về trí tuệ.
Không có dấu hiệu cho thấy Franklin xem đây là một quyết định khó khăn. “Anh không dự định trở về cho tới tận mùa xuân sang năm”, ông báo cho Deborah một cách khá lạnh nhạt vào tháng Sáu năm đó. Ông cho biết ông sẽ dành cả mùa hè lang thang khắp vùng quê. “Việc ổn định sức khỏe của anh phụ thuộc phần lớn vào những cuộc du ngoạn có chủ đích này.” Khi Deborah phàn nàn về sức khỏe của chính bà, Franklin chỉ thoáng chút lo âu: “Anh lấy làm lo lắng khi nhận được các tường trình thường xuyên về việc em se mình. Nhưng chúng ta ngày một già đi theo năm tháng và phải thấy trước thể trạng của mình, dù bản thân chúng vẫn tốt ở mức chấp nhận được nhưng sẽ từng chút một nhường bước cho sự yếu đuối của tuổi tác.”
Những lá thư của ông vẫn vậy, ân cần và tán gẫu, nhưng hầu như không lãng mạn. Chúng có xu hướng gia trưởng, có lẽ đôi lúc có một chút hạ mình, song chắc chắn không lôi cuốn về mặt trí tuệ như các bức thư gửi cho em gái Jane Mecom hay Polly Stevenson. Tuy vậy, chúng thật sự chuyên chở một tình thương mến chân thành và thậm chí cả sự tận tâm. Ông đề cao tính thực tiễn hợp lý của vợ và bản chất thoải mái trong mối quan hệ hợp tác giữa họ. Về cơ bản, dường như bà chấp nhận sự dàn xếp mà họ đã làm từ lâu và nhìn chung hài lòng với việc sống thu mình trong ngôi nhà tiện nghi bên những người hàng xóm thân thuộc thay vì phải theo ông trong các chuyến đi biền biệt. Sự trao đổi thư tín giữa họ, cho đến gần cuối đời, chỉ đôi lúc mới có những lời trách móc phía bên kia. Ông tự thấy có bổn phận kể cho bà những câu chuyện phiếm, chỉ dẫn cho bà cách tháo chiếc chuông của cột thu lôi và đưa ra lời khuyên lỗi thời về phụ nữ và chính trị. Có lúc ông đã viết: “Em rất cẩn trọng khi không tham gia vào các tranh chấp bè phái. Phụ nữ không bao giờ nên can thiệp vào đó, trừ phi trong nỗ lực hàn gắn với chồng, anh em trai và bè bạn, những người vô tình ở phía bên kia. Nếu nữ giới giữ được bình tâm thì đó có thể là cách thức để đàn ông bình tâm nhanh hơn.”
Tương tự, Franklin cũng quan tâm đến con gái ở nơi quê nhà, song một lần nữa cũng chỉ mờ nhạt. Ông bày tỏ niềm vui khi nhận được một bức chân dung của Sally và gửi cho cô một chiếc áo choàng, một chiếc mũ trắng, vài đồ lặt vặt và một chiếc khóa thắt lưng làm từ đá thủy tinh giả kim cương của Pháp. “Tất cả có giá ba đồng guinea và họ nói rằng giá đó vẫn còn rẻ”, ông viết. Nếu ông có cảm thấy sức hút của gia đình mình thì hẳn nó không đặc biệt mạnh vì ông có một bản sao ở London. Ông đã vô tư viết trong phần tái bút của một bức thư lan man gửi Deborah vào tháng Sáu năm đó: “Bà Stevenson và con gái bà ấy rất mong anh giúp họ bày tỏ lòng kính trọng.”21
WILLIAM VÀ CÂY PHẢ HỆCó lẽ để phản ứng lại việc bị các kẻ thù của gia đình thường xuyên nhắc tới như một đứa con hoang xuất thân tầm thường, William Franklin khao khát địa vị xã hội còn hơn cả cha anh. Một trong những cuốn sách vụng về nhất của anh có tên Hành vi đúng đắn của những người thuộc tầng lớp trên và khi còn ở London, anh thích lui tới ngôi nhà thời thượng của các bá tước, công tước trẻ hơn là các quán cà phê và phòng khách trí thức mà cha anh ủng hộ. Song, cả trong đời sống xã hội và việc học luật ở Hội luật Hoàng gia, nơi cha anh đã ghi danh cho anh, William sau cùng đã bị lôi kéo về phía quan điểm trung thành và thân phái Tory hơn. Có điều, sự thay đổi ấy diễn ra từ từ, theo từng đợt và đầy mâu thuẫn cá nhân.
Trước khi rời Philadelphia, William đã làm quen một tiểu thư con nhà gia thế có tên Elizabeth Graeme. Cha cô, Tiến sĩ Thomas Graeme - một nhà vật lý và là ủy viên của Hội đồng Thống đốc - sở hữu một ngôi nhà lớn trên Đồi Society và 300 mẫu ruộng đất thuộc hạng tốt nhất ở vùng Philadelphia. Mẹ cô là con riêng của nhà bảo trợ thiếu tin cậy của Benjamin Franklin khi xưa, Thống đốc Keith. Mối quan hệ giữa hai nhà Graeme và Franklin rất căng thẳng. Tiến sĩ Graeme cảm thấy bị hạ nhục vì ban đầu Benjamin không tuyển ông ta vào điều hành đội ngũ nhân viên của Bệnh viện Philadelphia. Hơn nữa, ông ta còn là bạn thân của nhà Penn trong cuộc chiến với Hội đồng Lập pháp.
Nhưng với sự đồng ý bất đắc dĩ của Tiến sĩ Graeme, mối quan hệ ấy đã tiến triển đến mức Elizabeth toan chấp nhận lời cầu hôn của William. Khi đó cô 18 tuổi, ít hơn anh gần chục tuổi. Sự chấp nhận ấy đi kèm điều kiện William rút khỏi bất kỳ sự can dự chính trị nào. Tuy vậy, cô từ chối theo anh tới London hoặc tổ chức lễ cưới trước khi anh ra đi. Cả hai đồng ý chờ đến khi anh trở về mới thành hôn.
Khi ở Anh, rõ ràng nhiệt tình của William với người yêu nguội lạnh sớm hơn so với nhiệt tình với chính trị. Sau một thông báo ngắn khi vừa đến nơi, anh không viết gì cho cô suốt năm tháng sau. Những lời hoa mỹ sáo rỗng anh viết về tình yêu của hai người bay mất, thay vào đó là những lời kể về niềm hoan hỉ ở “đất nước mê hồn này”. Tệ hơn, anh tự hào gửi cho cô bức thư chính trị công kích giới nghiệp chủ mà anh ký tên trên Biên niên ký London. Anh còn đi xa đến mức hỏi xin ý kiến của cô về tình hình bài báo được đón nhận ở Philadelphia.
Thế là mối quan hệ của họ chấm dứt. Cô đợi vài tháng trước khi gửi đi một thư hồi âm lạnh lùng và cay đắng, gọi anh là “tập hợp của sự độc ác có tính bè phái”. Ngày hôm sau, thông qua một người bạn chung, anh trả lời rằng lỗi nằm ở sự dễ thay đổi của cô và anh sẽ vui mừng được thấy cô hạnh phúc bên người đàn ông khác. Về phần mình, anh cũng đang đi tìm hạnh phúc riêng, cả với các quý cô sành điệu ở London và - xứng đáng là con trai của cha mình - đôi lúc với gái làng chơi và những phụ nữ hạ cấp.22
Benjamin Franklin, người có cảm xúc xáo trộn về mối quan hệ này, dường như không hề bối rối trước sự đổ vỡ. Hy vọng của ông là con trai sẽ cưới Polly Stevenson. Có ít khả năng điều đó xảy ra, vì khao khát xã hội của William lớn hơn cả cha mình. Thực tế, William đang xây dựng địa vị xã hội và vẻ ngoài giàu có, khiến Franklin bắt đầu lo âu. Vì thế, ông bắt đầu nỗ lực ngăn cản William khoác vào bộ dạng của giới thượng lưu. Điều này về sau trở thành chủ đề của một phần trong cuốn tự truyện mà ông lấy cớ viết như một lá thư cho con trai. Sau cùng, việc đó tỏ ra vô ích, và, cùng với chính trị, nó trở thành một nguyên nhân làm hai cha con bất hòa.
Nhiều năm trước Franklin đã cảnh báo William đừng trông chờ nhiều ở việc thừa kế. “Con đã đoan chắc với nó rằng, con sẽ tự tiêu số tiền ít ỏi mà con có”, ông viết trong thư gửi mẹ. Khi ở Anh, Franklin ghi chép tỉ mỉ mọi khoản chi tiêu của William - gồm tiền ăn, tiền trọ, quần áo, sách vở - và hiểu rằng đây là các khoản tạm ứng và một ngày nào đó phải được trả lại. Năm 1758, ngay cả khi ông đang nuông chiều bản thân ít nhiều trong một cỗ xe được đài thọ bằng tiền của Pennsylvania, Franklin vẫn cảnh báo con trai nên căn cơ hơn khi ăn uống và tránh làm quen với lối sống xa hoa của London. William, lúc ấy đang đi du lịch cùng bạn bè ở miền nam nước Anh, cảm thấy sợ hãi. “Con vô cùng cảm ơn cha vì sự quan tâm khi cấp tiền cho con”, anh viết và cho biết thêm anh đã chuyển chỗ trọ sang một nơi “tồi tàn hơn nhiều nhưng rẻ tiền hơn”.23
Như một phần nỗ lực để giữ con bám chặt vào di sản tầng lớp “trung bình” của ông, Franklin cho anh tham gia một chuyến du ngoạn khám phá gia phả vào mùa hè năm 1758. Họ đến Ecton, cách London khoảng 60 dặm về phía tây bắc, nơi nhiều thế hệ của nhà Franklin từng sinh sống trước khi Josiah di cư qua Mỹ. Một người chị họ của ông, bà Mary Franklin Fisher (con gái của Thomas, tức anh trai Josiah) vẫn còn sống gần đó. Franklin nhận xét bà “yếu ớt vì tuổi tác” nhưng “dường như đã từng là một người phụ nữ rất thông minh, nhạy cảm”.
Tại nhà thờ của giáo khu, hai cha con tìm thấy các sao lục về hơn hai thế kỷ ra đời, thành hôn và qua đời của các thành viên gia tộc. Vợ của vị mục sư tiếp đãi họ bằng những câu chuyện về bác Thomas của Franklin - người có cuộc đời ít nhiều giống với cháu trai. Franklin thuật lại với Deborah:
[Thomas Franklin là] một người đi đầu trong mọi sự vụ ở quận và rất tích cực tham gia công việc cộng đồng. Chính ông khởi xướng việc quyên góp để dựng chuông trên gác chuông của họ và hoàn tất nó - hai cha con đã được nghe tiếng chuông ngân nga. Ông còn tìm ra phương thức dễ dàng giúp gia súc của làng không chết chìm, điều đôi lần đã xảy ra khi chúng qua sông, phương pháp ấy hiện vẫn được dùng... Lời khuyên và ý kiến của ông được đủ loại người tìm đến trong mọi dịp. Theo lời bà mục sư, người ta xem ông như một vị pháp sư. Ông mất bốn năm trước khi anh chào đời, vào cùng ngày cùng tháng.
Franklin có thể không để ý rằng “pháp sư” chính xác là từ Caty Ray từng dùng để mô tả ông. Còn William, quá ấn tượng trước sự trùng hợp về ngày tháng, phỏng đoán rằng đã xảy ra một “sự đầu thai”.
Tại nghĩa trang, khi William thu chép lại thông tin từ các bia mộ, người hầu của Franklin, Peter, dùng một bàn chải cứng để cọ sạch rêu. Sự miêu tả của Franklin về cảnh này nhắc ta nhớ rằng, dù đã được khai sáng, ông vẫn đưa hai người nô lệ sang Anh. Tuy nhiên, ông xem họ như các gia nhân lâu năm trong nhà hơn là một tài sản. Khi một người bỏ đi ngay sau khi họ đến Anh, Franklin không tìm cách cưỡng chế anh ta quay lại như luật pháp của nước Anh cho phép. Thư hồi âm cho Deborah khi bà hỏi về sự chăm sóc của họ sau đó đã hé lộ nhiều điều:
Peter vẫn ở với anh và cư xử tốt như anh có thể mong đợi khi sống ở một đất nước nơi có quá nhiều dịp làm hư các đầy tớ, nếu họ đã từng tử tế. Cũng như đa số đầy tớ, anh ta cũng có một vài lỗi sai, song anh chỉ nhìn họ bằng một mắt và chỉ nghe họ bằng một tai nên hai bên tiếp xúc khá thoải mái. King, người em hỏi thăm, nay không ở với anh nữa. Anh ta bỏ nhà mình ra đi gần hai năm trước, khi cha con anh về vùng quê vắng nhà. Người ta sớm tìm ra King ở Suffolk, nơi anh ta đã được nhận về hầu hạ một quý bà rất thích biến anh ta thành một Ki-tô hữu và góp phần cải hóa cũng như giáo dục anh ta.24
Cảm nghĩ của ông về Peter cũng chính là cảm nghĩ về chế độ nô lệ lúc đó: ông nhìn lỗi sai chỉ với một mắt, nghe chúng chỉ với một tai và chung sống khá hòa hợp, cho dù càng lúc càng bớt đi. Sự tiến bộ trong góc nhìn của ông về chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc vẫn còn tiếp diễn. Ít lâu sau, ông được bầu vào ban điều hành của một tổ chức thiện nguyện ở Anh, Cộng sự của Tiến sĩ Bray*, và tận tụy với việc xây trường cho người da đen ở các thuộc địa.
Dìu dắt William đi cùng, Franklin dành mùa xuân và mùa hè năm 1758 lang thang khắp nước Anh, đắm mình trong lòng hiếu khách và lời tán thưởng của những người ngưỡng mộ ông về trí tuệ. Trong một lần thăm Đại học Cambridge, ông tiến hành một loạt thí nghiệm về sự bay hơi cùng nhà hóa học lừng danh John Hadley. Trước đó, Franklin đã nghiên cứu cách các chất lỏng khác nhau tạo hiệu ứng làm lạnh khác nhau tùy thuộc ở tốc độ bay hơi của chúng. Cùng với Hadley, ông thử nghiệm sử dụng ê-te, vốn bay hơi rất nhanh. Trong một căn phòng 65 độ, họ liên tiếp dùng ê-te phủ lên một bóng đèn gắn nhiệt kế và dùng một ống bễ để làm nó bốc hơi. “Chúng tôi cứ lặp lại thao tác này - một người trong chúng tôi làm ướt trái cầu và người còn lại trong nhóm thổi vào nó với chiếc ống bễ để đẩy nhanh quá trình bốc hơi. Thủy ngân co lại cho đến khi xuống tới 7 độ, tức thấp hơn điểm đóng băng 25 độ.” Franklin viết: “Thí nghiệm này cho ta thấy khả năng làm lạnh một người đến chết trong một ngày hè ấm áp.” Ông cũng phỏng đoán đúng rằng bản thân các cơn gió mùa hè không làm người ta mát; thực tế, hiệu ứng làm mát đến từ việc gia tăng sự bốc hơi của mồ hôi do gió gây ra.
Nghiên cứu về nhiệt và làm lạnh của ông không sinh sôi như công trình về điện, song nó còn tiếp diễn suốt đời. Ngoài các thí nghiệm về sự bay hơi, ông còn tìm hiểu sâu hơn về cơ chế hấp thụ nhiệt từ ánh sáng của các màu sắc khác nhau, lý do các vật liệu kim loại dẫn điện khác nhau đều dẫn nhiệt tốt và cách thiết kế những chiếc bếp lò hiệu quả hơn. Như thường lệ, thế mạnh của ông không phải là lập nên các lý thuyết mơ hồ mà nằm ở các ứng dụng thực tế có thể cải thiện đời sống hằng ngày.25
Chuyến thăm Cambridge gây ấn tượng mạnh mẽ đến mức họ mời ông trở lại vào mùa hè năm đó đề dự lễ phát bằng. “Thói ưa hư danh của anh được thỏa mãn không ít vì sự trọng thị đặc biệt mà họ thể hiện với anh,” ông thừa nhận với Deborah. Nhưng sự trọng thị đó không chờ đợi Franklin khi ông trở lại London vào mùa thu.26
NHÀ PENN HỒI ÂMHơn một năm sau khi Franklin đã gửi “Các khiếu nại chính”, nhà Penn cuối cùng cũng hồi âm vào tháng 11 năm 1758. Để hạ nhục Franklin, họ lệnh cho luật sư của mình, Ferdinand Paris, gửi trực tiếp cho Hội đồng Lập pháp Pennsylvania, cùng một bản sao cho Franklin. Theo sau là một lá thư riêng họ gửi tới Hội đồng Lập pháp.
Về vấn đề quyền lực của Hội đồng, các nghiệp chủ kiên quyết trên các vấn đề: các chỉ thị của họ với các thống đốc không thể bị vi phạm và hiến chương “trao quyền làm luật cho giới nghiệp chủ”. Hội đồng chỉ được phép đưa “lời khuyên và sự tán thành”. Tuy nhiên, về vấn đề thuế khóa, nhà Penn đề ngỏ khả năng về một sự thỏa hiệp nào đó. “Họ rất sẵn lòng để thu nhập hàng năm từ ruộng đất của mình bị hỏi đến” và xem xét một số sự đóng góp dựa trên thứ “về bản chất có thể bị đánh thuế” - Paris viết.
Sự hồi đáp u ám này, vốn không đem lại lời bảo đảm chắc chắn nào về một số tiền thực tế, thôi thúc Franklin viết để đòi hỏi lời giải thích. Nhưng một vấn đề chủ đạo trong quan điểm của giới nghiệp chủ là họ sẽ không thương lượng với ông nữa. Paris cay đắng nói rằng Hội đồng đã không chọn một người “công bình” làm đại diện. Và nhà Penn, trong bức thư của chính họ, nói rằng các cuộc đàm phán xa hơn đòi hỏi “một sự đại diện rất khác”. Để nhấn mạnh điểm này, Paris tới gặp riêng Franklin, trao cho ông thông điệp của nhà Penn: “Chúng tôi thấy không còn cần thiết phải giữ liên lạc với một quý ông đã thừa nhận rằng ông ấy không được trao quyền quyết định các biện pháp phù hợp.” Franklin “không đáp lấy một lời và trông như thể rất thất vọng”, Paris thuật lại.
“Bởi thế, một dấu chấm hết đã được đặt ra cho mọi sự đàm phán xa hơn giữa họ và tôi”, ông viết thư cho Norris - phát ngôn viên của Hội đồng. Nhiệm vụ bị đình trệ, nên ông có thể trở về để người khác vạch ra các chi tiết của sự thỏa hiệp về thuế khóa. Do đó, ông hờ hững đưa ra lời đề nghị từ nhiệm. “Hội đồng sẽ xem xét, nếu họ đề nghị tiếp tục điều đình với các nghiệp chủ, họ sẽ cần triệu hồi tôi và chỉ định một hay vài người khác làm nhiệm vụ này; đó có thể là một người dễ chấp nhận hơn, mềm dẻo hơn, hoặc như các giới nghiệp chủ nói, người công bình hơn tôi”, ông viết cho Norris.
Song Franklin không đề xuất cách tiếp cận này. Thiên hướng thực tiễn đặc trưng của ông bị chi phối bởi các tình cảm mà ông từng cố gắng tránh như sự cay đắng, lòng kiêu hãnh bị tổn thương, sự đa cảm và nhiệt thành chính trị. Thay vào đó, ông đề xuất một lựa chọn thay thế hoàn toàn khác: nỗ lực giành Pennsylvania khỏi tay nhà Penn và biến nó trở thành một thuộc địa của triều đình, đặt dưới sự cai trị của đức vua và các bộ trưởng. “Nếu cuối cùng Hội đồng cảm nhận được nguy cơ phát sinh tất yếu từ sự gia tăng quyền lực và tài sản của một gia tộc với các nguyên tắc như thế đối với quyền tự do của người dân và sẽ cho rằng đặt quyền cai trị và tài sản vào các bàn tay khác là thích hợp, và vì mục đích đó, nếu Hội đồng đề nghị triều đình trông coi tỉnh bang ngay lập tức, tôi tin điều này có thể được thực thi mà không có khó khăn gì.” Với sự háo hức, ông kết luận: “Khi đó, tôi nghĩ tôi vẫn có thể đảm đương nhiệm vụ.”27
Không có lý gì để tin rằng các bộ trưởng người Anh sẽ can dự vào hiến chương nghiệp chủ hoặc ủng hộ nền dân chủ ở các thuộc địa. Vì thế, tại sao lại Franklin nhằm vào một cuộc thánh chiến thiếu cân nhắc và rủi ro nhằm biến Pennsylvania trở thành thuộc địa của hoàng gia như thế? Một phần của vấn đề là thù oán đối với nhà Penn đã làm lu mờ tầm nhìn ngoại vi của ông. Đối với nhà sử học của Đại học Yale, Edmund Morgan, “đợt mù quáng chính trị kéo dài” này có lẽ bất ngờ, thậm chí gây bối rối. “Mối bận tâm, nếu không muốn nói là nỗi ám ảnh, của Franklin với các đặc quyền của giới nghiệp chủ không chỉ làm lãng phí tài năng to lớn của ông mà còn che đi tầm nhìn và nhận thức của ông về một giải pháp chính trị khả thi”, ông viết.
Nhưng hành động của Franklin có thể được lý giải, ít nhất là một phần, bởi nhiệt huyết của ông với hào quang của một đế chế quân chủ đang lớn mạnh. “Một khi chúng ta chấp nhận hoàn toàn rằng vào giữa các năm 1760-1764, Franklin là người bảo hoàng nhiệt tình và kiên định, ông không thấy trước và không thể tiên đoán sự tan vỡ của đế chế, khi đó phần lớn nỗi ngạc nhiên, băn khoăn và bí ẩn trong hành động của ông vào giai đoạn này sẽ biến mất”, giáo sư Đại học Brown, Gordon Wood, lập luận.28
So với Franklin, nhiều người khác ở Mỹ đã sớm nhận ra rằng, việc các thuộc địa phải đem lại cả lợi ích về chính trị và kinh tế là tư tưởng phổ biến của giới lãnh đạo Anh quốc chứ không riêng gì các nghiệp chủ. Song các đồng minh của Franklin trong Hội đồng Lập pháp Pennsylvania chia sẻ niềm tin rằng cuộc chiền này nhằm vào giới nghiệp chủ, và họ đồng ý ông nên ở lại để tiếp tục tranh đấu. Vốn dĩ bản thân Franklin cũng không muốn rời London, ông đã tung đòn tấn công chống lại nhà Penn trên cả ba mặt trận.
Cú đòn đầu tiên liên quan tới việc nhà Penn xử lý các tranh chấp với người Anh-điêng. Franklin lâu nay đã cảm thông với quyền lợi của người Anh-điêng - nhất là người dân Delaware - những người cảm thấy họ đã bị nhà Penn lường gạt về đất đai. Vào mùa thu năm 1758, đại diện cho thổ dân Delaware, ông trình một bản toát yếu ra trước Cơ mật Viện. Trong đó, ông dùng lại cụm từ “gã lái ngựa hèn kém” bởi ông biết nó từng khiến nhà Penn nổi giận. Ông viết, nhà Penn đã mở rộng ruộng đất của họ “bằng nghệ thuật lừa đảo của gã lái ngựa, khiến thổ dân Anh-điêng có cái nhìn rất tồi tệ về người Anh”. Franklin không biện hộ nhiều, song ông giúp công khai hoá vụ việc để ghi điểm về mặt tuyên truyền chống lại cách nhà Penn cai trị thuộc địa của họ.29
Tuyến tấn công thứ hai của ông liên quan đến một vụ kiện về tội phỉ báng mà Hội đồng Lập pháp Pennsylvania đã thắng William Smith, hiệu trưởng Học viện, người đã trở thành đối thủ chính trị của Franklin. Khi Smith kháng cáo lên Cơ mật Viện ở London xin đảo ngược phán quyết, Franklin đã biến vụ kiện thành một cuộc đấu tranh rộng hơn đại diện cho quyền lợi của Hội đồng. Luật sư biện hộ cho Smith, Ferdinand Paris, lập luận: “Hội đồng Lập pháp Pennsylvania không phải là một Quốc hội và cũng không hề có quyền lực lớn như Viện Thứ dân.” Tháng 6 năm 1759, Cơ mật Viện xử cho Franklin thua. Với một quan điểm hẹp, nó nhận định Hội đồng Lập pháp trong vụ kiện đã ngừng hoạt động và một Hội đồng mới đã được bầu ra vì thế Hội đồng hiện tại không liên quan đến vụ kiện. Đáng ngại hơn, nó lưu ý rằng “các hội đồng cấp thấp” như ở xứ thuộc địa “không thể so sánh về quyền lực và đặc quyền với Viện Thứ dân”.30
Về vấn đề thứ ba, Franklin thành công hơn một chút. Nó liên quan đến vụ kiện của Thống đốc William Denny, người vi phạm chỉ thị trong một loạt trường hợp khi phê chuẩn các dự luật đánh thuế tài sản của giới nghiệp chủ. Nhà Penn cáo buộc và đưa ra một số chứng cứ rằng Denny đã nhận hối lộ, họ không chỉ triệu hồi ông ta mà còn kháng cáo lên Cơ mật Viên xin tuyên hủy các dự luật.
Ý kiến tư vấn ban đầu của ủy ban Thương mại chống lại Franklin và Hội đồng Lập pháp. Song, điều bất ngờ đã xảy ra khi Cơ mật Viện xét xử Phúc thẩm. Một thành viên của Cơ mật Viện, Ngài Mansfield, ra hiệu cho Franklin tới gặp ông ở Phòng Thư ký trong lúc các luật sư đang tranh luận. Ngài Mansfield hỏi liệu ông có thật sự ủng hộ quan điểm cho rằng có thể đánh thuế theo một cách không tổn hại đến điền sản của nhà Penn?
“Chắc chắn”, Franklin đáp.
“Như vậy”, Ngài Mansfield nói, “ông có thể ít nhiều phản đối việc ký kết một khế ước để đảm bảo điều đó.”
“Không hề”, Franklin nói.
Vậy là một thỏa hiệp đã ra đời. Franklin đồng ý rằng luật thuế của Hội đồng sẽ loại trừ “đất hoang chưa được lập địa đồ” thuộc về các nghiệp chủ và sẽ đánh thuế đất chưa có người định cư với một mức “không cao hơn đất đai do người khác sở hữu”. Nhờ trở lại với tính thực dụng xưa, Franklin đã giành chiến thắng một phần. Song thỏa hiệp này không giải quyết dứt điểm vấn đề quyền lực của Hội đồng Lập pháp và cũng không khôi phục lại sự hòa khí giữa Hội đồng và giới nghiệp chủ.31
Thỏa hiệp cũng không giúp đẩy xa hơn cuộc thập tự chinh của Franklin hòng tước quyền sở hữu Pennsylvania của nhà Penn. Hoàn toàn trái ngược, trong toàn bộ ph?