Chuong 9 NGHỈ PHÉP VỀ NHÀ-Philadelphia, 1763-1764-VỊ GIÁM ĐỐC BƯU ĐIỆN TIÊU DAO
Khi William Franklin về tới Philadelphia vào tháng 2 năm 1763, sau cha anh ba tháng, mọi căng thẳng giữa hai người đàn ông nhanh chóng tiêu tan. Anh cùng người vợ mới cưới ngụ bốn ngày tại nhà của cha mẹ cho lại sức sau chuyến vượt biển mùa đông khủng khiếp, rồi hai cha con lên đường đến New Jersey. Giới quỹ tộc địa phương ngồi xe trượt tuyết hộ tống họ tới Perth Amboy - một làng nhỏ gồm 200 nhà - trong khi một cơn bão tuyết đang kéo đến. Sau khi William tuyên thệ nhậm chức ở đây, họ tiếp tục đến và lặp lại lễ này tại Burlington, thủ phủ của thuộc địa. Tại đây, lễ hội kết thúc bằng việc “đốt lửa trại, rung chuông và bắn súng”.
Ở Philadelphia, đối thủ của Franklin hoảng sợ vì William con trai ông đã có được sự bổ nhiệm của triều đình. Song, Nghiệp chủ Thomas Penn gửi thư từ London trấn an họ rằng, việc đó có thể có tác dụng xoa dịu tình hình. “Người ta bảo rằng, các vị sẽ thấy một ông Franklin dễ sai khiến hơn, và tôi tin chúng ta sẽ thấy,” Thomas nói. “Con trai ông ta phải tuân theo các chỉ thị, và với những việc anh ta được lệnh phải làm, người cha khó có thể phản đối ở đất Pennsylvania này.”1
Điều này xem ra là một sự tự huyễn, bởi Franklin (ít nhất vào lúc này) phân biệt rạch ròi các chỉ thị của phe nghiệp chủ và của nhà vua. Tuy nhiên, năm đầu tiên ông trở lại Mỹ là một năm yên ổn. Thực tế, ông dễ bảo hơn nhiều trong các vấn đề chính trị của Pennsylvania - một phần vì ông ít can dự vào chính trị hơn và một phần vì ông ít tham dự vào đời sống ở Pennsylvania hơn. Luôn được tiếp sinh lực bởi những chuyến đi, theo đuổi các thú vui khác nhau và rõ ràng không gắn bó với tổ ẩm mà ông đã bỏ rơi suốt năm năm, Franklin rời nhà vào tháng Tư để thực hiện một chuyến thị sát bưu chính kéo dài bảy tháng và 1.780 dặm, đưa ông từ Virginia tới New Hampshire.
Tại Virginia, ông âm thầm thực hiện một hành vi hào hiệp khiến về sau, ngay cả trong những lúc tranh cãi, ông vẫn có nhiều bạn hữu trung thành hơn là kẻ thù. William Hunter, vị cộng sự cùng ông giữ vị trí giám đốc bưu điện xứ thuộc địa, đã qua đời và để lại một con trai ngoài giá thú sống trong cơ cực. Một người bạn của Hunter đề nghị Franklin cưu mang và chăm lo việc học hành của cậu bé. Đây là một nhiệm vụ khó khăn và Franklin ít nhiều tỏ ra miễn cưỡng. “Như những người đàn ông có tuổi khác, tôi bắt đầu tìm đến sự nhàn hạ trong hầu hết mọi việc”, ông nhận xét. “Nhưng tôi sẽ vui lòng đảm đương nhiệm vụ mà ông đề xuất.” Vốn dĩ có cả con trai và cháu trai ngoài giá thú, ông rất nhạy cảm trước tình cảnh này và cho rằng Hunter hẳn cũng sẽ làm thế với ông.2
Franklin hy vọng cái chết của Hunter đồng nghĩa ông sẽ trở thành giám đốc bưu điện duy nhất tại xứ thuộc địa sau 24 năm phục vụ, như thư ủy nhiệm ban đầu của ông quy định. Điều đó đã không xảy ra. Bất chấp sức hấp dẫn mãnh liệt của Franklin với các vị bề trên ở London, thống đốc Virginia đảm bảo được việc bổ nhiệm thư ký của ông ta, John Foxcroft, làm cộng sự mới của Franklin. Bản tính thân thiện với đồng nghiệp của Franklin đã trở lại và ông gắn kết tình bạn với Foxcroft trong chuyến thăm Virginia. Họ có nhiều việc cần làm. Bởi lẽ Canada đã trở thành một phần của Đế chế Anh, họ phải thiết lập một hệ thống nối dài việc chuyển thư tín tới Montreal. Họ cũng sắp xếp các tàu chở bưu kiện tới Tây Ấn và các bưu tá di chuyển cả trong đêm. Thư gửi từ Philadelphia đến Boston có thể nhận được hồi âm sau sáu ngày và một chuyến khứ hồi tới New York có thể được thực hiện trong vòng 24 tiếng, một điều có lẽ đáng kể ngay cả trong thời nay.
Foxcroft cùng Franklin ghé thăm Philadelphia chóng vánh và sau đó họ lại tới New York để thực hiện chuyến thị sát các bưu điện phía bắc. Franklin tha thiết muốn đưa Deborah theo cùng. Ông cảm thấy, nếu bà có thể học cách chia sẻ niềm yêu thích du lịch và sự tò mò về thế giới của ông, một ngày nào đó bà thậm chí có thể sẽ đồng ý cùng ông đến London. Không có gì ngạc nhiên, một lần nữa bà lại từ chối nhổ rễ. Cũng như ông, bà là một người độc lập theo cách của mình. Nhưng mối quan hệ của họ đủ thân thiết để ông cho phép bà mở bất cứ thư tín nào ông nhận được từ Anh. “Điều đó có thể đem cho em niềm vui thích khi thấy rằng, những người đã biết anh ở đó lâu dài và thân mật đến mức họ vẫn giữ lối đối xử chân tình với anh.” Việc này có ý nghĩa nhiều hơn thói ưa hư danh: ông hy vọng những bức thư sẽ làm dịu đi sự phản đối của bà đối với việc đến thăm nước Anh.3
Thế chỗ Deborah, ông đưa cô con gái Sally, khi đó 19 tuổi, đi cùng. Đây là một dịp vui khi cô được ra ngoài, ở New Jersey, họ nghỉ tại nhà của William và Elizabeth, và được dẫn tới những buổi tiệc trọng thể cũng như những chuyến dã ngoại về miền quê hết sức dễ chịu. Sau đó họ đi tàu tới Newport, nơi Sally có được niềm vui (và thật sự đã trở thành như vậy) gặp gỡ Caty, người mà cha cô từng tán tỉnh trước đó rất lâu. Caty giờ đã là bà Catherine Ray Greene, một người mẹ của hai cô con gái. (Không bao giờ quên những người phụ nữ đã trở thành một phần của gia đình mở rộng của ông, Franklin cũng trao đổi thư từ với Polly Stevenson trong chuyến đi này, nhấn mạnh rằng sự “đối xử hiếu thảo dịu dàng mà con luôn bày tỏ với người bạn già này làm ta hết sức xiêu lòng”.)4
Franklin bị trật khớp vai vì ngã xe nên Sally sẵn lòng nán lại Newport để cô và Caty có thể chăm sóc ông. Song, ông lại háo hức đi tiếp tới Boston. Hai cha con lưu lại đây hai tháng, Franklin ở cùng em gái mình, Jane Mecom, còn Sally ở với các chị em họ, những người sở hữu một chiếc phong cầm. “Anh không muốn cháu bỏ lỡ việc tập tành”, Franklin giải thích với Jane và nói thêm thật ngọt ngào, “vì thế anh sẽ ở với em gái thân mến lâu hơn.”
Suốt phần lớn thời gian ở Boston, Franklin chỉ quanh quẩn trong nhà. Ông lại phải chịu một cú ngã khác trong một chuyến đi ngắn tới New Hampshire, và một lần nữa ông lại bị trật khớp vai. Đa số họ hàng của ông ở Boston khi đó đã qua đời, và vì chính sức chịu đựng của ông ở tuổi 57 đã hao mòn, nên những lá thư của ông trở nên suy tư hơn và ít bông lơn hơn. “Tôi vẫn chưa thể đi trên các con đường gồ ghề”, ông than thở với Caty. Tuy vậy, ông vẫn đặt hy vọng sẽ trở lại nước Anh một lần nữa. “Không người bạn nào mong tôi ở Anh nhiều hơn chính tôi”, ông viết cho Strahan. “Song trước khi đi, tất cả mọi điều khiến tôi lo lắng ở đây phải được dàn xếp, để tôi không còn cần trở về Mỹ thêm một lần nữa.”5
Khi trở về Philadelphia vào tháng Mười một, Franklin thấy việc giải quyết mọi sự vụ theo cách cho phép ông có thể nghỉ hưu nhàn nhã ở Anh khó khăn hơn bao giờ hết. Sự bất ổn chính trị dữ dội hơn và bốn lần vượt Đại Tây Dương nữa vẫn chờ phía trước. Bảy tháng du hành khắp xứ thuộc địa cùng thời gian ông đã sống ở Anh đặt ông vào một vị thế độc nhất để có thể đóng một vai trò trong các trận bão sắp đến. Là ông trùm của ngành xuất bản và sau đó là một chủ bưu điện, ông là một trong số ít người nhìn nhận Mỹ như một thể thống nhất. Với ông, các thuộc địa không chỉ là các thực thể tách biệt, mà là một tân thế giới mới với các lý tưởng và lợi ích chung.
Trong chuyến thị sát bưu điện, Franklin lên kế hoạch và chỉ đạo việc xây dựng một ngôi nhà gạch ba tầng mới trên Phố Chợ, chỉ cách nơi mà Deborah lần đầu nhìn thấy ông trong hình ảnh một anh chàng bỏ nhà ra đi vài bước chân. Từ đám cưới theo luật tập tục vào năm 1730, họ đã sống trong ít nhất sáu ngôi nhà thuê và chưa từng sở hữu ngôi nhà nào. Đây là lần đầu tiên họ có không gian để tận hưởng tất cả các đồ trang trí đã thâu góp được kể từ khi Deborah mua cho ông chiếc bát sứ để dùng bữa sáng đầu tiên: đàn armonica và phong cầm, bếp lò và thiết bị khoa học, thư viện và những chiếc rèm đăng ten.
Phải chăng Franklin đang trở thành người thích cuộc sống gia đình? Trên một số khía cạnh, dù có tình yêu với việc ngao du và đôi khi có mối quan hệ xa cách với chính gia đình mình, khi tuổi tác ngày một cao, cậu bé bỏ nhà ra đi khi xưa đã trở thành một tâm hồn khá quẩn quanh dù sống ở đâu. Ông yêu Hội Kín và các câu lạc bộ, thói quen thành lệ của mình và những sắp xếp về đời sống gia đình thứ hai mà ông tạo ra ở Anh. Ông vẫn luôn có phần âu lo, thậm chí săn sóc, cho vợ và con gái cũng như họ hàng, ngay cả khi ông nuông chiều tính thích du lịch của mình. Việc ngôi nhà mới được xây lên để phục vụ sự hưởng thụ của chính ông hay chủ yếu dành cho gia đình là một điều không rõ - có lẽ ngay cả với chính ông. Song tình yêu với các dự án khiến ông để tâm sâu sắc đến mọi chi tiết, kể cả chất lượng của những chiếc tay nắm cửa và bản lề.
Bất kể những gì ông đã viết cho Strahan, xung đột về việc ông sẽ sống ở bờ bên nào đại dương vẫn chưa được giải quyết. Chắc chắn Deborah vẫn không hề mong muốn sống cách nơi bà đã lớn lên xa hơn một trăm thước. “Mẹ cháu căm ghét đi biển đến mức cháu tin sẽ không bao giờ thuyết phục được cha cháu đến tái ngộ nước Anh một lần nữa”, William viết trong thư gửi Strahan. “Ông hiện đang xây nhà riêng để ở.” Franklin cũng bông đùa về dự định nhận một phần đất được ban ở Ohio - tức hướng về phía tây hơn là phía đông. Đến cuối năm 1763, ông thừa nhận với Strahan rằng ông đang lúng túng về nơi mình sẽ sống những năm tháng còn lại: “Chúng ta sẽ sớm biết mọi thứ cuối cùng sẽ chuyển biến như thế nào.”6
NHỮNG CẬU BÉ PAXTONCác kế hoạch trong tương lai của Franklin phụ thuộc một phần vào hành động của John Penn, vị tân thống đốc Pennsylvania. John là cháu trai của nghiệp chủ Thomas Penn và đã từng là đại biểu cùng Franklin dự Hội nghị Albany. Franklin có phần hy vọng. “Ông ta là người văn minh, vì thế tôi nghĩ rằng chúng tôi sẽ không có sự bất đồng cá nhân, ít nhất tôi sẽ không để ông ta có dịp,” Franklin viết cho Collinson.
Phòng thủ biên giới là vấn đề đầu tiên mà Penn cùng Hội đồng Lập pháp Pennsylvania phải đối mặt. Việc nước Anh chiến thắng trong cuộc chiến tranh với quân Pháp và người Anh-điêng không đủ đảm bảo một cách toàn diện sự yên bình cho tất cả người Anh-điêng và những người đến định cư ở phía Tây, vốn luôn bị quấy rối bởi những cuộc đột kích do vị thủ lĩnh Ottawa, được biết đến với cái tên Pontiac, cầm đầu. Vào mùa thu năm 1763, chiến trận đã lắng xuống, song sự phẫn nộ của nhiều người thô kệch sống ở vùng xa xôi hẻo lánh của Pennsylvania thì chưa.
Mọi thứ bùng nổ vào ngày 14 tháng 12 khi một toán du côn gồm hơn năm chục cư dân biên giới ở quanh thị trấn Paxton giết hại sáu người Anh-điêng không vũ trang - tất cả đều hiền hòa và đã cải sang Công giáo. Hai tuần sau, một toán còn lớn hơn nữa đã hạ sát thêm 14 người Anh-điêng, những người đã ẩn nấp cầu sự an toàn trong một trại tế bần gần đó.
“Những cậu bé Paxton”, tên gọi của toán cư dân biên giới du côn ngày một lớn mạnh này, tuyên bố rằng điểm đến tiếp theo của chúng là Philadelphia, nơi có hơn 140 người Anh-điêng hiền lành khác đang được cho trú ẩn. Chúng đe dọa không chỉ giết những người Anh-điêng mà cả bất cứ người da trắng nào che chở cho họ, kể cả các tín hữu Quaker nổi bật. Điều này thôi thúc một số tín hữu Quaker gác chủ trương hòa bình sang một bên để cầm vũ khí, và khiến một số người khác rời bỏ thành phố.
Cuộc nổi dậy có nguy cơ trở thành cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất mà Pennsylvania từng phải đối mặt - một cuộc nội chiến tôn giáo và xã hội thực thụ. Một bên là các cư dân biên giới, chủ yếu là các tín hữu Trưởng lão cộng với những người có cảm tình với họ thuộc tầng lớp lao động trong thành phố, bao gốm nhiều tín hữu Luther người Đức và tín hữu Trưởng lão người Scotland-Ireland. Một bên là các tín hữu Quaker thủ cựu của Philadelphia, sẵn mang xu hướng yêu chuộng hòa bình và mong muốn giao thương với người Anh-điêng. Dù lúc đó các tín hữu Quaker dễ dàng bị vượt về dân số do người Đức nhập cư, họ vẫn chiếm ưu thế trong Hội đồng Lập pháp và liên tục chống lại việc dành nhiều ngân sách cho phòng thủ biên giới. Lần này có một sự thay đổi, các thương gia Anh giáo thuộc tầng lớp trên, vốn có xu hướng ủng hộ giới nghiệp chủ trong cuộc tranh đấu với Hội đồng Lập pháp, đã chuyển sang kết đồng minh với phái Quaker, ít nhất là tạm thời.
Một cuộc chiến hiểm độc bằng các cuốn sách nhỏ đã xảy ra. Các tín hữu Trưởng lão ở Philadelphia vốn ủng hộ những huynh đệ sống ở vùng hẻo lãnh của họ nên đã đả kích các tín hữu Quaker vì nuông chiều người Anh-điêng và không để cư dân biên giới có sự đại diện tương xứng trong Hội đồng Lập pháp theo quy định của hiến chương. Franklin đáp lại bằng tập sách nhỏ của ông, viết vào cuối tháng 1 năm 1764. Với nhan đề “Bài tường thuật các vụ thảm sát gần đây ở Quận Lancaster”, đây là một trong những tác phẩm xúc động nhất ông từng viết.
Ông bắt đầu bài viết của mình với những bản lý lịch đầy chua chát của từng người Anh-điêng bị sát hại, trong đó dùng tên tiếng Anh và nhấn mạnh tính cách hiền hòa của họ. “Những sinh vật khốn khổ, bất khả kháng cự này ngay lập tức bị bắn, bị đâm, bị chặt” - ông mô tả vụ thảm sát chi tiết đến đẫm máu! Người Anh-điêng lớn tuổi nhất bị “cắt ra từng mảnh trên giường” và những người khác “bị lột da hoặc không thì bị xẻo thịt một cách rùng rợn”.
Franklin tiếp tục mô tả cuộc thảm sát hai tuần sau đó bằng những từ ngữ thậm chí còn rùng rợn hơn:
Bởi không có vũ khí, dù là thô sơ nhất, để tự vệ, họ chia thành từng gia đình nhỏ; trẻ con bám lấy cha mẹ chúng. Họ quỳ xuống, phản đối bằng sự vô tội, bày tỏ tình yêu với nước Anh và nói rằng suốt đời họ chưa từng làm một người Anh nào bị thương. Và ở tư thế này họ đã nhận lấy nhát rìu! Đàn ông, đàn bà, trẻ nhỏ - tất cả đều bị giết hại một cách dã man trong máu lạnh!
Với Những cậu bé Paxton, tất cả người Anh-điêng đều như nhau và chẳng cần phải đối xử với họ như các cá thể. “Có ai lại tuyên bố chiến tranh với một phần đất nước mà không phải toàn bộ?” phát ngôn viên của chúng nói. Trái lại, Franklin sử dụng tập sách nhỏ của mình để lên án các định kiến và cổ vũ lòng bao dung cá nhân, vốn là trung tâm trong tôn chỉ chính trị của ông. “Nếu như một người Anh-điêng làm tôi bị thương, chẳng lẽ tôi có thể trả thù tất cả người Anh-điêng vì thương tích ấy?” ông chất vấn. “Tội lỗi duy nhất của những người khốn khổ này dường như là bởi họ có làn da nâu đỏ và mái tóc đen.” Ông lập luận rằng, thật vô nhân đạo khi trừng phạt một cá nhân vì những gì mà những kẻ khác cùng chủng tộc, bộ lạc hay nhóm người với anh ta có thể đã làm. “[Nếu lý luận theo cách này], khi một kẻ có gương mặt tàn nhang và mái tóc đỏ giết hại vợ con tôi, tôi sẽ được quyền trả thù bằng cách giết tất cả những đàn ông, đàn bà và trẻ con có tóc đỏ mà tôi thấy ở bất cứ nơi đâu sau đó.”
Để củng cố lập luận của mình, ông đưa ra các thí dụ lịch sử về cách mà nhiều sắc dân khác nhau như Do Thái, Hồi giáo, Moor*, người da đen và người Anh-điêng đã tỏ rõ tính đạo đức và lòng bao dung lớn hơn trong những hoàn cảnh tương tự. Franklin kết luận rằng, toàn tỉnh cần phải đứng lên để đương đầu với Những cậu bé Paxton khi chúng chuẩn bị tiến về Philadelphia và lôi chúng ra trước công lý. Dẫu rằng có một chút bất nhất nhỏ trong lối lập luận của mình, ông cảnh cáo về tội ác tập thể mà tất cả dân da trắng sẽ phải cùng gánh chịu nếu không làm thế: “Tội lỗi sẽ phủ lên toàn bộ mảnh đất này cho đến khi nào công lý được thực thi đối với những kẻ sát nhân.”7
Tập sách nhỏ này về sau đã gây tổn hại về mặt chính trị cho Franklin vì nó hé lộ thiên kiến sâu kín của ông với dân Đức đến Mỹ định cư, cũng như sự căm ghét suốt đời với giáo lý của phái Trưởng lão và Calvin. Ông ít thể hiện sự cảm thông với những lời than thở của các cư dân biên giới và gọi họ là “lũ man rợ” - những kẻ đã xử sự “làm ô nhục vĩnh viễn đất nước và màu da của họ”. Franklin rất cảnh giác với đám đông vô trật tự, dù về nhiều mặt, ông là một người có tư tưởng dân túy. Như thường lệ, thế giới quan của ông xuất phát từ góc độ của tầng lớp trung lưu mới: không tin tưởng cả quần chúng chưa rũ sạch bùn và giới thượng lưu cổ hủ.
Thứ Bảy ngày 4 tháng 2, chỉ một tuần sau khi tập sách nhỏ của Franklin được xuất bản, Thống đốc Penn đã triệu tập một cuộc mít-tinh lớn trên khoảng sân của trụ sở tỉnh bang, khi mà Những cậu bé Paxton đang tiến về thành phố. Ban đầu, ông giữ lập trường cứng rắn. Ông hạ lệnh bắt giữ các thủ lĩnh của toán này, khai triển các binh đoàn lính Anh và kêu gọi dân chúng gia nhập các đội dân quân mà Franklin cùng những người khác đang tổ chức. Nhiều tín hữu Quaker thậm chí cũng cầm vũ khí, mặc dù nhiều tín hữu Trưởng lão trong thành phố từ chối.
Nửa đêm ngày Chủ nhật, toán dân biên giới gồm 250 người đã đến Germantown, ngay rìa phía bắc thành phố. Chuông nhà thờ vang lên báo động, và trong cơn hỗn loạn đó, một liên minh bất ngờ hình thành. Franklin kể lại với một người bạn: Thống đốc Penn “đã cho tôi một vinh dự. Sau một đợt báo động, ông ta đã chạy tới nhà tôi lúc nửa đêm cùng các cố vấn theo bén gót để xin tôi lời khuyên và biến nhà tôi thành trụ sở trong một thời gian”. Penn thậm chí còn đề nghị trao quyền điều khiển đội dân quân cho Franklin, song ông cẩn trọng từ chối. “Tôi chọn mang một khẩu hỏa mai và củng cố quyền lực cho ông ấy bằng cách làm gương về lòng tuân phục mệnh lệnh.”8
Franklin và những người khác - trong đó có nhiều tín hữu Quaker - muốn ngài thống đốc ra lệnh tấn công. Trái lại, Penn quyết định cử một phái đoàn gồm bảy đại diện của thành phố, trong đó có Franklin, tới gặp Những cậu bé Paxton. Về sau Franklin nhớ lại: “Bộ mặt sẵn sàng chiến đấu và lập luận mà chúng tôi đưa ra với các phần tử nổi dậy đã vãn hồi sự tĩnh lặng cho thành phố.” Toán cư dân biên giới đồng ý giải tán nếu họ được cử một số thủ lĩnh tới thành phố để trình bày những nỗi bất bình của mình.
Khi căng thẳng với Những cậu bé Paxton dần lắng, sự đối đầu giữa Franklin và Penn lại trỗi dậy. Franklin tỏ ra cứng rắn. Ông muốn thống đốc và Hội đồng Lập pháp cư xử hợp tác để cùng đối phó với phái đoàn Paxton và buộc họ chịu trách nhiệm về các vụ thảm sát. Tuy vậy, vị thống đốc nhận thấy có thể đạt được lợi ích về chính trị cho bản thân khi thắt chặt liên minh với các tín hữu Trưởng lão và người Đức - những người cảm thông với các cư dân biên giới (và bị những lời lẽ cay nghiệt mà Franklin đã viết xúc phạm). Vì thế, ông ta gặp riêng phái đoàn Paxton, lịch sự lắng nghe họ và đồng ý sẽ không hối thúc các cáo buộc chống lại họ. Theo đề nghị của họ, ông ta cũng ban hành chính sách ban thưởng cho bất cứ mảng da đầu nào của người Anh-điêng, dù là nam hay nữ.
Franklin tái mặt. “Sự việc này bất ngờ đưa ông ta và chính phủ của mình đi đến chỗ đáng khinh,” ông viết cho một người bạn. “Mọi sự kính trọng dành cho ông ta trong Hội đồng Lập pháp đều bay biến. Tất cả hy vọng về hạnh phúc dưới chính quyền nghiệp chủ đã chấm hết.” Đó là cảm xúc chung của hai bên. Trong một lá thư gửi cho bác ruột, tức Nghiệp chủ Thomas Penn, Thống đốc John Penn cũng đưa ra lời kết tội đanh thép tương tự về Franklin: “Sẽ không bao giờ có bất cứ viễn cảnh bình yên và hạnh phúc nào một khi kẻ phản diện đó còn được tự do truyền bá sự độc hại của bản chất tồi tệ và cái ác thâm căn cố đế vốn đã ăn sâu vào trái tim đen tối của ông ta.”
Bóng tối thực sự đã bắt đầu phủ lên trái tim vốn luôn lạc quan của Franklin. Cảm thấy bị gò bó tại Philadelphia với nền chính trị bốc mùi của nó, bồn chồn khi ở nhà và ít tìm ra sự tiêu khiển trong khoa học hay nghề nghiệp, ông đánh mất một phần cử chỉ hài hước và vui tươi của mình. Thư từ của ông chứa đựng các nhận định cay nghiệt hơn là hóm hỉnh về chính trị, và những đường hướng cá nhân thậm chí còn u ám hơn. Franklin đã viết cho dược sĩ John Fothergill, một tín hữu Quaker sống ở London: “Ông có tự hài lòng vì tưởng rằng mình đang làm việc tốt? Ông đã nhầm. Một nửa số mạng người ông cứu sống vốn không đáng được cứu vì chúng vô dụng; và phần lớn trong nửa còn lại lẽ ra không được phép cứu vì chúng đầy ác tâm.”9
LẠI CHỐNG GIỚI NGHIỆP CHỦVà thế là cuộc chiến giữa thống đốc và Hội đồng Lập pháp lại tiếp tục, thậm chí còn kịch liệt hơn bao giờ hết. Họ xung đột về quyền kiểm soát việc bổ nhiệm dân quân, về một ngọn hải đăng - và tất nhiên cả về thuế khóa. Khi Hội đồng Lập pháp thông qua dự luật đánh thuế tài sản của giới nghiệp chủ, được xây dựng theo phác thảo tổng quát song không theo công thức chính xác mà Cơ mật Viện đã thỏa hiệp, Franklin đã viết một thông điệp của Hội đồng Lập pháp gửi đến thống đốc để cảnh báo rằng hê lụy của việc phủ quyết dự luật này “chắc chắn sẽ làm chồng chất thêm những lời phỉ báng và tội lỗi mà gia tộc nghiệp chủ đã sẵn mang; đồng thời sẽ khiến chính quyền của họ trở nên đáng khinh thường hơn nữa (nếu còn có thể)”. Thống đốc đã phủ quyết nó.10
Vấn đề đặt ra không chỉ là nguyên tắc mà cả quyền lực. Franklin nhận thấy phe nghiệp chủ hiện giờ có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ cư dân biên giới và thân tộc người Scotland-Ireland và người Đức của họ. Điều này khơi lại quyết tâm của ông trong việc tiếp tục theo đuổi ước mơ thuyết phục nước Anh hủy bỏ hiến chương về nghiệp chủ và biến Pennsylvania trở thành một thuộc địa của nhà vua, dù vướng phải nhiều phản đối.
Hầu hết dân chúng Pennsylvania vẫn không chia sẻ với ông lòng nhiệt thành ủng hộ nền cai trị của hoàng gia thay cho giới nghiệp chủ. Các thành viên giới quý tộc thương gia Philadelphia là bạn bè của nhà Penn. Các cư dân biên giới theo phái Trưởng lão và tầng lớp lao động dân tộc đã thiết lập liên minh mới sau vụ Những cậu bé Paxton. Hơn nữa, họ e rằng sau khi thế quyền, triều đình sẽ chính thức thiết lập quyền lực của Giáo hội Anh, thứ mà gia tộc họ đã bất đồng đến mức phải rời quê hương. Ngay cả các tín hữu Quaker nổi bật như Isaac Norris và Israel Pemberton - những người có xu hướng là đồng minh của Franklin - cũng cảnh giác về một hiến chương mới có nguy cơ xóa bỏ một số quyền tự do tôn giáo mà William Penn quá cố đã đảm bảo từ lâu. Nhờ cuộc thập tự chinh cứng đầu này, Franklin đã thành công trong việc chia rẽ bạn bè và hợp nhất kẻ thù của ông.
Tương tự, ở London, sự ủng hộ dành cho việc hoàng gia tiếp quản Philadelphia cũng không tăng lên so với kỳ trước, khi Franklin mới bắt đầu cuộc vận động trong vai trò một người đại diện tại đây. Huân tước Hyde, ông chủ của Franklin tại Cục Bưu chính Anh quốc, viết rằng ngay cả một số bộ trưởng trong triều đình có thể muốn “nhúng tay vào” thuộc địa cũng không sẵn sàng đối đầu với nhà Penn. Ông công khai cảnh báo Franklin, một người được hoàng gia bổ nhiệm, rằng “tất cả các viên chức của hoàng gia được kỳ vọng sẽ phò tá cho chính quyền”. Franklin có chút đùa cợt về lời cảnh báo này, ông nói mình sẽ “không bị Hyde giới hạn”.11
Tuy nhiên, Franklin vẫn kiểm soát hiệu quả Hội đồng Lập pháp, nên vào tháng Ba năm 1764, ông thúc đẩy thông qua một chuỗi gồm 26 nghị quyết, “một sợ dây đeo cổ kết bằng những quyết tâm” theo cách ông gọi chúng, kêu gọi chấm dứt sự cai trị của giới nghiệp chủ. Ông viết, các nghiệp chủ đã hành xử theo lối “bạo ngược và phi nhân tính”. Họ đã lấy mối đe dọa về người Anh-điêng “để tước đoạt các đặc quyền của dân chúng... bằng lưỡi dao của lũ man rợ nơi cổ họng”. Nghị quyết cuối cùng tuyên bố Hội đồng Lập pháp sẽ lấy ý kiến của người dân về việc liệu có nên gửi một “thỉnh nguyện thư khiêm nhường” tới đức vua, “xin người hãy ân cần vui lòng đặt con dân của tỉnh bang này dưới sự che chở và cai quản trực tiếp của mình”.
Kết quả là một cuộc trưng cầu về việc lật đổ giới nghiệp chủ. Franklin in nhiều bản tiếng Anh và tiếng Đức, thậm chí đặt ra một phiên bản với chút ít khác biệt dành riêng cho cộng đồng Quaker. Thế nhưng, những người ủng hộ ông chỉ có thể tập hợp được 3.500 chữ ký. Rốt cuộc, trong cuộc trưng cầu của riêng họ, phe phản đối sự thay đổi đã thu được 15.000 chữ ký.
Một lần nữa, cuộc chiến bằng những tập sách nhỏ lại nổ ra. Bài viết của Franklin “Vài suy nghĩ điềm tĩnh về tình hình hiện nay” thực tế lại nóng hơn ngụ ý của tiêu đề. Ông không đủ bình thản, ít nhất là trong lúc này, để vận dụng các công cụ trước đây - hài hước, châm biếm, sự gián tiếp và tinh quái nhẹ nhàng trong lập luận. Tập sách của ông công kích giới nghiệp chủ về sự khúm núm trước Những cậu bé Paxton và sự bất lực trong việc điều hành xứ thuộc địa. “Đáng mừng là tôn giáo không liên quan tới những khác biệt hiện nay giữa chúng ta, dù đau đớn thay, người ta cố lôi nó vào cuộc cãi vã”, ông viết - và điều đó không hoàn toàn đúng. Ông tiếp tục cho rằng, trong mọi trường hợp, nhà vua mới là người có khả năng bảo vệ các quyền tự do tôn giáo nhất chứ không phải giới nghiệp chủ.
Người mới nhất phản đối Franklin là John Dickinson, một luật sư trẻ, con rể của một tín hữu Quaker có sức ảnh hưởng, Isaac Norris. Dickinson vốn là bạn với Franklin và không phải người hâm mộ giới nghiệp chủ song anh lập luận một cách duy lý rằng không nên vứt bỏ dễ dàng sự che chở mà hiến chương của nhà Penn đem lại và cũng không nên mặc định các bộ trưởng của hoàng gia sẽ tiến bộ hơn các nghiệp chủ. Norris không muốn mắc kẹt giữa hai làn đạn nên cáo bệnh, từ chức phát ngôn viên Hội đồng Lập pháp vào tháng Năm. Franklin được bầu vào vị trí này.
Franklin cũng phải đối đầu với một đối thủ có tuổi và cay nghiệt hơn: Chánh án William Allen. Họ từng là bạn, song vì Allen hăng hái ủng hộ giới nghiệp chủ nên tình bạn của hai người đã tan vỡ đầy cay đắng từ rất lâu trước đó. Vào tháng Tám, khi Allen trở về sau chuyến đi sang Anh, Franklin đến thăm ông như một khúc dạo đầu. Trước mặt quan khách, Allen lên án việc Franklin công kích giới nghiệp chủ. Theo ông, việc chuyển đổi sang nền cai trị của hoàng gia sẽ tiêu tốn của Pennsylvania 100.000 bảng Anh; và nó sẽ chẳng nhận được sự hỗ trợ nào từ London.
Vì cuộc bầu cử Hội đồng Lập pháp diễn ra vào ngày mùng 1 tháng 10 đang tới gần, cuộc chiến bằng những tập sách nhỏ trở nên tàn bạo khi kẻ thù của Franklin tìm cách ngăn chặn nỗ lực tái cử của ông. Một bài viết vô danh có tiêu đề “Nước sốt cho một con Ngỗng cái cũng là Nước sốt cho một con Ngỗng đực” đã bới lên tất cả mọi cáo buộc có thể để chống lại Franklin. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc con trai ông, William, là con hoang của một “con đĩ nhà bếp” có tên Barbara. Nó cũng đăng tải lại (và thêm thắt chút ít) các đoạn văn chống người Đức mà Franklin đã viết trước đây. Và nó cáo buộc một cách sai trái nhưng om sòm rằng ông đã mua các bằng cấp danh dự, tìm kiếm sự bổ nhiệm của hoàng gia cho bản thân và ăn cắp các thí nghiệm điện từ các nhà khoa học khác.
Một biểu ngữ khác còn in hình ông như một kẻ dâm dục dễ bị kích động:
Franklin, dù đã vụng về vì tuổi tác,
Chẳng thiết gì để kích thích bản thân,
Nhưng luôn sẵn sàng lâm trận,
Khi những cánh tay tươi trẻ gọi mời.12
Các chiến dịch tranh cử hiện đại thường bị phê phán vì tiêu cực và truyền thông ngày nay bị đả kích là thô bỉ. Nhưng những bài báo công kích dù hung hăng nhất ngày nay thật nhợt nhạt so với trận bom tờ rơi trong cuộc bầu cử Hội đồng Lập pháp năm 1764. Pennsylvania đã vượt qua nó, cũng như Franklin. Và, nền dân chủ Mỹ học được rằng, nó có thể vượt lên trong một bầu không khí tự do biểu đạt không bị kiềm tỏa và thậm chí vô độ. Cuộc bầu cử năm 1764 chỉ rõ nền dân chủ Mỹ được xây dựng trên nền tảng của tự do ngôn luận không giới hạn. Suốt nhiều thế kỷ sau đó, các quốc gia đã vượt lên là những quốc gia, giống như Mỹ, cởi mở nhất với những âm thanh không êm dịu và thậm chí đôi lúc là cả sự lộn xộn đến từ những cuộc tranh luận nảy lửa.
Ngày bầu cử cũng điên cuồng như cuộc chiến tờ rơi. Từng đám cử tri chắn lối các bậc thang của Tòa nhà Quốc hội suốt ngày mùng 1 tháng 10 và dòng người vẫn kéo dài cho đến quá nửa đêm. Những người ủng hộ Franklin yêu cầu các hòm phiếu được mở cho tới tận bình minh để họ đánh thức bất cứ ai mà họ phát hiện vẫn chưa đi bầu. Đây là một lỗi chiến thuật. Phe nghiệp chủ đã điều nhân công đến Germantown để tập hợp nhiều người ủng hộ hơn thế nữa. Kết quả là, Franklin đứng thứ 13 trên tổng số 14 ứng cử viên tranh đua cho tám ghế ở Philadelphia.
Tuy nhiên, phe của ông vẫn giữ quyền kiểm soát Hội đồng Lập pháp. Vì thế Hội đồng đã nhanh chóng bỏ phiếu đồng ý gửi đến các bộ trưởng tại Anh quốc thỉnh nguyện thư chống lại giới nghiệp chủ.
Franklin nhận được một phần thưởng an ủi thậm chí còn có ý nghĩa hơn cả chiến thắng: Hội đồng đã bỏ phiếu với tỷ lệ 19-11 đồng ý cử ông quay trở lại Anh làm người đại diện trình thư.
Điều này lại khơi nguồn một loạt những tập sách nhỏ mới. Dickinson tuyên bố rằng Franklin sẽ bị vô hiệu hóa vì ông bị nhà Penn ghét bỏ, bị các bộ trưởng của nhà vua khinh bỉ và “cực kỳ bất đồng với một số rất lớn cư dân có uy tín và nghiêm túc” ở Pennsylvania. Chánh án Allen gọi ông là “cái tên khả ố và ít được yêu mến nhất trong tỉnh bang... luôn mê sảng nói những lời giận dữ, thất vọng và hiểm độc”. Song giờ đây khi sắp sửa trở lại Anh, sự bình tĩnh cũng bắt đầu trở lại với ông. “Bây giờ tôi đang chuẩn bị xa rời (có lẽ là lần xa rời sau cùng) đất nước mà tôi yêu quý”, ông viết trong lời hồi đáp. “Tôi chúc các bằng hữu mọi sự tốt lành và tha thứ cho những kẻ thù ghét tôi.”13
Một lần nữa, vợ ông từ chối theo ông sang Anh và bà cũng không đồng ý cho ông dẫn con gái đi cùng. Vậy thì tại sao ông lại sẵn sàng xa nhà một lần nữa? Một phần vì ông nhớ London; còn một phần vì ông cảm thấy trầm uất và ngột ngạt khi ở Philadelphia.
Ngoài ra, còn một nguyên nhân cao cả hơn. Franklin đã hình thành một tầm nhìn về tương lai của nước Mỹ, xa hơn việc giành Pennsylvania khỏi tay các nghiệp chủ. Nó liên quan đến sự thống nhất cao hơn giữa các thuộc địa, cùng với những điều ông viết trong Kế hoạch Albany, và mối quan hệ bình đẳng hơn giữa các thuộc địa và mẫu quốc như một phần của Đế chế Anh vĩ đại. Ông đề xuất rằng, điều này có thể bao gồm việc có đại diện trong Quốc hội. Đáp lại các báo cáo cho biết nước Anh có thể đề ra các sắc thuế đánh lên các thuộc địa, ông viết cho Richard Jackson - nhân vật được ông lưu lại London làm người đại diện khác cho Pennsylvania - gợi ý cách đối đáp: “Nếu các vị chọn đánh thuế chúng tôi, hãy để chúng tôi có chân trong cơ quan lập pháp và để chúng ta cùng là một dân tộc.”
Khi ông chuẩn bị sang Anh vào tháng 11 năm 1764, Franklin viết một lá thư cho con gái. Nó chứa đựng những lời răn của người cha, mong cô “vâng lời và mềm mỏng với hiền mẫu” và những lời khuyên điển hình của Franklin, chẳng hạn “đạt được các thành tựu hữu ích ở bộ môn số học và kế toán”. Song nó còn kèm theo một lưu ý nghiêm trọng hơn. “Cha có nhiều kẻ thù”, ông nói. “Mọi khinh suất nhỏ nhất của con sẽ bị phóng đại thành tội ác để họ có cớ gây thương tổn và đau đớn cho cha. Bởi thế, con càng cần phải cực kỹ thận trọng trong khi hành xử để những kẻ có ác tâm không có cách gì lợi dụng.”
Ông cũng có nhiều người ủng hộ. Hơn 300 người hoan hô khi ông lên tàu rời Philadelphia. Đại bác nhả đạn để tạm biệt và một khúc ca được hát vang theo giai điệu của bản “Chúa phù hộ Đức vua”* với một đoạn kết mới: “Franklin, chúng tôi gắn chặt với người / Chúa phù hộ tất cả chúng ta”. Franklin nói với một số bạn bè rằng ông dự định sẽ chỉ đi xa vài tháng và nói với một số người khác rằng có thể ông sẽ không bao giờ trở về. Không rõ đâu là dự đoán mà ông thật sự tin tưởng, song cả hai đều không trở thành sự thật.14