Chuong 10 MỒI NHỬ-London, 1765-1770-MỘT GIA ĐÌNH MỞ RỘNG
Vì không được báo trước nên bà Stevenson không có nhà khi Franklin có mặt ở ngôi nhà cũ của ông trên Phố Craven, còn cô hầu gái thì không biết tìm bà ở đâu. “Vậy thì ta sẽ ngồi đây và đợi bà ấy về”, Franklin nhớ lại trong một lá thư gửi cho con gái bà, Polly. “Bà ấy vô cùng sửng sốt khi gặp ta trong phòng khách nhà mình.” Có lẽ bà bất ngờ, song đã có sự chuẩn bị trước. Phòng ốc của ông luôn được để trống vì bằng hữu và gia đình thứ hai của ông ở Anh không hề nghi ngờ việc một ngày ông sẽ trở về.1
Ông khiến người vợ thật của mình, và có lẽ cả chính bản thân ông, tin rằng đây sẽ chỉ là một chuyến ghé thăm ngắn ngủi. Ông viết cho Deborah ngay sau khi tới nơi và nói ông muốn trở về ngay cuối mùa hè. “Anh hy vọng chỉ sau ít tháng, anh sẽ hoàn tất mọi công việc ở đây như sở nguyện, rồi anh sẽ lại trở về làm kẻ hưu trí và tĩnh dưỡng bên gia đình nhỏ của mình.” Bà đã từng nghe câu nói này nhiều lần. Sự thật là ông đã không bao giờ gặp lại bà lần nữa. Bất chấp những lời cầu xin và sức khỏe giảm sút của vợ, ông vẫn đeo đuổi sứ mệnh càng lúc càng vô ích thêm mười năm nữa cho đến tận đêm trước của Cách mạng.
Sứ mệnh đó đòi hỏi các động tác cân bằng phức tạp, thử thách tất cả mưu mẹo của Franklin. Một mặt, ông vẫn trung thành với tư tưởng bảo hoàng, muốn đứng về phía các bộ trưởng của nhà vua để có thể giành Pennsylvania khỏi tay gia tộc Penn đáng căm ghét. Ông cũng có những động cơ cá nhân: giữ vững vị trí giám đốc bưu điện, thậm chí có thể được bổ nhiệm chức cao hơn nữa và theo đuổi giấc mơ được hưởng đất phong. Mặt khác, ngay khi thấy rõ chính phủ Anh quốc chẳng mấy cảm thông với quyền lợi của xứ thuộc địa, ông lại phải bươn bả đề tái lập danh tiếng của mình như một người Mỹ yêu nước.2
Cùng lúc đó, Franklin có được niềm vui tái lập cuộc sống mà ông yêu thích ở London. Nhà vật lý học xuất sắc Ngài John Pringle đã trở thành bạn chí thân của ông. Họ chơi cờ, lần lượt ghé các câu lạc bộ ở những quán cà phê quen thuộc và chẳng bao lâu hình thành thói quen du lịch mùa hè cùng nhau. Nhà viết tiểu sử Samuel Johnson* vĩ đại James Boswell cũng là một người quen khác. Sau khi đến dự một cuộc cờ của họ, Boswell nhận xét trên tờ báo của mình rằng, Pringle là người “đặc biệt khó tính”, còn Franklin thì lại luôn “tươi vui và khôi hài”. Franklin và bà Stevenson nối lại mối quan hệ thân thiết trong nhà. Riêng Polly, khi đó vẫn đang sống với một người dì ở vùng quê, vẫn là đối tượng để Franklin thể hiện tình cảm của người cha và sự bông đùa về trí tuệ.
Ông chọn Polly như đối tượng tiềm năng đầu tiên cải sang dùng bảng chữ cái ngữ âm mới do ông phát minh ra trong cuộc tìm kiếm của một gã Đông-ki-sốt nhằm đơn giản hóa việc đánh vần tiếng Anh. Thật dễ hiểu tại sao nó thất bại. Kansider chis alfabet, and giv mi instanses af syts Inlis uyrds and saunds az iu mee hink kannat perfektlyi bi eksprest byi it*- đó là một trong những câu có phần dễ hiểu hơn mà ông viết ra. Sau một thư hồi âm dài gần như không thể dịch nổi, trong đó cô hờ hững nói rằng bảng chữ cái “myit bi uv syrvis”, Polly lạc lối trở lại dùng thứ tiếng Anh chuẩn mực để kết thư: “Với sự dễ dàng và chân thành, con có thể tự ký tên theo lối cũ...”
Việc Polly nuông chiều sự ảo tưởng về ngôn ngữ của ông một cách trung thành như xưa nay là một thước đo về mối ràng buộc về trí tuệ giữa hai người. Cuộc cải tổ về ngữ âm của Franklin ít thể hiện sự đề cao tính hữu dụng như thường thấy ở ông và nó đưa niềm đam mê cải biến xã hội của ông đi đến chỗ cực đoan. Nó đòi hỏi phải sáng tạo thêm sáu mẫu tự mới không có trong phông in và bỏ đi sáu mẫu tự mà Franklin cho là thừa thãi. Đáp lại nhiều phản đối của Polly, ông nhất định cho rằng, nỗi khó khăn khi học cách đánh vần mới có thể vượt qua được nếu ta hiểu được logic đằng sau nó. Ông cũng gạt đi mối lo ngại của cô rằng từ ngữ sẽ bị tách khỏi nguồn gốc từ nguyên của chúng và mất đi sức sống. Song chẳng bao lâu ông đã từ bỏ nỗ lực. Nhiều năm sau, ông chuyển giao kế hoạch này cho Noah Webster. Nhà từ ngữ học nổi tiếng này đã in lại các lá thư mà Franklin gửi tới Polly trong cuốn sách viết năm 1789, Luận văn về Ngôn ngữ Anh (được ông dành tặng cho Franklin) và gọi đó là một kế hoạch “thú vị sâu sắc” song cũng nói thêm rằng: “Liệu nó có bị đánh bại bởi sự xấc xược và thiên kiến hay không vẫn thuộc sự định đoạt của những người đồng hương của tôi.”3
Franklin đưa Temple - cháu trai, đứa con ngoài giá thú của đứa con ngoài giá thú của ông - ra khỏi vòng bí mật và bước vào quỹ đạo gia đình kỳ lạ trên Phố Craven. Mối quan hệ của họ thật lạ lùng, ngay cả theo chuẩn mực của nhà Franklin. Cậu bé vừa lên bốn khi Franklin nối lại liên lạc. Trước đó, cậu được một loạt những người phụ nữ nuôi nấng. Họ gửi hóa đơn chi tiết về các chi phí chăm sóc cậu (cắt tóc, tiêm chủng, quần áo) cho bà Stevenson và bà nhận lại khoản bồi hoàn từ William ở New Jersey. Trong tất cả thư từ gửi cho Deborah khi đó, với đầy ắp thông tin chi tiết về nhiều bạn bè và người quen, Franklin không bao giờ nhắc tới Temple. Cho đến khi cậu bé lên 9, William mới hỏi một cách khá hèn nhát rằng liệu anh có thể đưa con đến chung sống ở Mỹ. “Nó có thể lấy một cái tên phù hợp và sẽ được giới thiệu là con trai của một người họ hàng nghèo. Con sẽ đứng ra nhận làm cha đỡ đầu và dự định nuôi nấng nó như con đẻ.”
Thay vì để Temple theo cha, Franklin đã dang tay che chở cậu, điều này báo trước một cuộc tranh đấu để giành sự phục tùng của cậu bé về sau. Trên Phố Craven, cậu chỉ được biết đến với cái tên William Temple và Franklin ghi danh cho cậu theo học ở ngôi trường do người anh rể của William Strahan điều hành. Strahan một nhà giáo dục kỳ dị và ông chia sẻ niềm đam mê cách tân lối đánh vần với Franklin. Mặc dù Temple đã trở thành một phần của gia đình Stevenson mở rộng, họ giả vờ (ít nhất trước mặt mọi người) không biết lai lịch chính xác của cậu.
(Đến tận cuối năm 1774, trong một lá thư kể về tiệc cưới trong đó cậu là phù rể, Polly vẫn nhắc đến cậu như sau: “Anh Temple, một quý ông trẻ đang theo học tại đây dưới sự bảo trợ của Tiến sĩ Franklin.” Mãi cho đến tận khi Franklin và cháu nội mình trở về Mỹ và Temple đã nhận lại họ thật của mình, Polly mới thú nhận rằng cô từ lâu đã hoài nghi giữa họ có một mối quan hệ nào đó. “Con hân hoan biết rằng cậu ấy đã được thêm họ Franklin [vào tên mình], việc mà con luôn nghĩ cậu ấy có quyền như vậy.”)4
ĐẠO LUẬT TEM 1765Ở Philadelphia, Franklin vẫn được xem như một “vị quan hộ dân” và là người bảo vệ quyền lợi của họ. Khi tin ông đã đến London an toàn về tới đây vào tháng 3 năm 1765, chuông khánh đã ngân lên “gần như suốt cả đêm”, những người ủng hộ ông “chạy quanh như những người điên” và thật nhiều “rượu lễ” được uống cạn để chúc ông mạnh khỏe. Song niềm hân hoan của họ chẳng được bao lâu. Franklin sắp sửa vướng vào một cuộc tranh luận về Đạo luật Tem - nó đòi hỏi dán tem thuế trên mọi tờ báo, sách, niên giám, văn bản pháp luật và bộ bài.5
Đây là lần đầu tiên Quốc hội đề xuất một sắc thuế nội địa lớn đánh lên các thuộc địa. Franklin tin rằng Quốc hội có quyền đánh các loại thuế hướng ngoại, chẳng hạn thuế quan nhập khẩu, để điều tiết thương mại. Nhưng ông cho rằng, việc Quốc hội áp một sắc thuế nội địa đối với những người dân không có đại diện trong cơ quan lập pháp là điều không khôn ngoan, thậm chí có thể vi hiến. Tuy vậy, ông không gay gắt phản đối đề xuất về Đạo luật Tem mà cố gắng đóng vai người hòa giải.
Vào tháng 2 năm 1765, ông và một nhóm nhỏ các vị đại diện của xứ thuộc địa đã hội kiến Thủ tướng George Grenville - người lý giải rằng phí tổn lớn do những cuộc chiến với người Anh-điêng khiến việc thu thuế các thuộc địa trở nên cần thiết. Đâu là cách đánh thuế tốt hơn? Như Franklin lập luận, việc đó nên được tiến hành “một cách hợp hiến thông thường”, nghĩa là qua một chỉ dụ của nhà vua gửi tới các hội đồng lập pháp ở các thuộc địa. Chỉ các hội đồng này mới có quyền thu thuế của cư dân trong địa hạt. Grenville đặt câu hỏi liệu Franklin và các vị đại diện đồng nhiệm có thể cam kết rằng các thuộc địa sẽ đồng ý với một mức thích đáng và làm cách nào đề phân bổ nó? Franklin và những người khác thú thật họ không thể đưa ra bất cứ cam kết nào.
Vài ngày sau đó, Franklin đề xuất một giải pháp thay thế khác. Nó bắt nguồn từ sở nguyện bấy lâu nay của ông - vừa là một lý thuyết gia kinh tế phức tạp vừa là một thợ in - muốn có nhiều tiền giấy lưu thông ở Mỹ hơn. Ông đề nghị Quốc hội cho phép phát hành các tín phiếu mới mà người vay phải trả lãi suất 6%. Các tín phiếu này sẽ đóng vai trò như tiền tệ hợp pháp và được lưu thông như tiền tệ, do đó làm tăng cung tiền ở Mỹ và nước Anh sẽ thu lãi suất thay vì đánh thuế nội địa trực tiếp. “Nó sẽ vận hành như một sắc thuế chung đánh lên các thuộc địa, song nó không gây khó chịu”, Franklin nói. “Người giàu, những người dùng nhiều tiền nhất, trên thực tế sẽ nộp thuế cao nhất.” Grenville, theo lời Franklin, “u mê với kế hoạch về tem thuế của ông ta”, nên đã gạt bỏ ý tưởng này. Đây có lẽ là điều may mắn cho Franklin vì sau này ông được biết rằng chính bạn bè của ông ở Philadelphia cũng không ưa ý tưởng về tín phiếu.6
Khi Đạo luật được thông qua vào tháng Ba, Franklin đã mắc sai lầm khi chọn thái độ thực dụng. Ông đề cử bổ nhiệm John Hughes, người bạn tốt của ông, làm đốc thuế ở Pennsylvania. “Nhiệm vụ thực thi này có thề khiến ông không được yêu mến trong một thời gian, nhưng chỉ cần cư xử hòa nhà và điềm tĩnh, nhất là trong mọi hoàn cảnh thuộc quyền mình, ông đều làm việc có lợi cho dân chúng thì chắc chắn sẽ xoa dịu họ rất nhiều” - Franklin lập luận một cách sai lầm trong lá thư gửi Hughes. “Trong khi đó, sự trung thành với nhà vua và tôn trọng chính quyền của đất nước này sẽ luôn là đường hướng khôn ngoan nhất cho hai ta, bất kể quần chúng có điên rồ thế nào.” Trong khi khao khát duy trì mối quan hệ khuôn phép với các bộ trưởng của hoàng gia, Franklin đã đánh giá thấp sự điên rồ của quần chúng tại quê nhà.
Trái lại, Thomas Penn xử lý tình huống rất khéo léo. Ông ta từ chối đề cử ứng viên cho vị trí thu thuế, vì cho là nếu làm vậy “dân chúng có thể tưởng chúng ta đồng tình với việc đánh sắc thuế này lên đầu họ.” John Dickinson - kẻ thù trẻ tuổi của Franklin và là thủ lĩnh của phe nghiệp chủ trong Hội đồng Lập pháp - đã soạn một bản tuyên bố lên án Đạo luật Tem. Nó được truyền đi với tiếng vang lớn.7
Đây là một trong những sai lầm trong xét đoán chính trị tồi tệ nhất của Franklin. Sự căm ghét nhà Penn đã che mắt ông trước sự thật rằng đa số người dân Pennsylvania còn căm ghét các sắc thuế do London áp đặt hơn thế. “Tôi đã làm mọi bước trong quyền hạn của mình để ngăn cản việc thông qua Đạo luật Tem song trận thủy triều chống lại chúng ta quá mạnh”, ông giãi bày với một người bạn ở Philadelphia, Charles Thomson. Điều đó không hề thuyết phục. Sau đó ông lại tiếp tục biện hộ cho chủ nghĩa thực dụng: “Nếu có thể thì chúng ta đều muốn ngăn mặt trời lặn. Nhưng chúng ta không thể. Bạn của tôi ơi, chính bởi nó vẫn phải lặn và sẽ còn lâu nó mới lại mọc lên, vậy thì chúng ta hãy tranh thủ ngủ một giấc thật ngon. Và chúng ta cũng có thể thắp nến lên.”
Khi lá thư này được công bố, nó trở thành một thảm họa về quan hệ công chúng đối với Franklin. Thomson đã đáp lại rằng, người Philadelphia sẵn sàng đề khởi “những việc làm của bóng tối” thay vì thắp lên vài ngọn nến. Vào tháng Chín, nguy cơ xảy ra bạo động trở nên rõ rệt. “Dân chúng đủ mọi tầng lớp như thế đã mắc chứng điên cuồng hay mất trí, khiến tôi thiết tưởng vài mạng người sẽ mất trước khi ngọn lửa được dập tắt” - Hughes kinh hãi biên thư cho người đã giành về cho ông một công việc giờ đây trở nên không hề đáng thèm muốn.8
Cộng sự nghề in của Franklin, David Hall, cũng gửi lời cảnh báo tương tự. “Tinh thần của người dân vô cùng dữ dội chống lại tất cả mọi người mà họ cho rằng có mối liên can dù nhỏ nhất với luật Tem”, ông viết. Các cư dân Philadelphia giận dữ “in hằn ý nghĩ rằng chính ngài đã nhúng tay vào việc soạn thảo nó - điều này mang lại cho ngài không ít kẻ thù”. Hall nói thêm rằng, ông lo ngại cho sự an nguy của Franklin nếu định trở về. Một tranh biếm họa được in ở Philadelphia vẽ hình một con quỷ đang thì thầm vào tai Franklin: “Ben, ngươi sẽ là sứ giả cho tất cả lãnh địa của ta.”9
Sự điên cuồng lên tới cao điểm vào một buổi tối cuối tháng 9 năm 1765 khi một đám đông tụ tập tại một quán cà phê ở Philadelphia. Các thủ lĩnh của toán người buộc tội Franklin vì đã ủng hộ Đạo luật Tem và họ sẽ cho san phẳng ngôi nhà mới của ông cùng nhà cửa của Hughes và những người ủng hộ Franklin khác. “Nếu tôi sống đến sáng mai, tôi sẽ tường thuật cụ thể hơn cho ông”, Hughes đã viết trong một tờ nhật ký mà về sau ông gửi Franklin.
Deborah gửi con gái đến New Jersey vì lý do an toàn. Nhưng vốn là người kiên quyết không rời nhà, bà từ chối đi lánh nạn. Người em họ Josiah Davenport đã đưa hơn hai chục bạn bè tới để bảo vệ bà. Lời kể của bà về đêm đó dù bi thảm nhưng cũng là một minh chứng cho sức mạnh của bà. Bà viết trong bức thư gửi chồng:
Đến đêm, em nói rằng cậu ta [người em họ Davenport] nên kiếm một hoặc hai khẩu súng vì nhà ta không có khẩu nào. Em gọi anh trai em đến và mang theo súng. Đồng thời, bọn em cũng biến một phòng làm nơi chứa vũ khí. Em sắp đặt một kiểu phòng thủ ở trên lầu theo cách mà em tự xoay sở được. Khi mọi người khuyên em rời nhà, em nói rằng em tin chắc anh không bao giờ làm điều gì gây tổn thương cho bất cứ ai và em cũng chưa từng xúc phạm ai bao giờ. Thế nên em sẽ không nhúc nhích.
Vợ và nhà của Franklin được bảo toàn nhờ một nhóm người ủng hộ tự xưng là Những cậu bé cây sồi trắng đã tập hợp lực lượng để chống lại đám người kia. Họ tuyên bố, nếu nhà của Franklin bị phá hoại, thì nhà của tất cả những kẻ có liên quan cũng sẽ bị như vậy. Cuối cùng, đám đông giải tán. “Anh rất tôn vinh tinh thần dũng cảm mà em thể hiện”, ông viết cho Deborah sau khi nghe tin về thử thách của bà. “Người đàn bà xứng đáng có một ngôi nhà đẹp là người quyết tâm bảo vệ nó.”10
Cuộc khủng hoảng Đạo luật Tem khơi nguồn cho sự chuyển biến căn bản trong các xung đột ở Mỹ. Một nhóm thủ lĩnh thuộc địa mới - những người phản đối việc phục tùng nước Anh - đang dần lộ diện, đặc biệt là ở Virginia và Massachusetts. Xung đột giữa sự áp chế của hoàng gia và quyền lợi của thuộc địa đã nổ ra trên nhiều mặt trận, dù cho đến tận năm 1775, đa số người Mỹ vẫn ít có tâm lý ly khai và dân tộc chủ nghĩa. Chàng Patrick Henry trẻ tuổi, khi đó 29, đã đứng trước Hạ viện Virginia để lên án việc đánh thuế không thông qua đại diện. “Caesar còn có Brutus, Charles Đại đế có Cromwell và George Đệ tam...” Anh bị ngắt lời bởi những tiếng hô “Phản rồi!” trước khi có thể kết thúc, song rõ ràng một số cư dân thuộc địa đã bắt đầu cực kỳ nghiêm túc. Anh sớm trở thành đồng minh của Thomas Jefferson. Ở Boston, một nhóm mệnh danh Những người con của Tự do đã tụ họp tại một xưởng rượu và tấn công nhà của tay ủy viên phụ trách thu thuế và Thống đốc Massachusetts, Thomas Hutchinson. Trong số những nhà ái quốc nổi lên lúc này - những người cuối cùng đã dấy binh làm phản - có: một thương nhân trẻ tên là John Hancock, một người kích động đấu tranh tính nóng như lửa tên là Samuel Adams và em họ của ông, luật sư khó tính John Adams.
Kể từ Hội nghị Albany năm 1754, đây là lần đầu tiên các thủ lĩnh từ các vùng khác nhau của Mỹ lại được kích thích để tư duy như một đơn vị tập thể. Một hội nghị của chín thuộc địa, trong đó có Pennsylvania, được tổ chức ở New York vào tháng Mười. Nó không chỉ đòi hỏi việc bãi bỏ Đạo luật Tem mà còn phủ nhận quyền áp thuế nội địa lên các thuộc địa của Quốc hội. Khẩu hiệu mà họ chọn là câu mà Franklin lấy làm tiêu đề cho một bức biếm họa từ một thập kỷ trước khi ông tìm cách kêu gọi sự thống nhất tại Hội nghị Albany: “Tham gia hay là Chết.”
Từ London xa xôi, Franklin chậm chạp dự phần vào cơn lên đồng. “Sự dại dột của Hội đồng Lập pháp Virginia thật đáng kinh ngạc”, ông viết cho Hughes. “Tuy nhiên, tôi hy vọng Hội đồng của chúng vẫn nằm trong ranh giới của sự thận trọng và chừng mực.” Đến lúc này, ông vẫn thông cảm hơn với Hutchinson, Thống đốc Massachusetts - người về sau trở thành một kẻ thù lớn. Cả hai đều điềm đạm, kinh sợ thứ luật lệ của đám đông, và lần này đều bị nó đe dọa. “Mười năm trước, khi ngài và tôi ở Albany”, Hutchinson viết cho ông, “chúng ta đâu có đề xuất ra liên minh để nhằm vào những mục đích thế này.”11
Sự chừng mực của Franklin một phần là do khí chất, tình yêu với nước Anh và giấc mơ về một đế chế hài hòa. Về bản tính, ông thiên về một nhà điều hành trơn tru hơn là nhà cách mạng. Ông thích luận bàn dí dỏm về rượu Madeira, ghét sự lộn xộn và hành vi đám đông. Thịt quý, rượu ngon không chỉ khiến ông mắc chứng bệnh gout mà còn che mờ cảnh oán thù chất ngất nơi quê nhà. Và có lẽ quan trọng hơn cả là ông đang thực hiện nỗ lực cuối cùng nhằm biến Pennsylvania thành một thuộc địa hoàng gia thay vì thuộc địa nghiệp chủ.
Đây đã luôn là một nỗ lực ít có cơ hội thành công, và nay còn hơn thế nữa bởi vì cuộc khủng hoảng về Đạo luật Tem khiến cho sự cai trị của hoàng gia ít được ưa chuộng ở Pennsylvania và khiến cho những lời biện hộ của thuộc địa ít được ưa chuộng ở London. Tháng 11 năm 1765, một năm sau khi Franklin đến nơi, đúng lúc ông đang chịu sự tổn hại về uy tín do sai lầm liên quan tới Đạo luật Tem, Cơ mật Viện đã chính thức trì hoãn thụ lý thỉnh nguyện thư chống nhà Penn mà ông mang đến. Ban đầu Franklin tin (hoặc ít nhất tuyên bố một cách công khai) rằng đó chỉ là một bước lùi tạm thời. Song, ông sớm nhận ra Thomas Penn đã đúng khi viết thư cho cháu trai mình, Thống đốc John Penn, rằng động thái này đồng nghĩa vấn đề sẽ chết “vĩnh viễn”.12
VÒNG XOÁYVào cuối năm 1765, Franklin đối diện với một trong những thử thách lớn trong biên niên sử kiểm soát thiệt hại chính trị: uy tín của một người luôn bảo vệ quyền lợi cho thuộc địa giờ bầm dập vì thái độ mập mờ của ông trong vụ Đạo luật Tem. Ông bắt đầu một chiến dịch viết thư. Với cộng sự David Hall và các bạn bè khác, ông kiên quyết chối cãi việc mình từng ủng hộ đạo luật này. Ông cũng nhờ một số tín hữu Quaker có ảnh hưởng ở London viết thư thay mặt ông. “Tôi có thể yên tâm mà xác quyết rằng Benjamin Franklin đã làm mọi việc trong khả năng của ông để ngăn cản việc thông qua đạo luật này”, John Fothergill viết cho một người bạn ở Philadelphia. “Ông luôn khẳng định các quyền lợi và đặc ân của xứ Mỹ bằng sự quả quyết tối đa.” Hall đăng lại lá thư này trên tờ Nhật báo Pennsylvania.
Franklin cảm thấy cách tốt nhất để thúc đẩy sự bãi bỏ đạo luật là để người Mỹ tẩy chay hàng nhập khẩu từ Anh quốc và hạn chế các giao dịch đòi hỏi phải sử dụng tem thuế: nó phù hợp với tính căn cơ và tự lực của một người vốn mang thiên hướng của Richard Nghèo Khổ như ông. Cách tiếp cận này cũng sẽ lôi kéo các thương nhân và nhà sản xuất người Anh chịu tổn thất vì thiệt hại trong xuất khẩu cùng ủng hộ bãi bỏ đạo luật. Viết ẩn danh dưới cái tên “Dệt Tại Nhà” trên một tờ báo Anh, ông chế nhạo tư tưởng cho rằng người Mỹ không thể sống nổi nếu không có trà nhập khẩu từ Anh. Nếu cần thiết, họ có thể chế trà từ ngô. “Những bắp ngô xanh mà sao lên thì quả là tinh tế ngoài sức mô tả.”13
Hai tiểu luận trào phúng của Franklin ký tên Dệt Tại Nhà nằm trong số ít nhất 13 đòn công kích Đạo luật Tem mà ông xuất bản trong vòng ba tháng. Trong một tác phẩm hư cấu ký tên “Một Lữ khách”, ông tuyên bố người Mỹ không cần len của Anh bởi vì “đuôi của lũ cừu ở Mỹ đã nặng những len đến mức mỗi con cần một cỗ xe hay một toa xe đặt trên bốn bánh xe nhỏ để đỡ và giữ cho nó khỏi kéo lê trên mặt đất”. Viết dưới bút danh “Thái Bình Dương thứ Hai”, ông đã vận dụng chiến thuật cũ - châm biếm sâu cay bằng cách giả vờ ủng hộ ý tưởng rằng cần áp đặt kỷ luật quân đội lên các thuộc địa. Sẽ chỉ mất năm vạn lính Anh với chi phí 12 triệu bảng mỗi năm. “Có thể người ta sẽ phản đối rằng với việc phá hủy thuộc địa của chúng ta, giết hại một nửa số dân và đuổi số còn lại lên núi, chúng ta có thể tự tay cướp đi của chúng ta các đơn hàng của họ đặt với nhà sản xuất của chúng ta. Nhưng một phút suy xét sẽ khiến chúng ta thỏa mãn ở chỗ, bởi lẽ chúng ta đã mất quá nhiều thương mại ở châu Âu, chỉ có nhu cầu ở Mỹ là giữ giá và gần đây đẩy giá cả của các nhà sản xuất lên nhiều. Vì thề việc chặn đứng nhu cầu đó lại sẽ là một lợi thế cho tất cả chúng ta: sau đó chúng ta có thể mua chính hàng hóa của mình với giá rẻ hơn.” Ông nhận xét nhược điểm duy nhất với nước Anh là việc “đám đông nghèo khổ của chúng ta có thể chết đói vì không có việc làm.”14
(Như thường xuyên được ghi nhận, Franklin có thói quen viết theo lối nặc danh hoặc sử dụng tên giả, bắt đầu từ khi còn là một thiếu niên với bút danh Im lặng và Làm tốt, sau đó là Người Bận rộn, Alice Addertongue, Richard Nghèo khổ, Dệt Tại Nhà và các tên khác. Đôi lúc, ông cố gắng thực sự ẩn mình; những lúc khác ông chỉ mang một chiếc mặt nạ mỏng. Thói quen này không hề bất thường, trái lại nó khá phổ biến trên văn đàn thế kỷ 18 - trong đó có những anh hùng của Franklin như Addison, Steele và Defoe. “Chưa đầy một phần mười số sách vở có giá trị được xuất bản bằng tên thật của tác giả”, Addison từng tuyên bố với chút ít phóng đại. Vào thời đó, viết nặc danh được xem là khéo léo hơn, ít thô tục hơn và ít có nguy cơ dẫn tới bị buộc tội phỉ báng hay nổi loạn. Các quý ông có khi nghĩ rằng việc quý danh được in trên các bài báo hay các tập sách nhỏ hạ thấp tầm vóc của họ. Thói quen này cũng đảm bảo các tác phẩm bất đồng chính kiến về chính trị và tôn giáo sẽ được phản biện dựa trên nội dung thay vì công kích cá nhân.)15
Franklin cũng cho ra đời một biếm họa chính trị, đối xứng với bức “Tham gia hoặc Chết” trước đây, thể hiện một Đế quốc Anh đẫm máu và bị chia cắt, trên các chi của nó đề tên các xứ thuộc địa. Khẩu hiệu bên dưới, “Hãy cho Belisarius một đồng xu”, gợi nhớ vị tướng La Mã đã đàn áp các tỉnh bang để rồi chết trong nghèo khổ. Ông in bức biếm họa trên các mảnh giấy nhớ, thuê người phát chúng ngay trước Quốc hội và gửi một bản cho em gái, bà Jane Mecom. Ông nói với Jane: “Lời răn ở đây là, các thuộc địa có thể bị hủy hoại, song nước Anh cũng theo đó mà bị tổn thương.” Ông cảnh báo với một vị bộ trưởng người Anh rằng, việc thực thi Đạo luật Tem cuối cùng sẽ “gây ra một mối thâm thù giữa hai nước và đặt nền móng cho một sự chia rẽ hoàn toàn trong tương lai”.16
Vẫn là một người Anh trung thành, Franklin háo hức muốn ngăn cản sự phân ly đó. Giải pháp mà ông ưa thích là cho phép sự đại diện của các thuộc địa trong Quốc hội. Trong một loạt ghi chú ông chuẩn bị cho những cuộc hội kiến với các bộ trưởng, Franklin đã lược ghi lập luận như sau: “Sự đại diện có ích theo hai cách. Nó đưa thông tin và tri thức tới đại hội đồng. Nó đưa các lý do của hành vi cộng đồng trở lại các vùng xa xôi của đế chế... Nó sẽ vĩnh viễn giữ gìn sự thống nhất, mà nếu không, ắt sẽ đổ vỡ.”
Song, ông cũng cảnh báo rằng, thời cơ nắm bắt cơ hội đang dần trôi qua. “Đã từng có lúc, các thuộc địa coi trọng và cho rằng, việc được cử đại biểu vào Quốc hội là một lợi ích cũng như vinh dự lớn”, ông viết cho một người bạn vào tháng 1 năm 1766. “Giờ là lúc họ thờ ơ với việc này và không đòi hỏi nữa, song vẫn có thể chấp nhận nếu được đề nghị. Sẽ tới lúc họ kiên quyết từ chối nó.”
Theo Franklin, nếu thiếu sự đại diện trong Quốc hội, “cách tốt thứ hai” chính là phương thức truyền thống, đòi hỏi các cơ quan lập pháp ở thuộc địa trích lập ngân quỹ. Trong các ghi chú ông viết ra để dành thảo luận với các vị bộ trưởng, ông đề xuất một giải pháp thay thế thứ ba. Đó sẽ là một bước dẫn tới sự độc lập của các thuộc địa: “cho phép họ cử đại biểu từ mỗi Hội đồng Lập pháp vào một hội đồng chung”. Nói cách khác, các thuộc địa Mỹ sẽ lập ra cơ quan lập pháp liên bang của họ thay vì chịu sự điều chỉnh của luật pháp do Quốc hội Anh ban hành. Thứ duy nhất giúp thống nhất hai phần của Đế quốc Anh khi đó là lòng trung thành với nhà vua. Nó bắt nguồn từ kế hoạch ông đề xuất hơn một thập kỷ trước. Bên cạnh ý tưởng này trong các ghi chú, ông viết cụm từ “Kế hoạch Albany”.17
Vào ngày 13 tháng 2 năm 1766, Franklin có dịp trực tiếp trình bày vấn đề trước Quốc hội. Sự xuất hiện kịch tính của ông là một kiệt tác về vận động hành lang cũng như sân khấu, được những người ủng hộ ông trong Quốc hội dàn dựng một cách nhiệt tình. Trong một buổi chiều với những lời bộc bạch đầy xúc động, ông biến mình trở thành người phát ngôn hàng đầu vì lý tưởng Mỹ và xuất sắc khôi phục uy tín ở quê nhà.
Một số lượng lớn trong tổng số 174 câu hỏi nhằm vào ông đã được những người đứng đầu đảng Whig mới của Ngài Rockingham, vốn luôn cảm thông với các thuộc địa và đang tìm cách thoát khỏi sự thất bại của Đạo luật Tem, soạn trước. Các câu hỏi khác có tính thù địch hơn. Đứng trước tất cả mọi câu hỏi, Franklin đều vững chãi và bình thản. Cuộc chất vấn bắt đầu với một nghị sĩ có công việc kinh doanh sản xuất bị tổn thất vì thương mại đình đốn. Ông ta hỏi Franklin liệu người Mỹ đã tự nguyện nộp thuế cho nước Anh chưa. “Chắc chắn là nhiều và đó đều là các thứ thuế nặng nề”, ông đáp và tiếp tục nhắc lại chi tiết lịch sử (dù bỏ qua một vài tranh chấp về việc đánh thuế đất đai của giới nghiệp chủ).
Một đối thủ cắt ngang: “Chẳng phải các thuộc địa rất có khả năng nộp thuế tem hay sao?” ông ta hỏi. Franklin đáp: “Không có đủ vàng bạc ở các thuộc địa để nộp thuế tem trong vòng một năm.”
Grenville, người khởi xướng đạo luật, bảo vệ nó bằng câu hỏi lẽ nào Franklin không đồng ý rằng các thuộc địa nên trả tiền đề được các lực lượng của hoàng gia bảo an. Franklin phản bác rằng người Mỹ đã tự bảo vệ mình và nhờ đó cũng bảo vệ cả lợi ích của nước Anh. “Trong cuộc chiến vừa rồi, các thuộc địa đã nuôi nấng, cấp phục trang và trả lương cho gần 25.000 người và tiêu tốn nhiều triệu bảng”, ông giải thích và nói thêm rằng mẫu quốc mới chỉ bồi hoàn một phần nhỏ số tiền đó.
Franklin nhấn mạnh rằng, vấn đề lớn hơn là việc củng cố sự hòa hợp bên trong Đế chế Anh. Một người ủng hộ ông có tên là Grey Cooper đặt câu hỏi, trước khi Đạo luật Tem được áp dụng, “thái độ của người Mỹ với nước Anh ra sao?”
Franklin: Tốt nhất trên thế giới. Họ sẵn lòng quy phục chính quyền của nhà vua và tất cả tòa án của họ đều tuân thủ các đạo luật của Quốc hội... Các ngài chẳng tốn một pháo đài, thành quách, đơn vị đồn trú hay quân đội nào để giữ lấy sự phục tùng của họ. Đất nước này cai trị họ chỉ với chi phí của một cây viết nhỏ, mực và giấy. Họ được dẫn dắt bởi một sợi chỉ. Họ không chỉ tôn trọng mà còn có cảm tình với nước Anh vì luật pháp, tập quán và tính cách; thậm chí họ yêu thích cả thời trang của xứ sở này - điều đó đem lại lợi ích lớn về thương mại.
Cooper: Thế thái độ hiện nay của họ thì sao?
Franklin: Ồ, đã thay đổi rất nhiều.
Cooper: Người Mỹ nhìn nhận Quốc hội dưới thứ ánh sáng nào?
Franklin: Họ xem Quốc hội như bức tường thành vĩ đại bảo đảm cho họ các quyền tự do.
Cooper: Và giờ họ không giữ sự tôn trọng đó nữa?
Franklin: Không, nó đã giảm đi nhiều.
Một lần nữa, Franklin nhấn mạnh sự khác biệt giữa thuế hướng nội và hướng ngoại. “Tôi chưa từng thấy một ai phản đối quyền đặt thuế quan để điều tiết thương mại. Nhưng quyền áp đặt thuế nội địa không bao giờ thuộc về Quốc hội Anh vì chúng tôi không có đại diện ở đây.”
Liệu phía Mỹ có chấp nhận một sự thỏa hiệp? Không, Franklin đáp, đây là một vấn đề thuộc về nguyên tắc. Vậy thì chỉ có lực lượng quân đội mới có thể buộc họ nộp thuế Tem?
“Tôi không hiểu liệu lực lượng luân đội có thể được dùng vào mục đích này như thế nào”, Franklin trả lời.
Câu hỏi: Tại sao lại không được?
Franklin: Cứ giả sử một lực lượng quân đội được đưa sang Mỹ. Họ sẽ chẳng thấy bất cứ ai có vũ trang. Lúc đó, đội quân này phải làm gì? Họ không thể buộc một người lựa chọn các con tem trong khi người đó nhất định không chọn. Họ không tìm ra cuộc nổi loạn nào; thực tế là chính họ mới có nguy cơ khiến dân chúng nổi loạn.
Trận đấu cuối cùng là khi những người ủng hộ Đạo luật Tem cố gắng bác bỏ sự khác biệt giữa thuế hướng nội và hướng ngoại. Nếu các thuộc địa phản đối thành công thuế hướng nội, biết đâu sau hày họ lại bắt đầu phản đối thuế quan và các loại thuế hướng ngoại khác?
“Từ trước tới giờ họ chưa bao giờ nghĩ vậy”, Franklin đáp. “Gần đây, có nhiều lập luận đã được sử dụng để chỉ cho họ thấy rằng, không có sự khác biệt nào giữa hai loại thuế... Hiện tại họ chưa tin như vậy nhưng sẽ đến lúc họ có thể bị thuyết phục bởi chính các lập luận này.”
Đó là một kết thúc kịch tính và là một điềm gở. Trong khi phân biệt giữa thuế hướng nội và hướng ngoại, ông một lần nữa chọn lập trường ôn hòa và thực dụng hơn so với các thủ lĩnh mới nổi ở Mỹ, bao gồm phần lớn thành viên Hội đồng Lập pháp Massachusetts, những người oán giận trước viễn cảnh London đánh thuế nhập khẩu nặng nề hơn. Song Bữa Tiệc trà Boston vẫn còn cách thời điểm này tám năm nữa.* Ở hai bên bờ Đại Tây Dương, người ta hết sức phấn khởi khi thấy Quốc hội nhanh chóng bãi bỏ Đạo luật Tem, mặc dù nó đặt nền tảng cho mâu thuẫn tương lai khi bổ sung một Đạo luật Tuyên bố, theo đó “trong bất kỳ trường hợp nào”, Quốc hội có quyền ban hành luật cho các thuộc địa.18
Bằng những lời đanh thép bọc trong nhung, Franklin đã thể hiện cả lý trí và quyết tâm. Vốn là một người nhìn chung luôn miễn cưỡng nói trước đám đông, đây là màn hùng biện liên tục dài nhất trong đời ông. Ông ít dùng tài ăn nói để trình bày vấn đề mà chủ yếu thông qua sự kiên trì thuyết phục và tập trung vào cuộc tranh luận về thực tế đang tồn tại ở Mỹ. Ngay cả một trong các đối thủ cứng đầu sau đó cũng nói với ông "rằng ông ta thích tôi kể từ ngày đó vì tinh thần mà tôi thể hiện trong việc bảo vệ đất nước mình”, Franklin ghi lại. Đã nổi tiếng ở Anh như một nhà văn và một nhà khoa học, ông giờ đây lại được thừa nhận rộng rãi như phát ngôn viên hiệu quả nhất của Mỹ. Kết quả là ông trở thành đại sứ của nước Mỹ nói chung. Ngoài việc đại diện cho Pennsylvania, chẳng bao lâu ông đã được chỉ định làm người đại diện cho Georgia, sau đó là New Jersey và Massachusetts.
Tại Philadelphia, uy tín của ông được khôi phục đầy đủ. William Strahan bạn ông góp phần đảm bảo điều này bằng cách gửi một bản ghi những lời trần tình của ông về để David Hall xuất bản tại đây. “Trong phép thử này, hơn bất cứ thứ gì khác, ông mang nợ việc bãi bỏ nhanh chóng và hoàn toàn đạo luật khả ố đó”, Strahan viết. Những lời chào mừng được bắn ra từ một chiếc xà lan có tên thánh là The Franklin và các quầy rượu có đồ uống miễn phí và quà tặng cho tất cả những người đến với tin chiến thắng từ nước Anh. “Cuối cùng, kẻ thù của ngài đã bắt đầu hổ thẹn về những lời nói bóng gió có căn cứ của họ và phải thừa nhận rằng các thuộc địa có bổn phận đối với ngài”, Charles Thomson viết.19
SALLY VÀ RICHARD BACHETrận chiến nhắc Franklin nhớ tới những đức tính của người vợ mà ông để lại quê nhà; hoặc ít nhất cảm thấy tội lỗi hơn vì đã bỏ bê bà. Tính căn cơ và tự lực của Deborah là các dấu hiệu cho thấy nước Mỹ có thể hy sinh chứ sẽ không chịu tuân phục một sắc thuế bất công. Giờ đây khi nó đã bị bãi bỏ, Franklin liền tưởng thưởng cho vợ một lô quà tặng: 14 thước lụa Pompadour (ông nhấn mạnh rằng, chúng “có giá 11 shilling mỗi thước”), hai tá găng tay, một váy mỏng và váy lót lụa cho Sally, một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỹ, nhiều pho-mát, một chiếc mở nút chai cùng vài chiếc khăn bàn và rèm cửa mà ông lịch sự thông báo rằng được chính bà Stevenson chọn lựa. Trong lá thư đi cùng với các tặng phẩm, ông viết:
Con thân yêu,
Khi cuối cùng Đạo luật Tem đã bị bãi bỏ, cha mong con sẽ có một chiếc váy mới, mà con cũng có thể đoán biết rằng, cha không gửi sớm hơn, bởi cha hiểu con không muốn mình xinh đẹp hơn các bạn láng giềng, trừ phi đó là một chiếc váy do chính con xe tơ kéo sợi. Nếu thương mại giữa hai nước đình đốn hoàn toàn, cha sẽ thư thái nhớ lại rằng đã có một thời cha mặc từ đầu đến chân thứ len và vải lanh do vợ mình dệt, rằng trong suốt đời mình cha chưa khi nào tự hào về phục sức hơn thế và rằng bà ấy và con gái cũng có thể làm như thế một lần nữa nếu cần.
Ông vui vẻ ghi chú, có lẽ phải để dành một vài miếng pho-mát để chờ ông thưởng thức khi trở về nhà. Song, kể cả khi ông bước sang tuổi 60 trong trận chiến đòi bãi bỏ Đạo luật Tem và những công việc của ông ở Anh dường như đã hoàn tất, Franklin vẫn chưa sẵn sàng trở về. Trái lại, ông lên kế hoạch dành mùa hè năm 1766 để đến thăm nước Đức cùng người bạn, nhà vật lý, Ngài John Pringle.20
Những bức thư Deborah gửi cho chồng, dù thật vụng về, đã hé lộ cả sự mạnh mẽ lẫn nỗi cô đơn của bà: “Em không dự phần vào bất kỳ cuộc tiêu khiển nào. Em ở nhà và tự lừa phỉnh bản thân rằng bưu kiện tiếp theo sẽ mang đến một lá thư của anh.” Bà nói mình chống chọi với việc ông vắng nhà và những căng thẳng về chính trị bằng cách lau dọn nhà cửa và cố gắng - có lẽ theo chỉ thị của ông - không làm phiền ông với sự lo lắng của bà về những vấn đề chính trị. “Em đã viết vài lá thư cho anh, gần như mỗi ngày một lá, nhưng khi không thể cầm lòng kể với anh về các vấn đề xã hội, em sẽ đốt chúng đi và bắt đầu lại, rồi lại đốt đi, cứ như thế...” Mô tả ngôi nhà mới hoàn thiện của mình, bà cho biết bà vẫn chưa treo các bức tranh của ông lên vì sợ đóng đinh lên tường khi ông chưa đồng ý. “Có sự khác biệt lớn giữa việc một người đàn ông ở nhà và ở nước ngoài, bởi mọi người đều sợ sẽ làm sai điều gì đó; cuối cùng là, mọi thứ cứ được để nguyên như thế, không làm gì cả.”
Những bức thư hồi âm của ông nhìn chung đều kiệm lời, chủ yếu tập trung vào các chi tiết của ngôi nhà. “Ước gì anh có thể có mặt vào lúc hoàn thiện gian bếp”, ông viết. “Anh nghĩ em sẽ khó lòng biết nó hoạt động thế nào; anh đã không giải thích cặn kẽ với em mấy chi tiết được trù tính để giúp thông hơi, mùi và khói.” Ông soạn các hướng dẫn chi tiết về việc sơn mỗi phòng như thế nào và thỉnh thoảng nhắc đến việc sau cùng ông sẽ trở về nhà như để trêu ngươi: “Nếu chiếc lò sắt đó không lắp được, hãy cứ để đó cho đến lúc anh về, khi đó anh sẽ mang theo một chiếc bằng đồng tiện lợi hơn.”21
Cuối năm 1766, thỏa thuận hợp tác trong công việc in ấn với David Hall hết hạn sau 18 năm. Kết thúc này đến cùng một chút mâu thuẫn. Hall đã trở nên ít hăng hái với việc dùng Nhật báo Pennsylvania để công kích các nghiệp chủ, và hai người bạn của Franklin đã cấp vốn cho một nhà in và một tờ báo khác để đảm đương việc này. Hall xem đây là việc phá vỡ tinh thần của thỏa thuận hợp tác giữa hai bên, mặc dầu nó đã hết hạn. “Dù ông không hoàn toàn bị cấm can dự sâu hơn vào ngành in tại nơi đây, việc này có quá nhiều ngụ ý rõ ràng,” ông viết một cách oán trách.
Từ London, Franklin hồi âm rằng, nhà in đối thủ mới đã “khởi sự mà tôi không hề biết hay tham gia; thông báo đầu tiên về nó mà tôi biết là nhờ đọc mục quảng cáo trên tờ báo của anh.” Ông không giấu giếm cảm tình sâu đậm với Hall và nói ông không có chút bất đồng nào về quan điểm chính trị hay chính sách biên tập của người đồng nghiệp, dù một vài đồng minh chính trị của ông nghĩ khác. “Tôi chưa bao giờ nghĩ anh thuộc về đảng phái nào và bởi anh chưa bao giờ chỉ trích tôi về lập trường mà tôi chọn trong các việc công nên tôi cũng không bao giờ chỉ trích anh vì không cùng lập trường. Tôi tin rằng mỗi cá nhân được và phải được hưởng một sự tự do định đoạt tuyệt đối trong những trường hợp như thế.”
Song, ông vẫn cảm thấy buộc phải nói thêm rằng, thỏa thuận ban đầu thực chất không ngăn cản ông cạnh tranh khi nó đã hết hạn: “18 năm trước đây, tôi không thể nhìn thấy trước rằng cuối kỳ hạn của hợp đồng tôi sẽ giàu đến mức có thể sống mà không cần kinh doanh.” Sau đó, ông đưa ra thêm một lời đe dọa ngầm ẩn sau một lời hứa khi cho biết ông đã được tạo cơ hội hợp tác trong một thương vụ có tính cạnh tranh nhưng sẽ từ chối nó, với điều kiện Hall cung cấp thêm một phần những gì mà Franklin nghĩ ông ta vẫn nợ. “Tôi hy vọng tôi sẽ không có dịp làm việc đó”, ông nói về khả năng mình kết hợp với đối thủ của Hall. “Tôi biết có một số tiền rất lớn mà các khách hàng của chúng ta còn nợ tôi, vì thế tôi hy vọng một phần của số tiền này, nhiều hơn so với anh nghĩ, cần được anh thu hồi cho tôi.” Franklin hứa rằng khi đó tiền bạc cùng thu nhập của ông sẽ cho phép ông yên lòng nghỉ hưu. “Điều kiện của tôi sẽ dư dật vừa đủ, nhất là vì tôi không có thói quen tiêu hoang. Trong trường hợp đó, tôi không có mục đích gì để phải một lần nữa dấn thân vào ngành in.”22
Thỏa thuận hợp tác hết hạn đồng nghĩa Franklin mất khoảng 650 bảng trong thu nhập hàng năm, điều này thổi bùng lên ý thức về tính tiết kiệm của ông. Cuộc sống của ông ở London là một sự pha trộn giữa tính căn cơ và tính rộng rãi của tầng lớp trung lưu. Dù ông không tiêu khiển hoặc sống theo lối của những người xuất chúng - điều dễ hiểu đối với một người có tầm vóc như ông - ông thích đi du lịch và sổ sách cho thấy ông đặt loại bia thượng hạng cho nhà mình với giá 30 shilling một thùng (một sự tương phản rõ rệt với lần đầu ông sống ở London, khi ông rao giảng về giá trị của bánh mì và nước so với bia). Những nỗ lực tiết kiệm của ông chủ yếu nhằm vào vợ. Tháng 6 năm 1767, ông viết thư cho bà:
Một nguồn thu nhập lớn của nhà ta bị cắt giảm và nếu anh mất luôn cả bưu điện, điều... không phải không thể xảy ra, thu nhập phục vụ sinh hoạt của nhà ta sẽ giảm xuống chỉ còn bằng số tiền cho thuê nhà và lãi suất tiền gửi. Điều này có nghĩa là, với mọi cách, chúng ta cũng sẽ không đủ tiền để trả chi phí quản gia tốn kém và các thú vui chơi mà lâu nay đã quen dùng. Về phần anh, anh sống ở đây theo cách căn cơ nhất có thể, chỉ là không đến mức thiếu thốn những tiện nghi tối thiểu của cuộc sống. Anh không mời ai ăn tối và tự hài lòng với một món duy nhất khi ăn ở nhà. Vậy mà đời sống ở đây đắt đỏ đến mức các chi phí vẫn khiến anh kinh ngạc. Từ tổng số mà em chi, anh thấy rằng các chi phí của em khi anh vắng nhà cũng rất lớn. Anh thấu hiểu rằng hoàn cảnh của em khiến em tự nhiên có nhiều khách khứa, điều đó tạo ra các khoản chi phí không dễ gì tránh khỏi... Nhưng một khi thu nhập của người ta giảm đi, nếu không cắt giảm tương ứng các cuộc giao đãi, chẳng mấy chốc họ sẽ lâm vào nghèo túng.23
Điều khiến lá thư cực kỳ lạnh lùng là vì nó được viết để đáp lại tin con gái họ đã yêu và chờ ông chấp thuận để tổ chức đám cưới. Sally trở thành một nhân vật quý phái trong xã hội Philadelphia, đến dự tất cả các buổi khiêu vũ và thậm chí còn ngồi trong xe ngựa của Thống đốc Penn, người mà Franklin căm ghét. Nhưng cô lại phải lòng một anh chàng có tư cách và an toàn tài chính dường như cần đặt dấu hỏi.
Richard Bache, kẻ cầu hôn được nhắc đến, là dân di cư từ Anh sang. Bache làm công việc của một nhà nhập khẩu và môi giới bảo hiểm hàng hải cùng anh trai tại New York; sau đó tới Philadelphia để mở một hàng đồ khô trên Phố Chestnut. Hấp dẫn phụ nữ nhưng lại không may mắn trong kinh doanh, Bache đã đính hôn với bạn thân nhất của Sally, Margaret Ross. Khi Margaret bệnh nặng không qua khỏi, cô trăng trối lại nhờ Sally thay cô chăm sóc Bache; và Sally khá sẵn lòng nghe lời.24
Về phía Deborah, phải định đoạt việc gì khi chồng bà vắng nhà là một trách nhiệm quá sức. “Em phải vừa làm cha vừa làm mẹ”, bà viết thư cho Franklin với chút gì đó như kể tội. “Em hy vọng anh hài lòng khi em làm vậy vì em đã dựa trên sự xét đoán tốt nhất của mình.”
Lẽ ra điều này chắc chắn phải thôi thúc Franklin trở về. Tuy vậy, ông vẫn xa cách gia đình. Lần duy nhất ông bươn bả trở về Philadelphia là khi con trai ông chuẩn bị thành hôn - tại London. “Bởi anh không chắc liệu mình có thể về vào mùa hè này”, ông viết cho Deborah, “anh sẽ không trì hoãn hạnh phúc của con nếu em nghĩ rằng hai đứa là một cặp xứng đôi.” Cho phép mình là một người cha xa nhà nuông chiều con, đi cùng lá thư, ông gửi Sally hai chiếc mũ mùa hè.
Vài tuần sau, ông gửi bài thuyết giảng dài về việc tiết kiệm tiền bạc. “Đừng tổ chức một lễ cưới với yến tiệc tốn kém, mà hãy tiến hành mọi thứ thật căn cơ và tiết kiệm - điều mà hoàn cảnh của nhà ta hiện nay thực sự đòi hỏi", ông viết cho Deborah. Ông nói thêm, bà nên làm rõ với Bache rằng họ sẽ chỉ cho con gái một món hồi môn vừa đủ chứ không quá mức:
Anh mong là kỳ vọng của cậu ta từ con gái mình không phải là cả một gia tài trước khi chúng ta chết. Anh chỉ có thể nói rằng, nếu cậu ta tỏ ra là người chồng tốt với con bé và người con tốt với anh, cậu ta sẽ được thấy anh cũng là người cha tốt nhất có thể. Nhưng hiện tại, anh thiết nghĩ em cũng đồng ý với anh rằng, hai ta không thề làm gì hơn việc hào phóng sắm sửa cho con bé một số quần áo và vật dụng với tổng giá trị không vượt quá 500 bảng.25
Sau đó, có vài tin tức phiền toái hơn xảy đến. Theo đề nghị của Franklin, William đã kiểm tra tình hình tài chính của Bache và phát hiện ra nó đang ở trong tình trạng khó khăn. Tồi tệ hơn thế, anh được biết rằng cha của Margaret Ross cũng từng phát hiện ra điều tương tự nên đã từ chối cho họ làm đám cưới. “Gã Bache đã tìm cách lừa dối ông ấy [ông Ross] về gia cảnh của bản thân”, William báo cáo. “Tóm lại, đây là một gã đào mỏ, kẻ muốn đổi đời bằng cách kết hôn với một cô gái có gia thế đủ điểu kiện hỗ trợ anh ta.” Anh kết thúc lá thư với một lời đề nghị: “Xin cha hãy đốt lá thư này.” Franklin đã không đốt.
Vì thế đám cưới bị hoãn lại và Bache cố gắng biện bạch cho bản thân trong một lá thư. Anh ta thừa nhận sự thật là mình đã phải chịu một cú đảo lộn về tài chính thật khốc liệt, song cho rằng đó không phải lỗi của mình. Anh ta đã bị buộc nắm giữ một cách bất công các hóa đơn của một chiếc thuyền buôn thua lỗ trong chiến dịch tẩy chay Đạo luật Tem.26
“Ta yêu con gái mình có lẽ cũng như mọi người cha yêu con thơ”, Franklin đáp (có lẽ hơi phóng đại). “Nhưng ta nói trước với anh rằng, tài sản của ta nhỏ bé, ít ỏi và chỉ đủ để nuôi sống hai vợ chồng già... Trừ phi anh thuyết phục được bạn bè của con bé rằng anh có thể duy trì một cuộc sống đầy đủ cho nó, ta hy vọng anh sẽ thôi đeo đuổi một việc làm có thể dẫn tới những hậu quả tai hại cho cả hai.” Franklin viết cho Deborah cùng ngày, nói ông đoán rằng từ giờ Bache sẽ rút lui. “Vận xui gần đầy xảy ra với việc làm ăn của cậu ta,” Franklin nói, “có thể sẽ ngăn cậu ta vội vã bước vào” một cuộc hôn nhân. Ông đề nghị thay vì kết hôn, Sally có thể qua chơi ở Anh, nơi cô có dịp gặp chàng trai khác, chẳng hạn con trai của William Strahan.27
Mặc dù tỏ thái độ rất rõ ràng, những lá thư của Franklin không thẳng thừng ngăn con gái làm đám cưới. Có lẽ ông cảm thấy vì mình không sẵn sàng trở về nhà để giải quyềt vấn đề nên ông không có quyền cả về mặt đạo đức lẫn khả năng về mặt thực tế để đưa ra bất cứ chỉ thị nào. Tách rời gia đình về khoảng cách cũng khiến ông tách rời họ cả về cảm xúc.
Để khiến cho các động lực gia đình kỳ lạ này trở nên phức tạp hơn nữa, bà Stevenson quyết định tham gia vào. Bởi đã sống với Franklin và tự cảm thấy mình là bạn tâm hồn của Deborah, bà liền viết thư để bày tỏ sự thông cảm. Bà cho biết, Franklin là người có tính khôi hài khó ưa. Bực bội vì tính khí của ông, bà tự an ủi bản thân với việc mua một ít lụa và may một bộ đồ lót cho con gái ông, dù chưa gặp cô lần nào. Bà tâm sự, thật lòng bà háo hức với đám cưới tiềm năng này đến mức muốn mua nhiều quà hơn nữa song Franklin không cho phép. Bà cho Deborah biết, chính bà cũng đang chờ cơ hội để ngồi xuống, trò chuyện cùng ông. “Tôi thật sự nghĩ việc ngóng đợi được gặp ông Franklin đôi lúc vượt quá khả năng chịu đựng của một người vợ dịu dàng trìu mến.”28
Bất chấp tấn kịch gia đình tại Philadelphia, Franklin vẫn lánh sang Pháp vào tháng 8 năm 1767 để nghỉ hè. “Anh đã ở quá lâu tại London mùa hè này nên giờ đây dễ hiểu là anh cảm thấy cần một chuyến đi thông thường để bảo toàn sức khỏe,” ông viết cho Deborah. Tâm trạng của ông gắt gỏng đến mức trên đường đi ông “vướng vào các cuộc cãi vã bất tận với các chủ lữ quán,” ông kể với Polly. Ông cùng người bạn đường, John Pringle, buồn bực vì chiếc xe ngựa được lắp kiểu gì mà chẳng chiêm ngưỡng được cảnh đồng quê. Lời giải thích lý do của gã xà ích, “khiến cho ta, cũng như một trăm lần khác, gần như muốn ước là loài người đừng bao giờ nên được trao tặng khoa lý luận, vì họ biết quá ít về cách thức sử dụng nó”, Franklin càu nhàu.
Tuy vậy, khi họ đến Paris, mọi thứ có tiến triển. Ông bị hấp dẫn bởi cách các quý bà ở đây dùng phấn đánh má hồng của họ, điều được ông chia sẻ hết sức chi tiết trong một bức thư gửi cho Polly, thay vì gửi cho Sally. “Cắt một cái lỗ có đường kính ba phân trên một mảnh giấy, đặt nó lên một bên mặt sao cho đỉnh trên của chiếc lỗ sẽ ở ngay bên dưới mắt con; sau đó dùng một chiếc cọ nhúng màu để vẽ cùng lúc lên cả mặt và tờ giấy; như thế khi tờ giấy được gỡ đi, sẽ còn lại một vết tròn màu đỏ trên mặt.”29
Franklin được chào đón như một người nổi tiếng tại Pháp, nơi các thí nghiệm về điện được gọi là franklinistes. Ông cùng Pringle được mời đến cung điện Versailles để dự buổi đại yến cùng vua Louis XV và hoàng hậu Marie. “Người nói chuyện với hai chúng ta rất vui vẻ và ân cần”, Franklin kể lại với Polly. Tuy nhiên, bất chấp sự khổ công của ông với các vị bộ trưởng Anh, ông nhấn mạnh mình vẫn trung thành “vì nghĩ rằng đức vua và Hoàng hậu của nước ta là tuyệt vời và nhân từ nhất thế giới”.
Ông nhận xét cung điện Versailles thật tráng lệ song được duy tu rất vô ý, “với những bức tường nửa gạch tồi tàn và các cửa sổ vỡ”. Trái lại, Paris có một vài phẩm chất nguyên sơ làm dấy lên cảm xúc của ông đối với các kế hoạch hoàn thiện cộng đồng. Đường phố được quét dọn hằng ngày nên rất “thích hợp để đi bộ”, không như đường phố London. Nước thì được đảm bảo “tinh khiết như con suối trong lành nhất nhờ được lọc qua bể chứa đựng đầy cát”. Trong khi con gái ông đang chuẩn bị cho một đám cưới vắng mặt cha, Franklin vẫn đang đặt may quần áo mới và một “một bộ tóc giả kiểu túi” khiến ông trông “trẻ ra hai chục tuổi” như lời kể với Polly. Ông đùa rằng chuyến đi giúp tiếp sinh lực cho sức khỏe của mình nhiều đến mức “có lần ta suýt nữa làm tình với vợ của một người bạn”.30
Khi từ Pháp trở về, Franklin lập tức viết những lá thư quyến rũ gửi Polly và nhiều người khác, nhưng chỉ thông báo ngắn gọn về nhà. Ông dường như phật ý vì các lá thư từ Philadelphia chỉ mang vài ba thông tin về con gái, hơn thế nữa, cô còn “thất vọng” khi kế hoạch cưới xin rơi vào tình trạng lấp lửng. Ông đảm bảo với Deborah rằng mình đã “cực kỳ tráng kiện và khỏe mạnh từ khi trở lại đây” và sau đó chiếu cố hỏi về của sự an lạc của con gái.
Vào lúc đó, dù ông không biết, Sally và Richard đã đi trước một bước và cưới nhau. Tháng 10 năm 1767, như được ghi trong Biên niên sử Pennsylvania (đối thủ mới của tờ Nhật báo): “Ông Richard Bache, một thương nhân ngụ tại thành phố này, đã kết hôn với cô Sally Franklin, ái nữ duy nhất của Tiến sĩ Franklin nổi tiếng, một quý cô trẻ có phẩm chất cao quý. Ngày tiếp theo, tất cả tàu biển tại cảng đã trưng diện màu sắc mừng dịp vui này.”31
Không có dấu hiệu cho thấy Franklin từng bày tỏ sự tiếc nuối khi bỏ lỡ đám cưới của cô con gái duy nhất. Vào tháng Mười hai, em gái ông, Jane Mecom, viết thư để gửi lời chúc tụng “đám cưới của con gái yêu của anh với một chàng trai xứng đáng để con bé yêu thương và là người duy nhất có thể làm cho nó hạnh phúc”. Franklin trả lời lá thư vào tháng Hai một cách lạnh nhạt: “Con bé đã làm hài lòng bản thân và mẹ nó nên anh hy vọng nó sẽ sống ổn. Song, anh nghĩ, trước khi cưới, chúng nên nhìn nhận rõ ràng hơn về cách thức duy trì một gia đình so với những gì chúng biết hiện nay.”32
Trong những lá thư ngắt quãng suốt mấy tháng sau đó, Franklin đã nhắn gửi tình thương yêu tới Deborah và Sally, song ông không bao giờ nhắc nhở gì về Bache. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 1768, Franklin viết thư cho con rể, chấp nhận anh ta vào gia đình mình. “Con yêu”, ông bắt đầu đầy hứa hẹn trước khi đổi giọng lạnh nhạt hơn một chút. “Cha nghĩ khi con chọn ràng buộc bản thân vào trách nhiệm gia đình trong lúc công việc làm ăn phải chịu đựng một tình trạng không đáng mong đợi đến thế, đó là một bước đi rất khinh suất và gấp gáp xét về các phương tiện cần có để duy trì nó.” Franklin giải thích, đâ