Chuong 10 (tt)
GIA ĐÌNH THỨ HAI
Trong cuộc sống gia đình, cũng như trong phần còn lại của đời sống cá nhân, Franklin rõ ràng không đi tìm những mối ràng buộc sâu sắc. Tuy nhiên, ông thật sự cần một sự thoải mái trong nhà và sự kích thích về trí tuệ. Đó là thứ ông tìm thấy trong gia đình thứ hai của mình tại London. Trong ngôi nhà trên phố Craven có tinh thần và trí tuệ thiếu vắng nơi Phố Chợ. Chủ nhà, bà Stevenson, sống động hơn Deborah; còn cô Polly con gái bà thì sáng dạ hơn Sally một chút. Tháng 9 năm 1769, ngay sau khi Franklin từ Pháp trở về, Polly nhận được lời cầu hôn từ một người đàn ông - dĩ nhiên là xuất sắc hơn Bache.
Có được William Hewson là một điều may mắn đối với Polly, vì khi đó cô đã 30 tuổi mà vẫn chưa có gia đình. Hewson đang khởi đầu một sự nghiệp nổi trội trong vai trò một nhà nghiên cứu và giảng dạy về y khoa. “Anh ấy hẳn phải là người thông minh vì có lối suy nghĩ giống chúng ta”, Polly viết trong lá thư gửi từ ngôi nhà ở vùng quê nơi cô đang tạm trú. “Cháu không nên khiến bác hay mẹ cháu ngạc nhiên nếu cháu bỏ đi với chàng trai trẻ này; chắc chắn đó sẽ là một bước thiếu cẩn trọng ở độ tuổi 30 chín chắn.”
Giữa những câu chuyện nửa đùa nửa thật này, Polly chơi trò lập lờ với Franklin khi thú nhận (hay giả bộ) rằng cô chưa thật nhiệt tình muốn cưới Hewson. “Có lẽ anh ấy còn quá trẻ”, cô nói với người đàn ông lớn tuổi ngưỡng mộ mình. Cô nói thêm cô đang tràn đầy hạnh phúc, song không dám chắc liệu “sự bay bổng này là bởi người mới quen kia hay là bởi nghe tin người cũ [chỉ Franklin, trước đó mới đi Paris] vừa trở về nước.”
Hồi âm của Franklin, được viết ngay ngày hôm sau, chứa đựng nhiều lời tán tỉnh hơn là ngợi khen. “Nếu biết được sự thật, ta có lý do để ghen với anh chàng bác sĩ trẻ tuổi điển trai mới xen vào giữa hai ta.” Ông nói mình sẽ nuông chiều thói hư danh và “xoay tai điếc về phía lý trí” khi quyết định “cho rằng con đang trong tinh thần này vì tin ta trở về bình an”.
Trong suốt gần một năm, Polly trì hoãn việc cưới xin vì Franklin không chịu khuyên cô chấp nhận lời cầu hôn của Hewson. Cuối cùng, vào tháng 5 năm 1770, Franklin viết thư cho cô, nói ông không có bất cứ sự phản đối nào. Đó hầu như không phải một sự tán thành mạnh mẽ. “Ta chắc rằng con sẽ tự định đoat tốt hơn ta nhiều trong việc riêng này”, và ông nói thêm, hai người có vẻ là một “cặp đôi hợp lý”. Khi cô tỏ ý lo lắng vì sẽ không có nhiều của hồi môn để mang theo, Franklin không thể kiềm chế việc nhấn mạnh rằng: “Ta nghĩ đối với ta con đã là cả một kho báu mà không cần thêm một shilling.”35
Tuy bỏ lỡ đám cưới của hai người con ruột, đám cưới của Polly lại là một dịp mà ông chắc chắn không thể vắng mặt. Mặc dù nó được tổ chức vào giữa mùa hè, thời gian ông thường đi du lịch nước ngoài, ông vẫn có mặt để dìu Polly bước xuôi lối đi trong vai trò cha cô dâu. Vài tuần sau, ông bày tỏ rằng, ông hài lòng khi thấy cô hạnh phúc, nhưng thú nhận, mình “đôi lúc xuống tinh thần” khi nghĩ tới cảnh mất đi tình bạn với cô. May mắn cho cả hai, điều đó không xảy ra. Ông sống gần gũi với đôi vợ chồng trẻ. Trong suốt cuộc đời làm bạn của hai người, Franklin và Polly đã trao đổi hơn 130 lá thư.
Thực tế là, vài tháng sau đám cưới, Polly và William Hewson tới ở cùng Franklin nhân dịp bà Stevenson dành một trong những kỳ nghỉ cuối tuần dài để đến thăm bạn bè ở vùng quê. Họ cùng nhau xuất bản một tờ báo giả để đánh dấu sự kiện này. Tờ Nhật báo Phố Craven ra ngày 22 tháng 9 năm 1770 tường thuật lại cuộc xuất hành của “Nữ hoàng Margaret” và sự khó ở sau đó của Franklin. “Con người Vĩ Đại (gọi như thế vì khổ người khổng lồ của ông ta)... hầu như không thể bớt buồn bực sáng nay, mặc dù nội các mới hứa hẹn đãi ông món vai cừu nướng và khoai tây cho bữa tối.” Tờ báo thuật rằng Franklin cũng phật ý vì Nữ hoàng Margaret đã mang chìa khóa cất vào một tủ riêng đề ông không thể tìm ra những chiếc áo sơ mi nhăn nhúm của mình, nhằm ngăn ông đến Cung Thánh James vào ngày đăng quang. “Nhân dịp này, ông ta đã lớn tiếng phản đối Nữ hoàng... Mấy chiếc áo về sau được tìm thấy ở một nơi khác, dù quá muộn.”
Suốt bốn ngày, tờ báo đem rất nhiều nhược điểm của Franklin ra trêu chọc: ông đã vi phạm lời rao giảng về tiết kiệm nhiên liệu của chính ông bằng việc đốt lò sưởi trong phòng ngủ khi tất cả mọi người đã ra ngoài, ông đã hứa sẽ sửa cửa trước nhưng rồi bỏ dở vì không thể quyết định xem nên mua ổ khóa hay chìa khóa mới và chuyện ông đã cam kết đi lễ nhà thờ ngày Chủ nhật như thế nào. “Nhờ các trải nghiệm đáng buồn, giờ đây ta có thể thấy việc nói những lời quyết tâm luôn dễ hơn là thực thi”, tờ báo ngày Chủ nhật thuật lại. “Bất chấp nghiêm lệnh của Hội đồng ngày hôm qua, vẫn không ai đi lễ nhà thờ ngày hôm nay. Dường như người Vĩ đại với khổ người to lớn thích nằm ườn trên giường lâu đến mức bữa sáng luôn kéo dài cho tới lúc quá muộn.” Ngụ ý của câu chuyện có thể đã được Richard Nghèo Khổ viết như sau: “Từ thí dụ về những kẻ quê mùa vĩ đại, hy vọng đổi mới của chúng ta dường như thật vô ích.”
Một bài viết đặc biệt dường như đề cập tới một người phụ nữ sống gần bên mà Franklin đã tự nguyện tán tỉnh. Chủ nhật đó, Franklin giả bộ như đến thăm bà ta: “Tiến sĩ Mập xoay người 469 lượt trong phòng ăn, chính xác bằng khoảng cách của cuộc viếng thăm quý bà Barwell khả ái. Bà không có nhà, vì thế không hề có một cuộc đấu tranh thuận theo hay cưỡng lại một nụ hôn, và ông ngồi xuống chiếc ghế êm ái của mình, mơ màng rằng ông đã có được nó mà không gặp trở ngại gì.” Vào ngày thứ ba từ khi bà Stevenson vắng nhà, tờ Nhật báo tường thuật rằng Tiến sĩ Mập “bắt đầu mong Nữ hoàng trở về.”
Số báo cuối cùng đăng tải một trong các lá thư không thể bắt chước của Franklin gửi cho chủ bút, ký tên giả “Sự phẫn nộ”, phê phán thức ăn và điều kiện sống. Nhắc đến Polly và chồng cô, nó la lối om sòm: “Nếu những kẻ khốn khổ đê tiện này tiếp tục nắm quyền tuần này, đất nước sẽ bị hủy hoại - không xong! hoàn toàn không xong! - nếu Nữ hoàng không trở về; hoặc (tốt hơn là) lật đổ tất cả họ và chỉ định tôi và các bạn tôi kế nhiệm.” Nó được “Một người ghét lùm xùm” trả lời, cho biết Franklin cau có đã được mời một bữa tối tuyệt vời với món sườn bò và đã từ chối nó vì “thịt bò không làm ông toát mồ hôi lắm mà còn làm ông ngứa lưng, mà điều bực tức không nhỏ là ông đã đánh mất chiếc gậy gãi lưng có một bàn tay bằng ngà voi Trung Hoa gắn phía chót mà Nữ hoàng ban cho ông.”36
Ở Phố Craven, Franklin có thể nuông chiều nhiều tính lập dị mà ông đã hình thành. Một trong số đó là sở thích “tắm không khí” hàng giờ mỗi buổi sáng: ông mở các cửa sổ và “ngồi trong phòng không mặc bất cứ thứ gì”. Một việc khác là thực hiện các cuộc tán tỉnh lặt vặt. Chủ nhà in nổi tiếng Charles Willson Peale nhớ lại lần ông đến thăm Phố Craven mà không báo trước và bắt gặp “ngài Tiến sĩ và một quý cô trẻ vắt vẻo trên đầu gối ông”. Quý cô được nhắc đến có thể là Polly, dù phần mô tả về cảnh tượng đó của Peale sau này khá mơ hồ.37
Cuối cùng, Polly và William Hewson đã chuyển sang Phố Craven và mang theo những bộ xương của Hewson, “các bào thai ướp” và các dụng cụ phục vụ nghiên cứu y khoa khác. Về sau, Franklin và bà Stevenson dời sang nơi ở mới cách đó vài số nhà. Mối quan hệ lạ lùng của họ thể hiện qua một bức thư đầy thành kiến mà Franklin gửi cho bà trong một trong những chuyến đi vắng thường xuyên để thăm bạn bè ở vùng quê của bà. Nhắc lại cho bà nhớ châm ngôn của Richard Nghèo Khổ rằng khách khứa sẽ trở nên chán ngắt sau ba ngày, ông hối thúc bà trở về ngay trên chuyến xe ngựa chở khách tiếp theo. Nhưng để tránh việc bà nghĩ ông quá phụ thuộc vào bà, ông đã nói thẳng ra sự hài lòng khi sống một mình. “Tôi thấy thỏa mãn khi được làm chủ chính bản thân mình, đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì mà tôi thích”, ông nói. “Tuy vậy, niềm hạnh phúc đó có lẽ quá lớn để trao cho bất cứ ai ngoài các vị thánh và các ẩn sĩ thánh thiện. Những kẻ phạm tội như tôi, phải nói đúng hơn là như chúng ta, bị kết án để sống cùng nhau và hành hạ lẫn nhau.”38
HILLSBOROUGH VÀ LUẬT THUẾ TOWNSHENDTrong những lời đầy kịch tính của ông khi tranh luận về việc bác bỏ Đạo luật Tem, Franklin đã phạm phải một cách đánh giá sai lầm: ông nói rằng người Mỹ thừa nhận quyền áp các khoản thuế hướng ngoại của Quốc hội Anh, chẳng hạn thuế xuất khẩu, nhập khẩu và chỉ phản đối các loại thuế được thu trong nước. Ông nhắc lại lập luận này vào tháng 4 năm 1767 khi viết trên một tờ báo ở London dưới bút danh “Một người bạn của cả hai Quốc gia” và sau đó là “Người Nhân từ”. Trong nỗ lực xoa dịu các mối quan hệ rắc rối, ông kể lại tất cả những lần người Mỹ đã sẵn lòng giúp quyên tiền đề bảo vệ đế chế. “Các thuộc địa phục tùng việc nộp tất cả các loại thuế hướng ngoại đánh lên họ bằng cách áp thuế quan lên hàng hóa nhập khẩu và chưa từng tranh cãi về thẩm quyền của Quốc hội trong việc định ra các loại thuế quan này,” ông viết.39
Charles Townshend, vị quan chưởng ấn mới của kho bạc, một trong số những người đã “quay” Franklin trước Quốc hội khi ông chấp nhận thuế hướng ngoại mà không chấp nhận thuế hướng nội. Townshend cảm thấy sự phân biệt đó hoàn toàn vô nghĩa, song ông quyết định giả vờ đề làm hài lòng các thuộc địa - hoặc sẽ khiến họ nổi máu cộc cằn - bằng việc chấp thuận nó. Trong một phát biểu xuất sắc khiến ông có biệt danh “Champagne Charlie” (bởi vì nó được ông đưa ra khi đã nửa tỉnh nửa say), ông lên một kế hoạch về các loại thuế nhập khẩu đánh lên kính, giấy, đồ gốm, sơn màu và trà. Để khiến vấn đề tồi tệ hơn, một phần số thuế thu được sẽ được dùng để trả cho các thống đốc hoàng gia, nhờ đó giải phóng họ khỏi sự phụ thuộc vào các cơ quan lập pháp thuộc địa.
Một lần nữa, cũng như khi Đạo luật Tem được thông qua, Franklin ít tỏ ra lo lắng khi các loại thuế nhập khẩu của Townshend được thông qua vào tháng 6 năm 1767. Ông không nhận ra mình đã lạc hậu thế nào so với chủ nghĩa cấp tiến đang trỗi dậy tại nhiều thuộc địa. Sự giận dữ đối với các loại thuế nhập khẩu mới đặc biệt lên cao ở thành phố cảng Boston, nơi Những đứa con của Tự do (do Samuel Adams dẫn đầu) đã đánh thức tình cảm của dân chúng một cách hiệu quả bằng việc nhảy múa quanh một “Cây Tự do” gần hạ viện. Adams đề nghị Hội đồng Lập pháp Massachusetts gửi một thông tri tới các thuộc địa khác để trưng cầu ý kiến về việc bãi bỏ đạo luật. Chính phủ Anh yêu cầu phải thủ tiêu lá thư và đã điều các quân đoàn tới Boston sau khi Hội đồng Lập pháp từ chối.
Khi tin tức về cơn giận dữ của người Mỹ đến với ông ở London, Franklin vẫn khá bình thản. Ông viết một loạt tiểu luận kêu gọi “sự văn minh và lối cư xử phù hợp” từ cả hai phía. Với những người bạn ở Philadelphia, ông bày tỏ sự không tán thành chủ nghĩa cấp tiến đang lớn dần ở Boston. Trong các bài báo xuất bản tại Anh, ông gắng sức - đúng hơn là quá gắng sức - để làm bằng được hành vi khéo léo của một người thuận cả hai tay.
Sự tung hứng của ông được thể hiện trong một tiểu luận vô danh dài, viết vào tháng 1 năm 1768 cho Biên niên kỷ London, có nhan đề “Các nguyên nhân của sự bất mãn của người Mỹ.” Được viết từ góc nhìn của một công dân Anh, nó lý giải niềm tin của người Mỹ rằng, cơ quan lập pháp của họ nên kiểm soát mọi biện pháp thu hoa lợi và đưa ra điều này theo một cách khôn khéo: “Tôi không có trách nhiệm ủng hộ những ý kiến này.” Ông quả quyết mục tiêu của mình là để mọi người “biết đến ý kiến của người Mỹ”. Khi làm vậy, Franklin cố gắng công tâm: ông cảnh báo rằng cơn giận dữ của người Mỹ khi bị Quốc hội đánh thuế có thể chia rẽ đế chế, sau đó giả vờ than thở về những “tiếng gầm gào hoang dã đó” như một thứ gì ông “không có ý định ủng hộ”.40
Ông cũng có phản ứng tương tự khi đọc một loạt bài báo vô danh xuất bản tại Philadelphia, “Những lá thư từ một nông dân Pennsylvania.” Khi đó, Franklin không hề biết chúng là của John Dickinson, đối thủ của ông trong cuộc chiến chống lại giới nghiệp chủ khi còn ở Philadelphia. Những lá thư của Dickinson thừa nhận rằng Quốc hội có quyền điều tiết thương mại, nhưng ông ta lập luận rằng nó không thể sử dụng quyền đó để tăng nguồn thu từ các thuộc địa nếu không được họ đồng ý. Franklin sắp xếp để những lá thư này được xuất bản thành một tập sách nhỏ ở London vào tháng 5 năm 1768 và đích thân viết lời giới thiệu. Song, ông tránh ủng hộ hoàn toàn các lập luận của họ. “Những tình cảm này đúng hay sai đến đâu, hiện giờ tôi không có tham vọng đánh giá.”
Tới lúc này, Franklin đã bắt đầu nhận ra sự phân biệt thuế hướng nội và hướng ngoại của ông có lẽ không khả thi. “Càng đọc và suy nghĩ về chủ đề này, cha càng thấy xác quyết với ý kiến của mình rằng không thể tồn tại một học thuyết trung gian nào”, ông viết thư cho William vào tháng Ba. Chỉ có hai phương án: “Quốc hội có quyền làm ra tất cả luật cho chúng ta hoặc nó không có quyền làm ra luật nào cả.” Ông bắt đầu nghiêng dần về phương án sau, nhưng thừa nhận rằng ông không chắc chắn.41
Cuộc khiêu vũ khiếm nhã của Franklin quanh vấn đề về quyền lực của Quốc hội trong nửa đầu năm 1768 khiến những người cùng thời với ông (cũng như các sử gia sau này) đi đến nhiều kết luận khác nhau về việc ông thực sự tin vào điều gì hay ông đang chơi trò gì. Thực tế, có nhiều yếu tố réo gọi trong tâm trí ông: ông chân thành hy vọng rằng tính tiết chế và lý trí sẽ giúp khôi phục lại sự hài hòa giữa nước Anh và các thuộc địa; ông muốn lần cuối cùng nỗ lực để giành Pennsylvania khỏi tay các nghiệp chủ; và ông vẫn theo đuổi những thỏa thuận về đất đai đòi hỏi có sự ủng hộ của chính phủ Anh. Hơn hết, như ông thú nhận trong một vài lá thư, quan điểm của ông vẫn đang tuôn chảy và ông vẫn cố gắng ra quyết định.
Còn một yếu tố gây phức tạp khác. Mong muốn góp phần giải quyết mâu thuẫn kết hợp với tham vọng riêng khiến ông hy vọng mình có thể được bổ nhiệm vào một vị trí phụ trách các vấn đề thuộc địa trong nội các. Ngài Hillsborough vừa mới được chỉ định làm Quốc vụ khanh của nội các và Franklin suy nghĩ (một cách sai lầm) rằng ông ta có thể trở nên thân thiện với thuộc địa. “Tôi không nghĩ con người thanh cao này về tổng thể lại thù nghịch với nước Mỹ,” ông viết thư cho một người bạn vào tháng Một. Trong thư gửi cho con trai, Franklin thú nhận một tham vọng có tính cá nhân hơn. Ông nói: “Cha được biết đã có sự thảo luận về việc bổ nhiệm cha làm cấp phó cho ngài Hillsborough”. Ông không giấu việc cơ hội của mình khá mong manh: “Một điểm không thay đổi được ở đây là phần người Mỹ trong cha quá nhiều.”
Đó là điểm mấu chốt trong mâu thuẫn của Franklin. Ông đã khiến bản thân bị hoài nghi. Trong một lá thư gửi một người bạn, ông nhấn mạnh “ở Anh người ta thấy tôi Mỹ quá, còn ở Mỹ người ta thấy tôi Anh quá”. Với những giấc mơ về một đế chế Anh hài hòa và phát triển, ông vẫn mong mình có thể là cả hai. “Sinh trưởng ở một trong hai đất nước; đã sống lâu dài và có những mối liên hệ tốt đẹp với đất nước kia, tôi cầu mong sự thịnh vượng đến với cả hai”, ông tuyên bố. Vì thế, ông bị hấp dẫn bởi - thậm chí hy vọng về - việc đảm bảo cho mình một vị trí trong nội các, để nhờ nó ông có thể cố gắng giữ hai phần của đế chế ở lại với nhau.42
Trong khi Hillsborough củng cố quyền lực bằng việc trở thành người đứng đầu ủy ban thương mại và quốc vụ khanh phụ trách thuộc địa, Franklin cũng giành được sự ủng hộ từ các bộ trưởng người Anh khác. Những người này cảm thấy việc trao cho ông một vị trí trong chính phủ sẽ đem lại một thế cân bằng nào đó. Đáng chú ý trong số đó là Ngài North, người đã trở thành chưởng ấn của kho bạc sau khi Townshend chết. Franklin tới gặp North vào tháng Sáu và bày tỏ ông đã có kế hoạch trở về Mỹ. Song, ông nói thêm rằng, “tôi sẽ vui lòng ở lại nếu bản thân có thể hữu ích theo cách nào đó cho chính phủ.” North hiểu hàm ý và bắt đầu tìm cách sắp xếp sự ủng hộ cho việc bổ nhiệm Franklin.
Việc không thành. Hy vọng được tham gia vào chính phủ Anh của Franklin vụt tắt đột ngột sau một cuộc gặp gỡ dài và đầy tranh cãi với Ngài Hillsborough vào tháng 8 năm 1768. Hillsborough tuyên bố rằng ông ta không có ý định bổ nhiệm Franklin mà thay vào đó sẽ chọn John Pownall, một công chức trung thành, để làm cấp phó cho mình. Franklin bị mất tinh thần. Pownall “dường như có thiên kiến nghiêm trọng về chúng ta,” ông viết thư cho Joseph Galloway, đồng minh trong Hội đồng Lập pháp Pennsylvania. Tồi tệ hơn nữa, Hillsborough cũng từ chối thẳng thừng việc xem xét bất cứ thỉnh nguyện thư nào đề nghị đưa Pennsylvania ra khỏi sự cai trị của các nghiệp chủ. Với hai trong số những mục tiêu lớn của mình tiêu tan, Franklin đã sẵn sàng từ bỏ sự điều độ của ông trong cuộc chiến về các thuộc địa với Quốc hội. Điểm xoay chuyển, cuối cùng, cũng đến.43
MỘT NGƯỜI MỸ YÊU NƯỚCKhi đầu óc đã sáng suốt về tình thế, Franklin cầm lấy cây bút để tiến hành một cuộc chiến tiểu luận chống lại Hillsborough và các sắc thuế của Townshend. Đa số bài viết của ông đều vô danh, song lần này ông ít cố gắng che giấu thân thế. Thậm chí, ông còn ký dưới một trong số các bài luận này một cách trực diện rõ ràng, “Francis Lynn”. Ông lập luận rằng, mối quan hệ giữa hai nước Anh và Mỹ đã luôn thân thiện “cho đến khi ý tưởng dùng quyền lực của Quốc hội để đánh thuế chúng tôi cuối cùng cũng vào đầu các vị bộ trưởng.” Ông tuyên bố, các thuộc địa không hề muốn nổi loạn chống nhà vua, song các bộ trưởng lầm lạc “vì muốn thiết lập một quyền mới cho Quốc hội nhằm đánh thuế một dân tộc xa xôi rất có thể sẽ biến hàng triệu con dân trung thành với nhà vua thành những kẻ nổi loạn.” Ai đó phải làm điều gì đó! “Chẳng lẽ không có một người tốt và khôn ngoan nào ở Anh có thể đề ra một giải pháp hòa giải nào đó để ngăn chặn cái sai này?” Trong một bài viết khác, trong vai một người Anh ưu tư, ông đặt ra bảy câu hỏi cần được xem xét “bởi các quý ông ủng hộ dùng biên pháp mạnh với người Mỹ.” Trong số đó là: “Tại sao họ lại bị tước đoạt tài sản của mình khi không có sự ưng thuận?” Về cá nhân Hillsborough, Franklin gọi ông ta là “Haman mới của chúng ta”.44
Các đối thủ của ông cũng bắn trả. Một bài viết ký tên “Machiavel” trên tờ Gazetteer gọi việc có nhiều người Mỹ đang “lấp đầy mặt báo và dâng hiến những cái cây cho tự do” bằng những lời than trách vì bị đánh thuế, trong khi cùng lúc đó lén lút giới thiệu bạn bè vào các chức vụ và “cố gắng giành lấy địa vị” cho bản thân là “sự chế nhạo đối với chủ nghĩa yêu nước”. Machiavel liệt kê một danh sách gồm 15 kẻ đạo đức giả như thế, trong đó giám đốc bưu điện Franklin đứng hàng đầu. Franklin đáp lại (một cách ẩn danh) rằng người Mỹ chỉ tấn công Quốc hội chứ không phải nhà vua. “Là con dân trung thành với chúa tể của họ, người Mỹ nghĩ rằng họ cũng có quyền hưởng địa vị dưới quyền của người ở Mỹ như một người Scotland ở Scotland hoặc một người Anh ở Anh quốc.”
Suốt năm 1769, Franklin càng lúc càng trở nên lo lắng tình trạng này sẽ dẫn tới một sự đoạn tuyệt. Ông lập luận rằng, nước Mỹ không thể bị thuần hóa bởi các binh đoàn Anh và chẳng mấy chốc nó sẽ đủ mạnh để giành độc lập. Nếu điều đó xảy ra, nước Anh sẽ phải hối hận vì bỏ lỡ cơ hội kiến tạo một hệ thống đế quốc hài hòa. Để trình bày quan điểm của mình, ông xuất bản một truyện ngụ ngôn vào tháng 1 năm 1770 về một chú sư tử nhỏ và một con chó Anh to lớn đi trên cùng một con thuyền. Con chó thường bắt nạt chú sư tử nhỏ và “dùng sức mạnh đề đoạt thức ăn của nó”. Nhưng chú sử tử lớn lên và sau cùng trở nên mạnh hơn con chó. Một ngày, đáp lại tất cả những sự xúc phạm, nó đập lại con chó với “một đòn choáng váng”, khiến con chó “hối tiếc vì đã không giữ gìn tình bạn mà lại tạo ra kẻ thù.” Câu chuyện ngụ ngôn được “khiêm tốn dành tặng” cho Ngài Hillsborough.45
Nhiều nghị sĩ trong Quốc hội đang tìm kiếm sự thỏa hiệp. Có người đề xuất xóa bỏ phần lớn các sắc thuế của Townshend, chỉ để lại thuế đánh lên trà, để khẳng định nguyên tắc Quốc hội có quyền điều tiết thương mại và thuế quan. Đó là loại giải pháp thực tế mà trước đây hẳn sẽ hấp dẫn Franklin. Nhưng giờ đây ông không còn tâm trạng để tỏ ra chừng mực. “Người ta không chỉ than vãn về gánh nặng tiền thuế đánh lên trà mà về nguyên tắc của đạo luật này”, ông viết thư cho Strahan. Việc hủy bỏ một phần “có thể thổi bùng thêm các vấn đề” và dẫn tới “một hành động điên rồ nào đó”. Khi đó, căng thẳng leo thang “sẽ tiếp diễn để hoàn tất sự chia tách.”46
Các cảm xúc về sự chia tách thực chất đã bị thổi bùng lên, nhất là ở Boston. Ngày 5 tháng 3 năm 1770, một thợ học việc trẻ lăng mạ một người lính Anh được cử đến thi hành luật thuế Townshend, một trận ẩu đả nổ ra, chuông vang lên, và một toán dân chúng Boston giận dữ và có vũ trang xuất hiện. “Bắn đi và các người sẽ bị nguyền rủa”, đám đông chế nhạo. Những người lính Anh đã làm vậy. Năm người Mỹ đã chết. Vụ việc lập tức được biết đến với tên gọi Cuộc thảm sát Boston.
Quốc hội tiếp tục việc hủy bỏ một phần của luật thuế Townshend vào tháng đó, chỉ để lại thuế nhập khẩu đánh lên trà. Trong bức thư gửi Charles Thomson, người bạn ở Philadelphia, Franklin kêu gọi tiếp tục tẩy chay các hàng hóa sản xuất ở Anh. Ông lập luận, nước Mỹ phải “kiên định và bảo vệ sự quyết tâm của mình”. Bức thư nhanh chóng được đăng tải trên khắp xứ thuộc địa.
Franklin cuối cùng đã bắt kịp chủ nghĩa ái quốc nhiệt thành hơn đang lan tỏa khắp xứ thuộc địa, nổi bật nhất là ở Massachusetts. Viết cho Samuel Cooper, một mục sư tại Boston, ông khẳng định Quốc hội không có quyền đánh thuế các thuộc địa hay ra lệnh cho các đoàn quân Anh tại đây: “Sự thật là họ không có quyền này và việc họ đòi hỏi quyền này chỉ thuần túy dựa trên sự cưỡng đoạt.”
Nhưng cũng như nhiều người Mỹ, ông vẫn chưa sẵn sàng ủng hộ một sự đổ vỡ hoàn toàn với Britain. Ông cảm thấy giải pháp là một thỏa thuận mới trong đó hội đồng lập pháp của các thuộc địa vẫn giữ lòng trung thành với nhà vua nhưng không còn phục tùng Quốc hội Anh nữa. Ông nói với Cooper, “bởi thế chúng ta hãy níu chặt lòng trung thành với đức vua (người có sự sắp đặt tốt nhất cho chúng ta và có lợi ích gia đình trong sự thịnh vượng của chúng ta) vì sự trung thành bền vững đó là phương pháp khả dĩ nhất đảm bảo cho chúng ta trước quyền lực độc đoán của một Quốc hội tham nhũng vốn không ưa chúng ta và tự nhận thức được lợi ích của nó trong việc kìm kẹp và lừa đảo chúng ta.” Đó là một công thức tinh tế để quản trị khối thịnh vượng chung. Chúa ơi, giải pháp này dựa trên một giả định chưa được chứng minh, cho rằng nhà vua sẽ thông cảm với quyền lợi của xứ thuộc địa hơn Quốc hội.47
Lá thư của Franklin gửi Cooper được đăng tải rộng rãi cũng giúp ông được Hạ viện Massachusetts chọn làm người đại diện tại London. Tháng 1 năm 1771, ông ghé thăm Ngài Hillsborough để trình các thư giới thiệu. Mặc dù đang thay y phục để lên triều, vị bộ trưởng vui vẻ mời Franklin vào phòng. Song, khi Franklin đề cập tới việc bổ nhiệm mới, Hillsborough cười khẩy. “Tôi phải dừng ông tại đây, ông Franklin. Ông không phải là người đại diện.”
“Thưa ngài tôi không hiểu”, Franklin đáp. “Trong túi tôi còn có quyết định bổ nhiệm.”
Hillsborough khẳng định Thống đốc Hutchinson của Massachusetts đã phủ quyết đề nghị bổ nhiệm Franklin.
“Không có đề nghị nào như vậy,” Franklin nói. “Đây là kết quả bỏ phiếu của Quốc hội.”
“Hạ viện không có quyền bổ nhiệm người đại diện”, Hillsborough tức giận vặn lại. “Chúng tôi sẽ không để tâm đến bất cứ vị đại diện nào trừ khi người đó được bổ nhiệm theo luật của Hội đồng Lập pháp và đã được thống đốc chấp thuận.”
Lý luận của Hillsborough rõ ràng là giả dối. Franklin hiển nhiên đã được bổ nhiệm làm đại diện của Hội đồng Lập pháp Pennsylvania mà không được sự đồng ý của các thống đốc nhà Penn. Ông bộ trưởng đang tìm cách xóa bỏ quyền chọn người đại diện cho họ ở London của người dân và Franklin thấy kinh hãi. “Thưa ngài, tôi không thể tưởng tượng nổi tại sao sự đồng thuận của thống đốc lại được xem là cần thiết trong việc bổ nhiệm người đại diện của nhân dân”
Việc thảo luận tuột dốc từ đây. Hillsborough tái mặt, tuôn một tràng về sự cần thiết của thái độ “cứng rắn” của ông ta trong nỗ lực vãn hồi trật tự của đám dân thuộc địa nổi loạn. Franklin thêm vào đây một sự sỉ nhục cá nhân: “Tôi tin là, việc bổ nhiệm có được công nhận hay không, chẳng hề có gì quan trọng, vì tôi không có ý niệm dù là nhỏ nhất, rằng một người đại diện hiện tại có thể có ích lợi gì cho các thuộc địa. Vì thế tôi sẽ không để ngài phải bận tâm thêm.” Đến đây, Franklin đột ngột dời gót, trở về nhà chép lại nội dung cuộc trò chuyện.48
Hillsborough “cảm thấy bị xúc phạm bởi các từ ngữ sau chót của tôi mà ông gọi là cực kỳ thô lỗ và thóa mạ”, Franklin kể lại với Samuel Cooper ở Boston. “Và tôi nhận thấy rằng ông ta quả là không nhầm.”
Ban đầu, Franklin giả vờ không quan tâm đến sự thù địch của Hillsborough. “Các cộng sự trong nội các cũng chẳng ưa ông ta là mấy”, Franklin nói trong lá thư gửi Cooper. Trong một lá thư khác, ông miêu tả Hillsborough là một kẻ “tự mẫn, kiêu ngạo, cực kỳ tự phụ về kiến thức và năng lực chính trị của ông ta, thích tất cả những ai biết cong lưng nịnh bợ mình và thù nghịch với tất cả những ai dám nói với mình những sự thật khó nghe.” Franklin cho rằng, lý do duy nhất khiến ông ta vẫn được nắm quyền là vì, các bộ trưởng khác gặp khó khăn khi “không biết phải quyết định như thế nào hay phải làm gì với một gã ương ngạnh với năng lượng sôi sục”.
Tuy vậy, người ta sớm thấy rõ rằng, trận đấu cuối với Hillsborough khiến Franklin chán nản. Bạn ông, Strahan, nhận thấy ông trở nên “rất kín đáo, thói quen bất tác vi tự nhiên của ông càng rõ hơn và không có cách gì khiến ông tham gia vào bất cứ việc gì.” Nó cũng khiến ông bi quan hơn về kết quả sau cùng của sự căng thẳng ngày càng lên cao giữa Mỹ và Anh. Người ta có thể thấy trong các hành động của Quốc hội “những hạt giống gieo mầm cho sự chia tách hoàn toàn của hai quốc gia,” ông báo cáo với ủy ban Thông tấn Massachusetts, và điều đó hé mở phần cấp tiến hơn trong ông. “Cuộc đấu tranh đẫm máu sẽ kết thúc bằng việc nước Mỹ trở thành nô lệ tuyệt đối, hoặc hủy hoại nước Anh bằng việc đánh mất các thuộc địa.”49
Bất chấp những cảm xúc tiêu cực đó, Franklin vẫn hy vọng về một sự hòa giải. Ông kêu gọi Hội đồng Lập pháp Massachusetts tránh thông qua một sự “phản kháng hay chối bỏ công khai” thẩm quyền của Quốc hội và thay vào đó chọn một chiến dịch được thiết kế nhằm “làm tiêu hao dần thẩm quyền tự xưng của Quốc hội đối với nước Mỹ”. Thậm chí, ông còn đi xa đến mức khuyên Cooper rằng “vì danh dự của mẫu quốc, chúng ta có thể thận trọng dung thứ họ trong mối quan hệ này.” Và ông tiếp tục thúc đẩy chính sách trung thành với nhà vua mà không phục tùng Quốc hội.
Điều này dẫn tới việc một số kẻ thù kết tội ông vì quá chủ hòa. “Ông Tiến sĩ không phải kẻ bị lường gạt mà là công cụ cho sự phản bội của Ngài Hillsborough”, Arthur Lee, một người Virginia tham vọng đã viết cho bạn mình, Samuel Adams. Lee tiếp tục buộc tội Franklin muốn níu giữ vị trí giám đốc bưu điện và địa vị cho con trai. Ông ta nói rằng, tất cả những điều trên giải thích cho tất cả “hành vi có tính điều đình của ông ta trong các vấn đề liên quan đến nước Mỹ”.
Lee cũng có động cơ riêng: ông ta muốn giành vị trí đại diện tại London của Franklin. Song Franklin vẫn nhận được sự ủng hộ của đa số người Massachusetts yêu nước, trong đó có Samuel Adams (ít nhất vào lúc này). Adams phớt lờ lá thư của Lee, để cho nó rò rỉ ra ngoài, và các bạn của Franklin ở Boston, gồm Thomas Cushing và Samuel Cooper, đảm bảo với ông họ luôn ủng hộ ông. Cooper nói sự đả kích của Lee góp phần “khẳng định tầm quan trọng của ngài, trong khi nó bộc lộ sự hèn kém của người viết”. Song nó cũng cho thấy rõ khó khăn mà Franklin phải đối diện khi cố gắng vừa là một người Anh trung thành, vừa là một người Mỹ yêu nước - điều ông đã gặp phải trong cuộc khủng hoảng Đạo luật Tem.50
Chú thích:
[35]
[50]