Chương 11 NỔI LOẠN-London, 1771-1775-NHỮNG KỲ NGHỈ NĂM 1771
Khi mùa hè năm 1771 đến gần, Franklin quyết định tạm thời từ bỏ thế giới của công vụ. Ít nhất là vào lúc này, ông đang lúng túng trong tất cả nhiệm vụ chính trị của mình: cuộc chiến chống lại giới nghiệp chủ và sau đó là Quốc hội, theo đuổi việc cấp đất và sự bổ nhiệm của hoàng gia. Nhưng ông vẫn chưa sẵn sàng trở về. Vì thế, thay vào đó, ông lẩn tránh các áp lực chính trị theo cách ông ưa thích nhất: thực hiện một chuỗi chuyến đi kéo dài cho đến cuối năm. Ông đã đến vùng công nghiệp trung du của nước Anh, tới thăm điền trang của một người bạn vào tháng Sáu và trở lại vào tháng Tám, sau đó đến Ireland và Scotland vào mùa thu.
Trong một chuyến ngao du vô định vào tháng Năm, Franklin ghé thăm làng Clapham, nơi có một chiếc ao lớn. Đó là một ngày gió và nước động mạnh, vì thế ông quyết định thử nghiệm lý thuyết về tác dụng làm dịu của dầu. Chỉ với một thìa dầu, ông kinh ngạc chứng kiến nó “tạo ra sự tĩnh tại ngay lập tức”. Dầu dần loang ra khiến “một phần tư mặt ao, có diện tích đến nửa mẫu, trở nên phẳng lặng như gương soi.”
Dù vẫn tiếp tục nghiên cứu tác động của dầu đối với nước một cách nghiêm túc, Franklin cũng tiêu khiển bằng cách biến nó trở thành một trò ảo thuật. “Từ đó, tôi chủ ý mang theo mình một chút dầu chứa ở khớp rỗng bên trên của cây gậy tre bất cứ khi nào tôi về miền quê,” ông viết. Trong một chuyến thăm nhà Ngài Shelburne, khi đang đi bộ bên dòng suối cùng một nhóm bạn bè trong đó có diễn viên nổi tiêng David Garrick và nhà triết học người Pháp lừng danh Abbé Morellet, ông nói với họ rằng ông có thể làm lặng các con sóng. Ông đi về phía đầu nguồn, vung cây gậy của mình ba lần: dòng suối trở nên yên tĩnh. Sau đó ông mới khoe cây gậy và giải thích trò ảo thuật.1
Chuyến thăm miền trung và miền bắc nước Anh với hai nhà khoa học cộng sự giúp Franklin có cơ hội nghiên cứu cuộc Cách mạng Công nghiệp đang nổ ra ở đây. Ông đến thăm một nhà máy sắt và thiếc ở Rotherham, các cửa hiệu bán đồ kim loại đúc ở Birmingham và một nhà máy lụa ở Derby nơi 63.700 cuộn sợi luôn xoay liên tục “và quá trình xoắn được coi sóc bởi những đứa trẻ dăm bảy tuổi”. Ở Manchester, ông lên một chiếc thuyền ngựa kéo xa hoa do Công tước Bridgewater sở hữu. Đúng như tên của chủ nhân, chiếc thuyền đưa ông lên một chiếc cầu máng cắt qua dòng sông trước khi kết thúc ở một mỏ than. Tới gần Leeds, họ đến thăm khoa học gia Joseph Priestley, người đã làm một số thí nghiệm về điện rất hay cho họ xem, sau đó mô tả rất nhiều loại khí mà ông đã phát hiện.
Franklin lên án hệ thống luật pháp kinh doanh có tính trọng thương của nước Anh, vốn được đặt ra để trấn áp sản xuất ở các thuộc địa, bằng cách lập luận (hơi thiếu thành thật) rằng, nước Anh không bao giờ phải e sợ nước Mỹ sẽ trở thành đối thủ về công nghiệp. Tuy nhiên, trong các thư tín mà ông gửi đi từ chuyến đi năm 1771, ông đưa ra lời khuyên chi tiết về việc lập ra các ngành công nghiệp sản xuất vải vóc, quần áo và kim khí để giúp các thuộc địa tự cung tự cấp được. Trong thư gửi Thomas Cushing, người bạn ở Massachusetts, ông “càng lúc càng tin vào” tính “bất khả thi” của việc nước Anh sẽ đáp ứng kịp nhu cầu hàng may mặc ngày càng gia tăng ở Mỹ. “Vì thế, tình thế cần kíp lẫn thận trọng sẽ sớm khiến chúng ta phải tìm kiếm nguồn lực từ trong chính các ngành sản xuất của mình.”
Franklin trở về London trong khoảng thời gian ngắn ngủi vào đầu tháng Sáu, “kịp để lên triều dự tiệc sinh nhật của nhà vua”, ông viết trong thư gửi Deborah. Dù bất đồng với chính sách thuế của Quốc hội, ông vẫn là một người trung thành ủng hộ Vua George III. “Trong khi chối bỏ quyền lực tự xưng của Quốc hội, tôi mơ ước được thấy sự gắn kết đầy tôn kính với đức vua và hoàng gia được duy trì bền bỉ giữa chúng ta”, ông viết cho Cushing vào tuần đó.2
Sau nửa tháng ở London, Franklin lại lên đường về miền nam nước Anh. Ông đến thăm người bạn Jonathan Shipley tại trang viên của ông ở Twyford, ngay bên ngoài thành Winchester. Là một giám mục Anh giáo ở xứ Wales, song Shipley dành phần lớn thời gian của ông ở Twyford với vợ và năm cô con gái đầy sức sống. Đó là một chuyến thăm viếng thật vui sướng (Franklin hẳn đã định nghĩa từ vui sướng như một ngôi nhà vùng quê, đầy kích thích trí tuệ với năm cô gái trẻ tươi vui) đến mức ông than thở khi phải rời đi sau một tuần để giải quyết đám thư tín đã chất đống ở London. Trong thư cảm ơn gửi nhà Shipley, kèm theo món quà là những trái táo Mỹ sấy, Franklin than thở rằng ông phải “miễn cưỡng hít thứ khói bụi của London” và mong sẽ được trở lại với bầu không khí ngọt ngào của Twyford trong một chuyến thăm dài hơn vào mùa hè đó.3
TỰ TRUYỆNỞ tuổi 65, Franklin đã bắt đầu nghĩ về công việc gia đình nhiều hơn. Ông cảm nhận được tình cảm đối với tất cả họ hàng của mình, bất luận - hoặc bởi vì, như chính ông suy đoán - việc ông tiếp tục sống xa cách họ. Vào mùa hè đó, trong một lá thư dài hơn gửi cho người em duy nhất còn sống, ông khen ngợi vì bà đã sống hòa thuận với con dâu con rể tại Philadelphia. Trong một đoạn hé lộ nhiều điều, ông suy nghĩ về việc những người họ hàng luôn dễ dàng thân thiện hơn nhiều khi ở xa nhau. “Cha chúng ta, người luôn rất khôn ngoan, đã từng nói rằng, chuyện xa thơm gần thối là chuyện cơm bữa; khi người ta ở xa nhau thì yêu thương nhau, khi ở gần thì bới lông tìm vết để không ưa nhau.” Một thí dụ sờ sờ ra đấy, ông nhận định, là mối quan hệ giữa cha ông và Benjamin Lớn. “Dù lúc đó còn nhỏ, anh vẫn nhớ rõ thư từ của họ nồng nàn tình cảm thế nào” khi mà Benjamin Lớn vẫn ở Anh. Nhưng khi ông bác Benjamin chuyển đến Boston, họ bắt đầu vướng vào các “tranh cãi và hiểu lầm”.
Franklin cũng viết thư cho Jane kể về Sally Franklin, một cô bé 16 tuổi đã gia nhập gia đình thứ hai của ông trên Phố Craven. Sally là con duy nhất của một người anh em họ, người vẫn duy trì công việc nhuộm vải của dòng họ Franklin ở Leicestershire. Đi cùng lá thư là một phả hệ chi tiết cho thấy họ đều là hậu duệ của Thomas Franklin vùng Ecton và nhấn mạnh Sally là người cuối cùng ở Anh còn mang họ này.
Niềm yêu mến gia đình của ông được kích thích hơn khi ông tình cờ ghé qua một trong những hiệu sách cũ ưa thích ở London. Người buôn sách cho ông xem một bộ sưu tập các cuốn sách nhỏ về đề tài chính trị, trên đó đầy kín chú thích. Franklin kinh ngạc nhận ra chúng từng thuộc về ông bác Benjamin. “Tôi cho là bác ấy đã phải xa chúng khi rời nước Anh,” Franklin viết trong một lá thư gửi một người họ hàng khác. Và ông lập tức mua chúng.4
Vì thế, cuối tháng Bảy, khi cuối cùng ông cũng thảnh thơi để trở về Twyford trong một kỳ nghỉ dài hơn tại nhà Shipley, ông rơi vào trạng thái trầm tư. Sự nghiệp đang dậm chân tại chỗ và lịch sử gia tộc chiếm lĩnh tâm trí ông. Đó là bối cảnh được dựng lên cho đợt đầu tiên trong nỗ lực bền bỉ nhất của ông, Tự truyện Benjamin Franklin.
“Con trai yêu quý”, ông mở đầu như thể câu chuyện mà ông thuật lại là một lá thư gửi William, người ông bảy năm chưa gặp. Chiêu bài đội lốt thư tín cho phép ông tán gẫu và dễ dãi trong lời văn. Ông giả vờ, ít ra là lúc đầu, rằng đây chỉ là một thư tín cá nhân chứ không phải tác phẩm văn chương. “Tôi đã từng viết một cách bài bản hơn”, ông nói trong một đoạn được ông thêm vào sau khi đọc lại những sự lạc đề lan man về phả hệ mà ông đã thảo ra trong ngày đầu tiên. “Song người ta không ăn mặc để đi họp hội kín giống như đi dự vũ hội.”
Liệu cuốn tự truyện có thật chỉ dành cho hội kín của con trai ông? Không. Rõ ràng là ngay từ đầu Franklin đã muốn viết cho công chúng. Thứ thông tin gia đình có thể khiến con trai ông thích thú đã bị bỏ qua hoàn toàn: danh tính và mô tả về mẹ đẻ của William. Franklin cũng không viết thư trên thứ giấy thông thường; thay vào đó, ông sử dụng nửa bên trái của những tờ giấy đôi khổ lớn, chừa lại nửa bên phải trống để sửa chữa và bổ sung.
Bắt đầu ngày viết thứ hai của mình, ông dừng lại để phác họa toàn bộ sự nghiệp, điều đó cho thấy ý định xây dựng một ghi chép đầy đủ. Cũng trong sáng hôm đó, ông sử dụng cột trống bên phải của các trang đầu tiên để viết thêm một phần dài biện hộ cho sự phù phiếm của ý định “nuông chiều xu hướng rất tự nhiên ở những người già cả, đó là nói về chính họ”. Ông tuyên bố mục tiêu của ông là kể lại quá trình vươn lên từ tối tăm tới nổi bật để cung cấp một số gợi ý hữu ích về cách ông đã thành công. Ông cũng bày tỏ hy vọng, những người khác có thể thấy chúng phù hợp để học theo.
Điều này rõ ràng hướng đến đối tượng độc giả xa hơn con trai mình, người khi đó đã 40 tuổi và là thống đốc của New Jersey. Tuy nhiên, có một ẩn ý nhằm vào anh ta: William làm ra vẻ ta đây từ khi trở thành thống đốc và anh ta còn chết mê chết mệt về tầng lớp quý tộc và tổ chức đoàn thể hơn rất nhiều so với cha mình. Cuốn tự truyện sẽ là một lời nhắc nhở về nguồn cội khiêm nhường của họ và là một bài tán ca về sự cần mẫn, tùng tiệm, những đức tính của người chủ hiệu và vai trò của tầng lớp trung lưu cần cù vốn chống lại hơn là noi theo sự giả tạo của tầng lớp tinh hoa dòng dõi.
Trong gần ba tuần, Franklin viết vào ban ngày và sau đó đọc to vài đoạn cho nhà Shipley vào buổi tối. Bởi tác phẩm được viết như một bức thư và còn được đọc to, văn phong của Franklin mang giọng điệu của một ông lão kể chuyện đáng mến. Thiếu vắng sự bóng bẩy của ngôn từ, hầu như không có một ẩn dụ hay thi ca hoa mỹ nào, câu chuyện trôi chảy như một sợi dây của những giai thoại khôi hài và những bài học dạy dỗ. Đôi lúc, tự thấy mình quá kiêu ngạo khi viết về một sự việc, ông đã sửa lại bằng việc thêm vào một nhận xét có tính tự chế giễu hoặc mỉa mai từ bên ngoài, giống như lối một người kể chuyện sau bữa tối giỏi thường làm.
Kết quả là, một trong những tác phẩm văn chương lôi cuốn nhất của Franklin đã ra đời: bức chân dung tự họa về tuổi trẻ của ông. Tiểu thuyết gia John Updike từng gọi đây là “tác phẩm thờ ơ một cách bốc đồng, đầy rẫy mâu thuẫn tươi vui và nút thắt hài hước - một cái ngoái nhìn đầy trìu mến về chính bản thể trẻ tuổi hơn, đem lại cho chàng trai trẻ cực kỳ tham vọng thứ quyền lợi của sự thư thái đến từ một ông lão.”
Pha trộn giữa sự tách biệt khôi hài và sự tự nhận thức thích thú, Franklin có thể giữ cho tác phẩm của mình đôi chút xa cách để vừa tự khiêm tốn bày tỏ vừa không quá sa đà vào việc đó. Trong tất cả các giai thoại có tính giáo huấn, ông chỉ thêm vào chút ít dấu hiệu của nỗi đau đớn bên trong, không hề có sự đấu tranh của tâm hồn hoặc sự suy tưởng tâm linh sâu kín hơn. Sự hồi tưởng phong phú hơn là sâu sắc của ông đem lại một góc nhìn tươi vui, và hé lộ ở tầng nghĩa sâu hơn về một cách tiếp cận cuộc sống giản dị mà ông tìm thấy trong việc phục vụ đồng loại và qua đó là Thiên Chúa của mình. Những gì ông viết ít có mưu cầu nào khác ngoài mong muốn chọc cười tất cả mọi mưu cầu. Đó là tác phẩm của một con người có tính cộng đồng, thích kể lại những câu chuyện và biến chúng thành những truyện ngụ ngôn mộc mạc để có thể dẫn tới một cuộc đời tốt hơn và đào sâu vào chỗ nông cạn của những bài học giản đơn.
Với một số người, sự đơn giản này chính là điểm thất bại của nó. Nhà phê bình văn học vĩ đại Charles Angoff tuyên bố “nó thiếu gần như mọi thứ đề trở thành một tác phẩm văn học thật sự vĩ đại: sự uyển chuyển trong cách thể hiện, sự lôi cuốn của tính cách và sự bay bổng của trí tuệ”. Song chắc chắn sẽ thật bất công nếu nói nó thiếu sự lôi cuốn của tính cách. Sử gia Henry Steele Commager chỉ ra, “chính sự đơn giản phi nghệ thuật, sáng suốt, lối dùng thành ngữ giản dị, sự tươi tắn và hài hước đã khiến nó luôn tươi mới với mỗi thế hệ độc giả”. Thực tế, nếu được đọc với một con mắt không hằn học, nó thuần túy là một niềm hân hoan và là nguyên mẫu của văn chương bình dân Mỹ. Qua hàng trăm ấn bản ở gần như mọi ngôn ngữ, nó được định sẵn đề trở thành cuốn tự truyện nổi tiếng nhất thế giới.
Trong thời đại của hồi ký ăn liền này, một điều quan trọng cần ghi nhớ là, Franklin đã tạo ra một thứ tương đối mới ở thời đại ông. Tự bạch của Thánh Augustine chủ yếu kể về chuyện cải giáo của ông, còn Tự bạch của Rousseau vẫn chưa được xuất bản. “Gần như chưa từng có cuốn tự truyện nổi tiếng nào trước Franklin, nên ông không có bất cứ khuôn mẫu nào”, Carl Van Doren viết. Điều đó không hoàn toàn đúng. Trong số những người đã xuất bản một kiểu tự truyện nào đó có Benvenuto Cellini, Ngài Herbert vùng Cherbury và Giám mục Gilbert Burnet. Nhưng, Van Doren đã chính xác khi nói rằng Franklin “viết cho tầng lớp trung lưu, vốn ít có sử gia riêng. Cuốn sách của ông là kiệt tác đầu tiên dưới dạng hồi ký viết bởi một con người tự lập”. Mẫu hình gần nhất mà ông có, xét về văn phong tường thuật, là một trong các cuốn sách mà ông yêu thích - kể về giấc mơ có tính phúng dụ của John Bunyan, Tiến trình của kẻ hành hương. Song câu chuyện của Franklin kể về một kẻ hành hương có thật, dù là một kẻ lầm lỗi, trong một thế giới có thật.
Khi rời Twyford vào giữa tháng Tám, ông đã hoàn tất phần đầu tiên trong số bốn phần của cuốn Tự truyện nổi tiếng sau này. Nó đưa ông qua những năm tháng khi còn là một thợ in trẻ say mê những nỗ lực công dân và kết thúc với việc thành lập thư viện Philadelphia cùng các chi nhánh vào năm 1731. Ông chỉ để một nhận định về chính trị len vào những dòng chữ cuối cùng. Ông viết: “Các thư viện này đã làm cho các thương gia và nông dân bình dân cũng thông tuệ như hầu hết quý ông đến từ các quốc gia khác và có lẽ đã đóng góp ở một mức độ nào đó vào lập trường phổ quát khắp các thuộc địa trong cuộc đấu tranh bảo vệ các đặc quyền của họ.” Nếu đó là 13 năm về trước, theo sự thúc giục của bạn bè, ông sẽ tâng bốc phần này của câu chuyện.5
Luôn háo hức tạo ra một gia đình bất cứ nơi nào ông có thể, Franklin kèm cặp Kitty, cô con gái út của Shipley, khi đó 11 tuổi, và đưa cô lên xe cùng ông trở về London, nơi cô sẽ theo học. Dọc đường đi, hai người trò chuyện về mẫu đàn ông mà mỗi cô con gái nhà Shipley sẽ lấy làm chồng. Kitty cảm thấy tất cả chị gái đều xứng đáng với một thương gia hoặc một quý tộc giàu có. Về phần mình, Kitty duyên dáng thừa nhận “cháu thích một ông già, thật sự là như vậy. Theo cách này hay cách khác, tất cả những người đàn ông lớn tuổi đều hấp dẫn cháu”. Franklin gợi ý rằng có lẽ cô nên cưới một người đàn ông trẻ tuổi hơn, “và để anh ta già đi trên tay cháu, vì cháu sẽ thích anh ta hơn sau mỗi năm khi mà anh ta già đi”. Kitty đáp rằng cô thích cưới một người nào đó đã có tuổi “và bác biết đấy, cháu có thể trở thành một góa phụ trẻ giàu có”.
Một công cuộc tán tỉnh suốt đời nữa lại bắt đầu. Ông nhờ vợ gửi một con sóc từ Philadelphia để làm thú cưng cho các cô gái nhà Shipley. Một năm sau đó, khi con vật bị kết liễu không đúng lúc trong hàm của một con chó, ông đã soạn một đoạn văn bia hoa mỹ và sau đó thêm mấy câu thơ giản dị hơn, về sau trở nên nổi tiếng: “Nơi đây/ Skugg nằm khoan khoái/Như một con rận/ Trên tấm thảm.” Tình cảm của Franklin với Kitty trở nên bất diệt 15 năm sau, khi ở tuổi 80, ông viết cho cô một tiểu luận ngắn có tiêu đề “Nghệ thuật có được những giấc mơ êm dịu.”
Vào buổi tối cuối cùng ở Twyford, nhà Shipley khăng khăng muốn tổ chức một bữa tiệc sinh nhật vắng mặt cho Benjamin Franklin Bache, đứa cháu trai 2 tuổi của ông ở Philadelphia. Khi nâng cốc chúc mừng, bà Shipley đã nói: “Mong cháu có thể giỏi giang như ông ngoại!” Franklin đáp, thật lòng ông hy vọng Benny sẽ giỏi giang hơn mình nhiều. Tới đây, Giám mục Shipley nói thêm: “Chúng ta sẽ dàn xếp việc này và hài lòng nếu cậu bé không tỏ ra giỏi giang được đến vậy".6
Điều kỳ lạ trong mọi tình cảm dành cho Benny này là việc Franklin chưa bao giờ gặp cậu và cũng chưa từng thể hiện ý muốn này. Ông thậm chí còn chưa gặp cha của cậu bé. Vào lúc đó, Richard Bache đang đến Anh để thực hiện sứ mệnh tìm gặp người cha vợ nổi tiếng. Bache xuất hiện không báo trước ở Phố Craven, nơi bà Stevenson vui vẻ đón anh. Tuy vậy, Franklin đã lên đường chỉ sau hơn một tuần ở London để thực hiện một kỳ nghỉ kéo dài khác.
IRELAND VÀ SCOTLANDĐi du lịch với Richard Jackson, một đại diện khác của Pennsylvania ở Anh, Franklin rời London vào cuối tháng 8 năm 1771 và dành ba tháng ở Ireland và Scotland, hy vọng tìm hiểu, liệu mối quan hệ mà các nước này đang cố gắng củng cố với Đế chế Anh có thể trở thành kiểu mẫu cho nước Mỹ hay không. Có một số tín hiệu khả quan. Khi đến thăm Quốc hội Ireland, Jackson được quyền ngồi trong phòng bởi ông là nghị sĩ của Quốc hội Anh. Khi nhìn thấy ngài Franklin lừng danh, người phát ngôn đề nghị rằng, bởi lẽ ông đại diện cho các cơ quan lập pháp của Mỹ, ông cũng nên được hưởng biệt đãi tương tự. “Cả Hạ viện đồng loạt reo hò nhất trí,” Franklin kể lại với Cushing. “Tôi xem đó là dấu hiệu kính trọng đất nước chúng ta.”
Mặt khác, nhiều điều ông quan sát được ở Ireland lại khiến ông rầu rĩ. Nước Anh kiểm soát rất hà khắc thương mại của Ireland, còn các địa chủ người Anh vắng mặt bóc lột các tá điền người Ireland. “Họ sống trong những ngôi nhà khốn khổ đắp bằng bùn và rơm, quần áo rách rưới và tồn tại chủ yếu nhờ khoai tây,” ông nhận xét. Cú sốc về sự chênh lệch giàu nghèo khiến ông thêm tự hào vì nước Mỹ đã xây dựng một tầng lớp trung lưu lớn mạnh. Ông viết, sức mạnh của nước Mỹ nằm ở các chủ thái ấp và các thương nhân kiêu hãnh, những người có quyền bỏ phiếu về những vấn đề công cộng và có dư cơ hội để lo cho gia đình đủ ăn, đủ mặc.7
Khi ở Dublin, Franklin tình cờ gặp kẻ thù của mình, Ngài Hillsborough, người có điền sản gia đình ở phía bắc Ireland. Điều bất ngờ là Hillsborough nhất định mời ông và Jackson ghé qua trên đường đi Scotland. Trong lòng Franklin rất mâu thuẫn. Ông viết cho một người bạn: “Vì đây có thể là cơ hội để nói gì đó về những sự việc ở Mỹ, tôi quyết định nghe theo lời mời của ông ta.” Sau đó, ông lại viết cho con trai mình, nói rằng ông quyết định không đi. Nhưng vì Jackson nhất quyết muốn đi, mà Franklin lại không tìm được một cỗ xe khác, vì thế ông phải theo gót.
Đó là một chuyến thăm thân tình đến mức đáng kinh ngạc. Tại nhà của Hillsborough, Franklin bị “giữ chân bởi cả ngàn điều lịch sự” suốt gần một tuần. Vị bộ trưởng “có vẻ chú ý tới mọi thứ sao cho thời gian tôi lưu lại nhà ông ấy thật thoải mái.” Điều đó thậm chí bao gồm cả việc “đặt chiếc áo choàng của ông ấy lên vai tôi khi tôi ra ngoài, để tôi không bị cảm lạnh”.
Khi bàn về sự nghèo khổ của Ireland, Hillsborough đổ lỗi cho nước Anh vì hạn chế việc sản xuất tại đây. Franklin hỏi, chẳng phải điều này cũng đúng khi nói về chính sách của Anh với Mỹ hay sao? Điều khiến Franklin hài lòng là việc Hillsborough đáp rằng “nước Mỹ không được phép bị hạn chế sản xuất”. Ông ta thậm chí còn đề xuất trợ cấp cho ngành công nghiệp lụa và rượu của Mỹ, đồng thời rất vui lòng lắng nghe ý kiến và lời khuyên của Franklin về vấn đề này, cũng như cách thức thiết lập chính quyền ở Newfoundland. Liệu Franklin có xem xét tới những điều này và “ủng hộ ông ta bằng tình cảm của mình” khi trở về London?
“Lẽ nào con không thấy tất cả những điều này thật lạ lùng?” ông viết thư cho con trai. Trong thư gửi Thomas Cushing, ông cho rằng có thể có một cách giải thích thô lỗ hơn. Lối hành xử của Hillsborough có thể chỉ có nghĩa là “việc vỗ về, vuốt ve con ngựa, khiến nó nhẫn nại hơn khi dây cương siết chặt hơn và gót giày thúc sâu hơn vào hai bên sườn”. Hoặc có lẽ “ông ta hiểu rõ một trận bão đang đến gần và mong muốn hạn chế sớm số kẻ thù mà ông ta đã quá lơ đễnh tạo ra”.8
Franklin tới Edinburgh muộn vào một ngày thứ Bảy sau những cơn bão và trận lụt và có một đêm “trú chân thảm hại” ở một quán trọ. “Nhưng người Ki-tô hữu xuất sắc David Hume, tin theo giới luật của phúc âm, đã tiếp đón người lạ và cha hiện đang ở nhà ông ấy”, Franklin kể lại vào ngày tiếp theo. Người bạn cũ Hume đã dựng một ngôi nhà mới và tự hào rằng món súp đầu cừu do gã đầu bếp của ông nấu là ngon nhất châu Âu. Câu chuyện bên bàn ăn cũng thật đáng ghen tị: triết học (Hume gần đây đã kết bạn với Rousseau ở Paris), lịch sử, và tình thế của các thuộc địa Mỹ.
Sau 10 ngày, Franklin lên đường đi về phía tây để tới Glasgow gặp Ngài Kames, một triết gia Scotland khác mà ông yêu thích. Kames cũng là một nhà sinh vật học vĩ đại: ông trồng các lùm gồm nhiều loài cây. Những cây mà Franklin trồng trong chuyến thăm này đến nay vẫn còn sống. Trên đường trở về Edinburgh, Franklin dừng chân ở xưởng sắt Carron, nơi James Watt* đang chế tạo động cơ hơi nước, để tiếp tục nghiên cứu về công nghiệp hóa. Trong số các vũ khí đang được đúc mà họ thấy, một số sẽ được sử dụng để chống lại các thuộc địa vài năm sau đó - những khẩu súng thần công nặng tới 32 tấn.
Trở lại nhà Hume tại Edinburgh, Franklin dành thêm ít ngày để tận hưởng vòng tròn trí tuệ ở đây. Ông gặp gỡ Adam Smith, người được thuật lại là đã cho ông xem vài chương đầu của cuốn Sự giàu có của các quốc gia khi đang viết dở. Có lẽ vì ngờ rằng họ sẽ không bao giờ còn được gặp lại người bạn Mỹ này, Hume tổ chức một bữa tối chia tay, trong đó có mặt đông đảo những học giả và cây bút người Scotland mà Franklin yêu mến, kể cả Ngài Kames.9
GẶP BACHEFranklin định ở lâu hơn với Hume, song có hai lá thư tìm đến ông khi ông đang ở đây. Một là của con rể ông, Richard Bache. Vì lỡ không gặp Franklin ở London, Bache đã về thăm mẹ đẻ ở Preston, một thành phố về phía bắc nước Anh, gần Manchester. Lá thư kia là của Polly. “Anh Bache đang ở Preston, nơi anh ấy vui lòng chờ đợi với hy vọng gặp bác khi bác trở về. Mọi người đều rất hài lòng về anh ấy.” Vì thế Franklin vội thu xếp trở về London và quyết định gặp chàng rể mới trên đường đi.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi mà tại Philadelphia, Sally Franklin Bache, đang phiền muộn không biết chồng và cha cô sẽ hòa thuận ra sao. “Nếu mọi thứ không thân mật như em mong ước,” cô viết cho Richard, “em biết khi anh nghĩ tới việc ông là cha em, lòng tốt và tình cảm của anh dành cho em sẽ khiến anh muốn cố gắng một chút để giành lấy sự yêu mến và tình bạn của ông.” Nhưng hóa ra, nỗi lo sợ của cô là không có căn cứ. Bache vui vẻ viết thư cho Deborah: “Con có thể vô cùng mãn nguyện nói với mẹ rằng, cha đón tiếp con bằng đôi cánh tay mở rộng với một mức độ tình cảm mà con không hề ngờ tới.” Anh đặc biệt hài lòng khi mọi người đều nói anh trông giống Franklin.
“Con lấy làm vui mừng nếu được giống cha về mọi khía cạnh”, Bache nhiệt tình nói.
Thực tế, ông lão quyến rũ này gây ấn tượng với mọi người trong gia đình Bache, nhất là mẹ anh, Mary Bache, một góa phụ 68 tuổi “oai vệ” và “nghiêm túc”, từng sinh hạ 20 đứa trẻ trong đời mình. Trong suốt chuyến thăm, bà thức đến nửa đêm nói chuyện với Franklin. Vài tuần sau đó, Franklin gửi cho bà một lá thư cảm ơn và vài con hàu cùng bức chân dung của chính ông (thói phù phiếm của ông chưa hoàn toàn bị chế ngự). Bà Bache mang nó đi lên đi xuống từ phòng khách tới phòng ăn để có thể nhìn thấy nó mọi lúc. “Nó giống bản gốc đến mức ông không thể tưởng tượng được niềm vui thích của chúng tôi khi ngắm nó, vì chúng tôi có thể cảm nhận được trong đó sự tương đồng với cả con trai tôi và với chính ông.”10
Bache trở về London cùng Franklin, ở với ông một thời gian tại Phố Craven và nỗ lực làm ông hài lòng. “Lối cư xử của cậu ta ở đây khiến anh bằng lòng”, Franklin kể với Deborah. Song tình cảm của ông không mở rộng đến mức trao cho Bache sự giúp đỡ mà anh ta đang tìm kiếm để được bổ nhiệm một vị trí trong bộ máy công quyền, ví dụ thanh tra hải quan. “Cha cho rằng bất cứ nghề nghiệp nào một con người đã được đào tạo đều đáng làm hơn là một chức vụ... phụ thuộc vào sự bất thường của bề trên.” Thay vào đó, ông khuyên Bache trở về nhà, trở thành một thương nhân và “chỉ bán hàng đổi lấy tiền tươi” và “luôn gần gũi” vợ mình. Cần phải nhớ rằng lời khuyên này đến từ một người đàn ông sống cách vợ một đại dương trong gần 15 năm và luôn đeo đuổi việc được hoàng gia bổ nhiệm vào vị trí giám đốc bưu điện.
Về phần Sally, ông khuyên rằng cô nên học kế toán (chủ đề muôn thuở) để trợ giúp chồng mình. “Trong việc chăm lo cửa hiệu, nếu đó là nơi con cư trú, con có thể hỗ trợ chồng như cách mẹ con đã làm cho cha; vì con không thiếu khả năng và ta hy vọng con không quá tự mãn.” Vợ chồng Bache, vốn luôn cẩn trọng, sau cùng đã sống trong ngôi nhà của Deborah và mở một cửa hiệu tại một trong những tòa nhà của Franklin trên Phố Chợ. Họ quảng cáo “chỉ nhận tiền mặt” khi buôn bán các thứ vải lụa. Và như Bache than phiền với Frankin, khi cửa hàng này trở thành một “mối quan tâm đáng thương”, anh ta đã chuyển sang “kinh doanh rượu và rau quả” và cũng làm ăn kém. Địa vị và hoàn cảnh đó không phải lỗi của người có học vấn như Sally và có tham vọng như Bache, song họ tuân thủ mệnh lệnh của Franklin về việc không nên quá tự mãn.11
Deborah rất thường xuyên cho viết thư Franklin kể về cháu trai Benny của họ đến nỗi người ta có thể nhận ra một dấu hiện răn đe trong những thư hồi âm của ông: “Anh nhận thấy em rất yêu thằng bé và niềm hạnh phúc của em gói trọn trong nó.” Ông khen ngợi bà vì đã không can dự vào một cuộc cãi vã khi Sally tìm cách dạy dỗ Benny: “Từ sự yêu quý của em dành cho cháu, anh sợ rằng nó sẽ quá được chiều chuộng và có thể hư hỏng.”
Tuy thế, ông lại nghĩ khác về việc làm hư cậu con trai của Polly Stevenson, William Hewson, mới chào đời vào mùa xuân đó. “Cầu chúc cho cậu bé có được mọi thứ nó thích”, ông viết thư cho Polly. “Điều đó đem lại cho lũ trẻ một nét tươi vui và gương mặt chúng nhờ đó mà đẹp đẽ hơn cả.” Cũng trong lá thư này, ông lạc quan đáp lại việc Polly trêu chọc rằng mẹ cô đã có một người bạn trai mới. “Ta đã quen với việc có đối thủ”, Franklin đáp “và hiếm khi ta có một người bạn hoặc tình nhân nào trong đời mà người khác lại không ưa thích như chính bản thân ta.”
Trong vòng hai năm, Billy Hewson đã trở thành cháu trai thay thế của Franklin. Trả lời một lá thư khác của vợ kể về cháu ruột, ông nói: “Đáp lại câu chuyện về cháu trai của em, anh sẽ kể cho em chút ít về con trai đỡ đầu của anh. Thằng bé 21 tháng, rất khỏe mạnh và bắt đầu biết nói bập bẹ, thậm chí biết hát. Tuần trước, nó mới ở đây cùng mọi người ít ngày, nó rất thích anh và sẽ không chịu ngồi xuống dùng bữa sáng mà không bật tiếng gọi Cha.” Tuy vậy, ông chủ ý nói thêm rằng ngắm nhìn Billy “khiến anh mong được ở nhà để chơi cùng Ben”.12
NHIỀU KHOA HỌC VÀ PHÁT MINH HƠNKhi đổ thìa dầu trên mặt ao ở Clapham và nhận thấy nó loang ra nửa mẫu, Franklin đã đến gần với một khám phá mà phải một thế kỷ sau mới được thực hiện: xác định kích thước của phân tử. Nếu lấy dung tích của chiếc thìa cà phê (2 cm3) và chia cho diện tích nửa mẫu mà nó bao phủ (2.000 m2), Franklin hẳn đã đạt đến con số 10-7 cm (độ dày của một phân tử dầu). Charles Tanford đã nhận định trong cuốn sách tuyệt vời có tựa đề Ben Franklin làm lặng sóng. “Franklin thực sự là người đầu tiên xác định chính xác quy mô của kích thước phân tử nhưng ông không hề biết điều này.”
Franklin luôn giỏi ứng dụng thực tế hơn phân tích lý thuyết. Thay vì suy đoán kích thước của phân tử, ông tìm cách vận dụng thí nghiệm về dầu và nước của mình. Liệu có thể giúp tàu bè tránh sóng dữ bằng cách đổ dầu xuống biển? Cùng ba người bạn đến từ Học viên Hoàng gia, ông đã đến cảng Portsmouth để xem xét. Franklin kể lại: “Thí nghiệm không thành công như chúng tôi mong đợi.” Các gợn sóng bề mặt trở nên êm ả, song lực của lớp sóng bên dưới thì không (có lẽ đây lại là một ẩn dụ khác). Tuy vậy, báo cáo về việc thí nghiệm thất bại của ông được coi là đủ hữu ích để đăng trên Kỷ yếu Triết học của Hội Hoàng gia.13
Trong suốt quãng thời gian ở Anh, bất cứ khi nào có thể thoát khỏi các đòi hỏi chính trị, ông lại tiếp tục với các truy vấn khoa học của mình. Sau khi ông lắp đặt vài cột thu lôi trên Nhà thờ chính tòa Thánh Paul, những người canh gác đạn dược hoàng gia cũng yêu cầu ông đề xuất cách chống sét cho các tòa nhà của họ. Điều này một lần nữa lôi kéo Franklin vào cuộc tranh cãi về việc các cột thu lôi nên có mũi nhọn hay tròn. Franklin nhất định muốn mũi nhọn, song (có thể vì lý do chính trị), Vua George đã chuyển chúng thành mũi tròn sau cuộc Cách mạng Mỹ. Franklin cũng thiết kế hệ thống ống nước nóng để giữ ấm cho Hạ viện.
Những chuyến phiêu lưu vào khoa học và phát minh khác của ông trong những năm tháng ở London gồm có:
• Nguyên nhân của chứng cảm cúm: Dù vi khuẩn và vi rút chưa được phát hiện, Franklin là một trong những người đầu tiên lập luận rằng cảm cúm có thể lan truyền do lây nhiễm hơn là do không khí lạnh. “Đi du lịch trong mùa đông khắc nghiệt của chúng ta, tôi thường phải chịu cái lạnh cực độ đến mức chỉ thiếu nước đóng băng, song điều đó không khiến tôi bị cảm”, ông viết cho thầy thuốc Benjamin Rush ở Philadelphia vào năm 1773. “Người ta thường lây cảm cúm từ người khác khi bị nhốt chung vào những căn phòng, toa xe chật chội,... và khi ngồi gần trò chuyện để phải hít vào mồ hôi của người khác.” Phương thức bảo vệ tốt nhất là không khí trong lành. Suốt cuộc đời mình, Franklin thích sự thông thoáng và những cửa sổ rộng mở, ngay cả giữa mùa đông.14
• Nghiên cứu về việc tập thể dục: Ông lập luận rằng, một cách để ngừa cảm lạnh là tập thể dục thường xuyên. Theo ông, cách tốt nhất để đo lường việc tập luyện không phải thời gian mà “dựa trên độ ấm nó tạo ra cho cơ thể”. Đây là một trong các lý thuyết đầu tiên kết nối việc tập luyện với calo nhiệt. Ví dụ, ông giải thích, đi bộ một dặm lên xuống cầu thang tạo ra nhiệt độ cơ thể gấp năm lần so với đi bộ một dặm trên đường bằng. Franklin tính toán rằng việc tập tạ làm mạch của ông tăng từ 60 lên 100 nhịp mỗi phút. Một lần nữa, ông nhận định chính xác rằng “độ ẩm của cơ thể làm gia tăng tốc độ của mạch”.15
• Ngộ độc chì: Là một thợ in, Franklin nhận thấy việc xử lý các khuôn chì nóng thường gây hội chứng cứng tay chân hay tê liệt. Ông cũng nhận thấy những người ở một số ngành nghề thường dễ mắc chứng bệnh nghiêm trọng gọi là “đau bụng khô”. Một người bạn đưa thêm chứng cứ bằng việc nhận xét rằng những người uống rượu rum cất từ những bình có sử dụng các cuộn kim loại cũng mắc bệnh này. Trong vai trò một nhà dịch tễ học, Franklin trở thành một trong những người đầu tiên khám phá nguyên nhân của bệnh này. “Nó ảnh hưởng tới các thương nhân có tiếp xúc với chì, dù ngành nghề của họ khác nhau đến đâu, thí dụ thợ tráng men, thợ đúc khuôn, thợ sửa ống nước, thợ gốm, người sản xuất chì trắng và họa sĩ.” Bên cạnh những điều khác, ông đề xuất rằng, cuộn ống trong các bình cất rượu nên được làm từ thiếc nguyên chất thay vì hợp kim có chứa chì.16
Tàu thuyền trên các dòng kênh: Khi đến thăm Hà Lan, Franklin và bạn ông, Ngài John Pringle, chủ tịch Hội Hoàng gia, được cho biết tàu thuyền đi qua các con kênh nước nông di chuyển chậm hơn khi đi qua các con kênh nước sâu. Franklin suy đoán nguyên nhân là do khi một con tàu di chuyển một khoảng cách nhất định, nó sẽ thay thế một lượng nước đúng bằng thể tích vỏ tàu chiếm chỗ dưới mặt nước. Lượng nước này khi đó sẽ phải chạy qua bên cạnh hoặc bên dưới chiếc tàu. Nếu lối đi bên dưới bị hạn chế vì nước nông, một khối nước lớn hơn sẽ phải đi qua hai bên sườn chiếc tàu, vì thế làm nó chậm lại. Đây là một lý thuyết khoa học có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Vì thế, ông đã phản ứng phù hợp. “Tôi quyết định làm một thí nghiệm về vấn đề này”, Franklin viết cho Pringle. Ông đã đóng một máng gỗ dài 4 m, rộng và sâu 16 cm, bên trong đặt một chiếc thuyền nhỏ kéo bằng một dây lụa. Sợi dây mắc qua một chiếc ròng rọc và được kéo bởi trọng lượng của một đồng xu nhỏ. Ông tính toán nhiều lần tốc độ mà chiếc thuyền mô hình di chuyển khi mực nước có các độ sâu khác nhau. Kết quả cho thấy: phải mất thêm 20% sức lực và thời giờ để di chuyển tàu thuyền qua một con kênh nông so với một con kênh sâu.17
Độ mặn của đại dương: Vào thời đó, ý kiến chủ đạo về việc tại sao nước biển lại mặn cho rằng ban đầu chúng đều chứa đầy nước ngọt, nhưng qua thời gian, chúng tích trữ muối và khoáng đổ về từ các dòng sông. Trong lá thư gửi anh trai Peter, Franklin đã suy đoán rằng cũng có đủ bằng chứng cho một giả thuyết khác: “Ban đầu, nước trên khắp hành tinh này đều mặn; và nước ngọt mà chúng ta thấy ở các sông suối là sản phẩm của chưng cất.” Về sau, người ta biết Franklin đã sai trong trường hợp này. Qua hàng thế kỷ, nước biển ngày càng mặn hơn.18
Đàn armonica: Một trong các phát minh thú vị nhất của ông là thứ nhạc cụ được ông gọi là armonica. Nó bắt nguồn từ việc quan sát hành vi của các vị khách sau bữa tối buồn chán (và một vài nhạc sĩ) đã tạo ra một âm thanh cộng hưởng bằng cách rê ngón tay ướt quanh vành của chiếc ly. Franklin đã dự một buổi hòa nhạc tại Anh, ở đó âm nhạc được trình diễn trên các ly rượu. Vào năm 1761, ông hoàn tất ý tưởng bằng việc lấy 37 chiếc bát thủy tinh gồm nhiều kích cỡ khác nhau và gắn chúng vào một trục xoay. Ông dựng một bàn đạp chân và bánh đà để xoay ngược, điều đó cho phép tạo ra nhiều âm điệu nhờ nhấn những ngón tay ướt trên các mảnh thủy tinh. Trong một bức thư gửi cho một nhà kỹ thuật điện người Ý, Franklin mô tả tường tận thứ nhạc cụ mới. Ông nói: “Đây là một nhạc cụ đặc biệt được thiết kế phù hợp với âm nhạc của Ý, nhất là loại nhạc êm dịu và ai oán.” Đàn armonica của Franklin đã có lúc là một cơn sốt. Hoàng hậu Pháp Marie Antoinette đã từng học qua về nó, Mozart và Beethoven cũng viết một số tác phẩm cho nó và những âm điệu ám ảnh của nó trở nên phổ biến tại các lễ cưới. Nhưng nó có xu hướng gây ra chứng u uất, có lẽ từ việc ngộ độc chì, và cuối cùng hết được ưa chuộng.19
TRIẾT LÝ XÃ HỘISau nhiều năm, Franklin đã hình thành một góc nhìn xã hội với sự pha trộn của các tư tưởng tự do, dân túy và bảo thủ. Nó sẽ trở thành khuôn mẫu cho triết lý của tầng lớp trung lưu Mỹ. Ông ca ngợi tính chăm chỉ, sự dấn thân cá nhân, tính cần kiệm và tự lực. Mặt khác, ông cũng thúc đẩy sự hợp tác công dân, lòng từ tâm xã hội và những kế hoạch phát triển cộng đồng tự nguyện. Ông không tin cả giới tinh hoa lẫn đám đông, không tin việc trao quyền lực cho nhóm thân thế hay đám đông vô kỷ luật. Với các đức tính của một người chủ cửa hiệu, ông thu mình lại trước cuộc đấu tranh giai cấp. Niềm tin vào tính biến đổi của xã hội vào các giá trị nội tại của sự vươn lên nhờ làm ăn cần cù đã khắc vào xương tủy của ông.
Chủ nghĩa bảo thủ thiên bẩm của ông đối với sự can thiệp của nhà nước và phúc lợi thể hiện qua chuỗi câu hỏi ông đặt ra cho Peter Collinson vào năm 1753. Khi đó, ông đã hỏi, liệu việc luật pháp “bắt buộc người giàu phải chu cấp cho người nghèo phải chăng đã khiến họ trở nên phụ thuộc” và “khuyến khích sự lười nhác”.20
Đối với Collinson, những điểm này được nêu lên như những câu hỏi. Song trong các tiểu luận của ông vào cuối thập niên 1760, đầu thập niên 1770, Franklin khẳng định sự bảo thủ của mình một cách mạnh mẽ hơn. Đáng chú ý nhất là một bài viết nặc danh có tiêu đề “Bàn về tầng lớp lao động nghèo khổ,” trong đó ông ký tên “Medius,” gốc Latin của từ “middle” (trung gian) và đăng tải trên Tạp chí Quý ông vào năm 1768. Trong tiểu luận đó, ông lên án các nhà văn khuấy động quần chúng khi tuyên bố người nghèo bị người giàu áp bức. “Anh có cho phép tôi nói đôi điều từ phía bên kia của vấn đề?” ông chất vấn. Ông lập luận điều kiện sống của người nghèo tại Anh là tốt nhất châu Âu. Tại sao? Vì ở Anh có luật lệ hỗ trợ người nghèo. “Luật lệ này không do người nghèo làm ra. Các nhà làm luật đều là những người giàu có... Họ tình nguyện để tài sản của mình và của người khác phải chịu thuế để duy trì cuộc sống cho người nghèo.”
Các luật này có tính bác ái, nhưng ông cảnh báo rằng chúng có thể có hệ lụy khôn lường và cổ vũ cho thói lười nhác: “Tôi e rằng việc để con người phụ thuộc vào bất cứ sự hỗ trợ nào khi già cả hay bệnh tật, ngoài tính cần cù và căn cơ khi còn trẻ khỏe, đều có xu hướng nuông chiều sự lười nhác tự nhiên của chúng ta, khuyến khích thói hoang phí, từ đó cổ vũ và gia tăng sự nghèo túng, vốn chính là cái xấu xa mà nó được dự định cứu chữa.”
Ông không chỉ cảnh báo sự phụ thuộc vào phúc lợi mà còn đưa ra phiên bản lý thuyết kinh tế nhỏ giọt xuống (trickle-down) của chính mình. Tầng lớp giàu có và toàn xã hội càng làm ra nhiều tiền thì sẽ càng có nhiều tiền xuống đến người nghèo. “Người giàu không làm thuê cho kẻ khác. Mọi thứ mà họ hoặc gia đình họ sử dụng và tiêu thụ là sản phẩm của tầng lớp lao động nghèo khổ.” Người giàu dùng tiền của họ theo một cách có lợi cho tầng lớp lao động nghèo khổ: quần áo, đồ đạc và nhà ở. “Tầng lớp lao động nghèo khổ của chúng ta hàng năm nhận được toàn bộ thu nhập sạch của quốc gia.” Ông cũng bóc trần ý nghĩ áp đặt mức lương tối thiểu cao hơn: “Có thể ra luật để tăng lương cho họ; song, nếu hàng sản xuất quá đắt đỏ, chúng không thể bán được ở nước ngoài.”21
Tuy vậy, chủ nghĩa bảo thủ về kinh tế của ông được cân bằng với niềm tin đạo đức căn bản rằng mỗi hành vi cần được đánh giá qua lợi ích mà nó đem lại cho thiện ích chung. Các chính sách khuyến khích làm ăn cần cù là tốt, nhưng không phải bởi chúng dẫn tới sự tích lũy tài sản cá nhân, mà bởi chúng làm tăng sự giàu có của cộng đồng và phẩm giá của mỗi cá nhân. Những ai nhận được nhiều tài sản hơn mức họ cần có nghĩa vụ giúp đỡ người khác và kiến tạo các tổ chức công dân để hỗ trợ sự thành công của người khác. “Lý tưởng của ông là của tầng lớp trung lưu phát đạt, những người sống đời giản dị với sự bình đẳng dân chủ,” James Campbell viết. “Những người may mắn gặp thành công kinh tế lớn hơn trong cuộc sống có trách nhiệm giúp những người thực sự cần; song những người không thể nhấc nổi thân mình vì thiếu đạo đức không thể mong chờ sự tương trợ của xã hội.”22
Franklin bổ sung thêm sự ủng hộ ngày càng nhiệt tình các giá trị Anh quốc truyền thống về quyền lợi và tự do cá nhân vào tổ hợp triết lý này. Tuy vậy, ông vẫn chưa hoàn toàn tiến bộ trong câu hỏi đạo đức lớn về chế độ nô lệ. Là đại diện cho một số thuộc địa, trong đó có Georgia, ông nhận thấy bản thân mình đang bảo vệ nước Mỹ một cách vụng về và kém thuyết phục trước sự công kích của người Anh, rằng chế độ nô lệ là một sự nhạo báng đối với đòi hỏi quyền tự do của dân chúng thuộc địa.
Năm 1770, ông xuất bản giấu tên một cuốn sách có tựa đề “Cuộc thảo luận về chế độ nô lệ”, trong đó người Mỹ cố gắng tự bảo vệ bản thân trước những cáo buộc về thói đạo đức giả. Chỉ “một trong một trăm gia đình” Mỹ có nô lệ, trong đó “đa phần đều đối xử rất nhân đạo với nô lệ của họ”. Ông cũng lập luận rằng, điều kiện của giới lao động nghèo khổ ở Anh “dường như có chút gì đó tương tự chế độ nô lệ”. Có lúc, thậm chí lập luận của ông sa vào sự phân biệt chủng tộc: “Có thể các vị tưởng rằng người da đen là loại người tính khí mềm mỏng, dễ bảo. Một số người thì thật sự như vậy, nhưng phần lớn họ đều đầy âm mưu, đen tối, sưng sỉa, ác độc, thù hằn và tàn nhẫn ở mức độ cao nhất.”23
Trong nỗ lực bảo vệ nước Mỹ bằng mọi giá, Franklin đã đưa ra một trong các lập luận tồi tệ nhất ông từng viết. Kể cả dữ kiện đưa ra cũng sai. Tỷ lệ gia đình sở hữu nô lệ ở Mỹ không phải 1% mà gần 1/9 (vào năm 1790, 47.664 trên tổng số 410.636 gia đình Mỹ sở hữu nô lệ). Điều làm cho lập luận của ông yếu cả về đạo đức và tính xác thực là bởi kể cả khi cố gắng tranh cãi rằng sở hữu nô lệ là một sự lầm đường, chính nhà Franklin cũng nằm trong số các gia đình nuôi nô lệ. Dù hai nô lệ cùng ông tới Anh trong chuyến đi đầu tiên không còn ở với ông nữa, vẫn có một hoặc hai nô lệ sống tại nhà của Deborah ở Philadelphia.24
Tuy thế, các quan điểm của ông vẫn đang hoàn thiện. Hai năm sau khi viết “Cuộc thảo luận”, Franklin bắt đầu liên lạc với Anthony Benezet, nhà đấu tranh bãi bỏ chế độ nô lệ ở Philadelphia. Ông dùng một vài lý lẽ của Benezet trong một bài viết năm 1772 cho Biên niên ký London. Ông chỉ trích bằng ngôn ngữ mạnh hơn bao giờ hết, “sự giết chóc liên tục của loài người vì thông điệp ghê tởm lây lan trong thể xác và tâm hồn”. Ông thậm chí tiến dần đến lập luận của Benezet cho rằng bản thân chế độ nô lệ - không chỉ riêng việc nhập cảng thêm nô lệ - phải bị bãi bỏ. “Tôi vui mừng khi biết quan điểm chống lại chế độ nô lệ ngày càng trở nên phổ biến ở Bắc Mỹ”, ông viết cho Benezet. “Tôi mong cuối cùng nó sẽ bị đưa ra xem xét và bị bãi bỏ bằng luật pháp.”
Franklin viết trong một mạch tương tự cho người bạn ở Philadelphia, thầy thuốc Benjamin Rush. “Tôi hy vọng cuối cùng những bạn hữu của tự do và nhân đạo sẽ chiến thắng một tập quán đã khiến cho dân tộc và tôn giáo của chúng ta phải hổ thẹn quá lâu.” Song, cần lưu ý rằng, với cả Benezet và Rush, Franklin đều sử dụng cùng một cụm từ định tính: “cuối cùng”. Theo Franklin, việc bãi bỏ hoàn toàn việc sở hữu nô lệ (chứ không chỉ việc chấm dứt nhập cảng nô lệ) sẽ chỉ đến sau cùng, chỉ đến sau Cách mạng.25
ĐÁNH BẠI HILLSBOROUGHSự ấm áp ân cần của Ngài Hillsborough ở Ireland - điều khiến Franklin rất băn khoăn - cuối cùng đã tan vỡ. Franklin viết cho con trai: “Sau khi đã trở về London một thời gian, cha đợi ông ta để cảm ơn về sự lịch thiệp khi ở Ireland.” Tên giữ cửa thông báo cho Franklin biết ngài bộ trưởng không có ở nhà. Franklin để lại danh thiếp và trở lại vào một ngày khác để nghe cùng một lời đáp, mặc dù Franklin biết thật ra Hillsborough có tiếp khách vào hôm đó. Ông thử lại tuần sau, rồi tuần sau nữa nhưng vô ích. “Lần cuối cùng là vào một ngày đãi tiệc, có nhiều cỗ xe đậu trước cửa nhà ông ta. Người xà ích của cha đánh xe lên, bước xuống và đang mở cửa thì tên giữ cửa nhìn thấy cha. Hắn bước ra và cau có mắng người xà ích vì mở cửa trước khi hỏi đức ông có ở nhà không. Sau đó hắn quay sang cha và nói: ‘Ông chủ tôi không có ở nhà.’ Từ đó cha không bao giờ tới gần ông ta và hai chúng ta chỉ mạt sát nhau từ xa.”
Hillsborough “vứt cha đi như một quả cam hết nước, có vắt nữa cũng không ích gì”, Franklin than phiền. Ông lại nghĩ đến việc trở về Philadelphia. “Cha bắt đầu nhớ nhà”, ông viết cho William. Song vẫn có một yếu tố ngăn cản việc ông rời nước Anh trong giận dữ. Bất chấp tất cả, ông vẫn hy vọng có thể đảm bảo cho bản thân (và bè bạn, gia đình, đồng nghiệp) được cấp một mảnh đất về phía tây, dọc sống Ohio.26
Để đạt mục đích này, ông đã tham gia rất nhiều công ty, trong đó có Công ty Illinois Company, sau đó là Công ty Indiana, vốn đã thất bại trong việc giành sự ủng hộ ở London. Mùa hè năm 1769, Franklin giúp tổ chức một tập đoàn lớn đến mức ông tin rằng nó có thể vượt mặt Ngài Hillsborough. Công ty Grand Ohio (Ohio Đại), đúng như tên gọi của nó, là bộ sưu tập những cái tên giàu nhất và xuất chúng nhất ở London, nổi bật nhất là Thomas và Richard Walpole. Đã có lúc, dường như tập đoàn này, được biết đến với cái tên Công ty Walpole, sắp thành công. Nhưng vào mùa hè năm 1770, Hillsborough đã tìm cách đặt kế hoạch này lên bàn để nghiên cứu thêm.
Tuy nhiên, tập đoàn Walpole có thể giữ được những triển vọng của nó nhờ phân chia cổ phần cho một loạt bộ trưởng hàng đầu, trong đó có Quan Chưởng ấn và Chủ tịch Cơ mật Viện. Mùa xuân năm 1772, Hillsborough không thể trì hoãn vấn đề lâu hơn nữa. Chính nhà vua cũng cho Hillsborough biết ngài muốn vấn đề phải được xem xét. Vào tháng Tư, ủy ban Thương mại gửi tờ đơn xin cấp đất tới Cơ mật Viên với đề xuất nó nên bị bác bỏ. Nhưng hai tháng sau, Cơ mật Viện tự tổ chức buổi điều trần của họ. Franklin, Walpole và nhiều cổ đông có ảnh hưởng của họ cũng tham dự. Hillsborough dọa sẽ từ chức nếu nó được tán thành, một viễn cảnh có khả năng khiến ông ta bị tổn thất vì nhiều người trong Cơ mật Viện rất háo hức “hành xác ông ta”, chữ của Franklin. Và họ đã làm thế. Việc cấp đất được tán thành và Hillsborough từ chức.
Franklin và bạn ông không bao giờ có được mảnh đất vì những căng thẳng gia tăng giữa nước Anh và các thuộc địa đã can thiệp vào. “Việc cấp đất tiến triển nhưng chậm chạp”, ông viết thư cho một người bạn vào năm sau. “Tôi bắt đầu có lối suy nghĩ của một thủy thủ khi họ kéo một sợi cáp từ nhà kho lên tàu và một trong số họ nói: ‘Sợi cáp thật dài và nặng. Tôi ước chúng ta có thể thấy điểm cuối của nó.’ ‘Mẹ kiếp’, một người khác nói, ‘nếu tôi tin nó có điểm cuối nào đó; thì chẳng qua có ai đó đã cắt nó.'"
Nhưng Franklin vẫn thành công trong việc lật đổ kẻ thù của mình. “Cuối cùng, chúng ta đã kết liễu được Ngài Hillsborough”, ông say sưa nói với William. Để đáp lại, Hillsborough gọi Franklin là “một trong những kẻ tà tâm nhất nước Anh”. Tuy vậy, họ có cách che đậy kỳ lạ sự thù hằn với nhau bằng lối thân mật giả tạo. Hai người đã làm hòa khi tình cờ gặp nhau ở Oxford vào mùa hè năm sau. Hillsborough làm cử chỉ cúi mình và khen ngợi Franklin. Ông kể với William: “Để đáp lễ sự thừa thãi này, cha tâng bốc màn biểu diễn tại nhà hát của con trai ông ta, dù thật ra nó không có gì khác ngoài vô vị; nhờ đó bài toán được giải quyết. Người ta thường nói khi họ tức giận: ‘Nếu hắn đánh tôi, tôi sẽ đánh trả’; cha đôi khi nghĩ rằng đúng hơn phải nói là: ‘Nếu hắn nịnh tôi, tôi sẽ nịnh lại hắn.'"27
NHỮNG BỨC THƯ CỦA HUTCHINSON“Rơi vào tay tôi gần đây là một phần của các thư tín mà tôi có lý do để tin rằng, chính chúng đặt nền móng cho hầu hết, nếu không phải tất cả, nỗi bất bình hiện thời của chúng ta.” Với những lời lẽ định mệnh gửi tới người ủng hộ ông ở Massachusetts vào tháng 12 năm 1772, Franklin đã khuấy lên một cơn bão sẽ dẫn đến sự tuyệt giao hẳn của ông với nước Anh. Đi kèm theo nó là một xấp thư từ, và sáu bức trong số đó là của thống đốc Massachusetts, Thomas Hutchinson - một thương gia Boston xuất thân từ một gia đình Thanh giáo cũ. Thomas từng là bạn của Franklin khi họ cùng thảo Kế hoạch Albany vì sự thống nhất thuộc địa vào năm 1754. Những bức thư này được một nghị sĩ giấu tên trong Quốc hội lén lút trao cho Franklin. Ông chuyển tiếp nó cho Cushing với mệnh lệnh không được để chúng lọt ra ngoài.
Những bức thư của Hutchinson chứa đầy lời khuyên về cách thức dập tắt sự bất ổn ở các thuộc địa. “Phải có sự hạn chế đối với cái được gọi là các quyền tự do của người Anh”, ông ta viết. Khi được xuất bản ở Boston (được sự đồng ý của Thomas Cushing, John và Samuel Adams đã cho đăng tải chúng bất chấp đề nghị của Franklin), chúng thổi bùng lên cơn giận dữ ngày càng lớn của các nhà yêu nước cấp tiến tại đây.
Điều đó đi ngược với dự định của Franklin. Mục đích của ông là xoa dịu những tình cảm nổi loạn bằng việc chỉ riêng cho Cushing và một số lãnh đạo khác thấy rằng, các chính sách sai lầm của nước Anh đã sinh ra từ những lời khuyên tồi tệ từ những người như Hutchinson, thay vì từ sự ghét bỏ nước Mỹ vô cớ. Ông tin rằng, những lá thư này thậm chí sẽ cổ vũ “xu hướng hướng tới hòa giải”, điều về sau ông thừa nhận rằng, “tôi tha thiết mơ ước.”28
Thực tế, hầu hết các thư từ của Franklin vào đầu năm 1773 được viết ra để giảm căng thẳng. “Tôi trông chờ vào sự chăm sóc tuyệt vời để giữ cho dân chúng trật tự, vì kẻ thù không mong gì hơn việc chúng ta nổi dậy. Khi đó, họ sẽ có một cái cớ tốt để tăng cường quân đội và đặt chúng ta dưới sự quản thúc nghiêm ngặt hơn”, ông viết thư cho Cushing vào tháng Ba. Tương tự, khi Hội đồng Lập pháp Massachusetts thông qua quyết nghị rằng nó không phục tùng Quốc hội, ông cũng khuyên nước Anh không phản ứng thái quá. “Theo quan điểm của tôi, sẽ tốt hơn và thân trọng hơn nếu ta không để ý đến nó”, ông viết cho Ngài Dartmouth, Quốc vụ khanh phụ trách thuộc địa thay thế Hillsborough. “Đó chỉ là lời nói mà thôi!”29
Để đưa ra quan điểm mà không khuấy động thêm sự thù oán, Franklin trở về tình yêu thời trẻ của ông đối với lối châm biếm qua hai bài viết truyên truyền ẩn danh ông viết cho các tờ báo Anh vào tháng 9 năm 1773. Bài thứ nhất có nhan đề “Những quy tắc khiến một đế chế lớn bị thu hẹp thành nhỏ”. Nhận định rằng “một nhà hiền triết cổ đại” (đó là Themistocles, đô đốc và nhà thống trị Hy Lạp) đã từng khoe rằng ông ta biết cách biến một thành phố nhỏ thành một thành phố vĩ đại, tiểu luận liệt kê ra 20 cách để đảo ngược lại một đế chế. Trong số đó gồm có:
Đầu tiên, thưa quý vị, các ngài phải nhìn nhận một đế chế lớn giống như một chiếc bánh lớn, dễ bị thu nhỏ nhất từ ngoài viền.
Hãy “chăm lo” đặc biệt để các tỉnh không bao giờ hợp nhất với mẫu quốc sẽ không được hưởng các quyển lợi chung, các biệt đãi tương tự trong thương mại và chúng phải được cai trị bằng luật lệ hà khắc hơn, toàn bộ do các ngài ban hành và không để họ có quyền dự phần trong việc lựa chọn các nhà làm luật.
Dù các thuộc địa của các ngài có quy thuận chính quyền một cách hòa bình đến đâu, thể hiện tình cảm đối với quyền lợi của các ngài ra sao và kiên nhẫn chịu đựng nỗi bất