← Quay lại trang sách

Chương 12 ĐỘC LẬP-Philadelphia, 1775-1776-CHỌN PHÍA

Giống như William con trai ông từng giúp ông thực hiện thí nghiệm thả diều nổi tiếng, giờ đây Temple, con trai của William cũng giúp ông một tay để hạ chiếc nhiệt kế tự chế xuống biển. Ba tới bốn lần mỗi ngày, họ sẽ kiểm tra nhiệt độ và chép vào một biểu đồ. Franklin đã được Timothy Folger, một người họ hàng ở Nantucket, thuyền trưởng một tàu đánh cá voi, chỉ cho biết về hướng của Dòng Vịnh. Suốt nửa sau của chuyến hải hành kéo dài sáu tuần về nhà, sau khi viết bài thuật lại chi tiết các cuộc thương lượng vô ích, Franklin chuyển sự chú ý của ông sang việc nghiên cứu. Các bản đồ mà ông đã công bố và các chỉ số nhiệt độ mà ông ghi lại hiện có trên trang web của NASA cho thấy sự giống nhau đáng kể giữa chúng và các dữ liệu hồng ngoại được thu thập nhờ các vệ tinh hiện đại.1

Hành trình êm ả một cách đáng nhớ, song tại Mỹ, một cơn bão kéo dài đã bắt đầu. Đêm 18 tháng 4 năm 1775, trong khi Franklin còn lênh đênh trên biển, một toán lính Anh từ cảng Boston đã hướng về phía bắc để bắt những kẻ cầm đầu bữa tiệc trà, Samuel Adams và John Hancock, và tịch thu súng đạn được những người ủng hộ họ tàng trữ. Paul Revere cùng những người khác ít nổi tiếng hơn đã phát đi lời báo động. Khi toán lính đến Lexington, 70 “dân quân phản ứng nhanh” người Mỹ đã ở đó đợi họ.

“Đám phiến quân, giải tán!” vị thiếu tá người Anh ra lệnh. Lúc đầu, họ làm theo. Sau đó, một loạt đạn được bắn ra... Trong cuộc giao tranh theo sau, tám người Mỹ bị giết hại. Toán lính thắng trận hành quân về Concord, nơi “các nông dân bị đẩy vào cuộc chiến đang đứng đó, và chúng bắn ra một loạt đạn được cả thế giới nghe thấy”, Emerson viết. (Không rõ vì sao, những chiến binh Lexington đáng thương lại bị bỏ sót trong phiên bản lịch sử đầy chất thơ của Emerson; cũng như William Dawes và những người đưa tin khác chỉ được nhắc đến lướt qua trong tác phẩm Chuyến xe của Paul Revere của Longfellow). Trong chuyến rút quân dài một ngày trở về Boston, hơn 250 lính Anh đã bị dân quân Mỹ giết hoặc sát thương.

Khi Franklin về đến Philadelphia với cậu cháu trai 15 tuổi vào ngày 5 tháng 5, các đại biểu bắt đầu tập hợp tại đây để tổ chức Quốc hội Lục địa Đệ nhị. Chuông đổ vang để chào đón ông trở về. “Tiến sĩ Franklin hết sức hài lòng khi thấy chúng ta đã vũ trang và chuẩn bị cho các sự kiện tồi tệ nhất”, một nhà báo viết. “Ông ấy nghĩ không thứ gì khác có thể cứu chúng ta khỏi chế độ nô lệ khổ sở nhất.”

Nước Mỹ thực sự đã vũ trang và chuẩn bị tinh thần. Trong số những người tới Philadelphia tuần đó, với đồng phục xếp lại sẵn sàng, có đồng chí cũ trong quân ngũ của Franklin - George Washington. Washington đã trở thành một chủ đồn điền tại Virginia sau cuộc Chiến tranh Pháp và Anh-điêng. Gần 1.000 dân quân cưỡi ngựa và đi bộ tới đón ông ở ngoại thành Philadelphia. Một ban quân nhạc chơi những bản ái quốc khi xe của ông bon bon chạy vào thành phố. Song ngoại trừ các nhà ái quốc cấp tiến trong phái đoàn Massachusetts, vẫn chưa có tình đồng thuận về việc liệu cuộc chiến vừa nổ ra nên được tiến hành vì độc lập hay chỉ để khẳng định quyền của nước Mỹ trong một Đế chế Anh tiếp tục được duy trì. Sẽ cần thêm một năm nữa để trả lời câu hỏi này, dù không phải cho Franklin.

Franklin được lựa chọn làm một thành viên Quốc hội ngay sau ngày ông trở về. Ở tuổi gần 70, ông là người già nhất. Đa phần trong 62 thành viên còn lại đang tụ họp tại tòa nhà bang Pennsylvania - Thomas Jefferson và Patrick Henry đến từ Virginia; John Adams và John Hancock đến từ Massachusetts - thậm chí còn chưa ra đời khi Franklin lần đầu vào đây làm việc hơn 40 năm trước đó.

Franklin đã chuyển vào ở ngôi nhà trên Phố Chợ mà ông đã thiết kế song chưa từng nhìn thấy, nơi Deborah đã sống thiếu ông suốt mười năm. Con gái họ, Sally, chăm lo nhu cầu quản gia của ông; chồng cô, Richard Bache, vẫn phục tùng ông; còn hai đứa trẻ, Ben và Will, đem đến cho ông niềm vui. “Will có một khẩu súng nhỏ, thằng bé vừa vác súng đi duyệt binh vừa thổi sáo theo kiểu thổi tiêu”, Franklin viết.2

Tới lúc này, Franklin vẫn giữ im lặng về việc ông ủng hộ hay không ủng hộ nước Mỹ giành độc lập. Ông tránh các quán rượu nơi các đại biểu khác dành các buổi tối đề tranh luận về chủ đề này. Ông cần mẫn đến dự các phiên thảo luận và các cuộc họp hội đồng, nói ít và sau đó về dùng bữa tối ở nhà cùng gia đình. Mở đầu của thứ sẽ trở thành một sự kết hợp dài đầy mâu thuẫn với Franklin, con người lắm lời và giàu tham vọng John Adams than rằng ông già này được kính trọng ngay cả khi chỉ “ngồi im lặng, phần lớn thời gian ngủ gật trên ghế”.

Nhiều đại biểu trẻ hơn, nhiệt huyết hơn chưa bao giờ được chứng kiến kỹ xảo im lặng của Franklin - cách tỏ ra thông thái bằng cách không nói gì. Họ biết đến ông với danh tiếng của một người đã tranh luận thành công với Quốc hội Anh về Đạo luật Tem. Họ không nhận ra rằng tài hùng biện không tự nhiên đến với ông. Vì thế những lời đồn đại bắt đầu được truyền đi. Ông đang chơi trò gì? Ông có phải một kẻ trung thành bí mật với nước Anh?

Trong số những người hoài nghi có William Bradford - vốn đã kế tục công việc in ấn và tờ báo của cha mình, vị bảo trợ đầu tiên và sau này trở thành kẻ thù của Franklin. Ông ta tâm sự với James Madison trẻ tuổi rằng, một số đại biểu “bắt đầu thích thú với việc hoài nghi Tiến sĩ Franklin đến đây để làm gián điệp hơn là một người bạn, và ông ấy muốn tìm hiểu điểm yếu của chúng ta để dàn hòa với các bộ trưởng”.

Thực tế, Franklin dành gần hết tháng Năm để đợi thời cơ bởi có hai người mà ông muốn trước hết muốn cải hóa họ chuyển sang ủng hộ cuộc khởi nghĩa ở Mỹ. Cả hai đều rất gần gũi với ông. Một người là Joseph Galloway, đồng minh cũ của ông trong cuộc đấu tranh chống nhà Penn, người đã đóng vai trò như cấp phó và người thay thế của ông suốt 10 năm tại Hội đồng Lập pháp Pennsylvania. Thời gian diễn ra Quốc hội Lục địa Đệ nhất, Galloway đã đề xuất thành lập một Quốc hội Mỹ có quyền lực tương đương với Quốc hội Anh, cả hai đều trung thành với nhà vua. Đó là kế hoạch cho một đế chế thống nhất bên cạnh những điều Franklin từng ủng hộ tại Hội nghị Albany và sau đó. Nhưng Quốc hội Lục địa đã quả quyết bác bỏ nó. Do phiền muộn, Galloway đã khước từ khi được chỉ định vào Quốc hội Lục địa Đệ nhị.

Vào đầu năm 1775, Franklin bắt đầu tin rằng đã quá muộn để một kế hoạch kiểu Galloway có thể vận hành. Tuy nhiên, ông cố gắng thuyết phục Galloway cùng tham gia với tư cách thành viên Quốc hội mới. Ông viết rằng, việc rời bỏ chính sự là điều sai lầm “tại một thời điểm khi tài năng của ông rất được trọng vọng”. Ban đầu, Franklin cũng không đưa cho Galloway nhiều lý do hơn những gì ông nói với người khác về lập trường của mình trong vấn đề độc lập. “Người ta dường như đều bối rối không biết ông ấy đứng về phe nào”, Galloway về sau nhớ lại.4

Người còn lại mà Franklin muốn thay đổi quan điểm về cuộc cách mạng là người thân thiết với ông hơn nữa.

CUỘC GẶP CẤP CAO TẠI TREVOSE

William Franklin, Thống đốc của New Jersey, vẫn trung thành với chính quyền Anh và vướng vào nhiều tranh cãi với chính cơ quan lập pháp của mình. Anh đã đọc tin trên báo về sự trở về của cha mình. Anh viết cho Strahan, nói “đây là tin khá bất ngờ với cháu”. Anh háo hức gặp cha và nhận lại con trai, Temple. Tuy vậy, trước hết anh phải chịu đựng một phiên họp đặc biệt của cơ quan lập pháp New Jersey do anh triệu tập vào ngày 15 tháng 5. Không bao lâu sau khi phiên họp kết thúc trong thù hận, ba thế hệ nhà Franklin - cha, con trai và đứa cháu trai tội nghiệp mắc kẹt ở giữa - cuối cùng cũng đoàn tụ.5

Franklin và William chọn một địa điểm trung lập cho cuộc gặp gỡ của họ: Trevose, trang viên xây bằng đá hộc lớn của Joseph Galloway ở Quận Bucks, nằm về phía bắc Philadelphia. Điều ngạc nhiên là dù cuộc gặp gỡ này thật căng thẳng về cảm xúc, cả hai cha con họ và Galloway rõ ràng đều chưa hề viết về nó. Thật mỉa mai khi nguồn duy nhất tiết lộ cho chúng ta biết đôi điều lại là từ nhật ký của Thomas Hutchinson, Thống đốc của Massachusetts với những bức thư bị Franklin đánh cắp. Trong nhật ký, Hutchinson ghi lại lời kể ba năm sau đó của Galloway về cuộc gặp gỡ, khi cả hai là các nhà bảo hoàng bị lưu đày ở Anh.

Buổi tối bắt đầu một cách lúng túng với những chiếc ôm và một cuộc trò chuyện ngắn sau đó. Có lúc, William đã kéo Galloway ra một bên để nói, cho đến tận lúc này, anh đã tránh đề cập đến chính trị một cách nghiêm chỉnh với cha mình. Nhưng một lúc sau, khi Madeira được rót tràn trề, rượu vào lời ra, họ phải đối diện với sự bất đồng chính trị của mình. “Ô, ông Galloway, ông thật sự nghĩ là tôi phải ủng hộ một sự hòa giải?” Franklin hỏi người bạn đồng minh lâu năm.

Galloway thực tế có suy nghĩ đó, song Franklin không thiết nghe gì nữa. Ông mang bên mình một lá thư dài viết cho William trong lúc vượt Đại Tây Dương. Nó kể chi tiết về những nỗ lực bất thành khi đàm phán về việc hòa giải. Dù Galloway đã nghe vài phần trong đó, ông vẫn đọc lớn gần hết lá thư và nói về nỗi cay đắng mình đã phải chịu đựng. Galloway phản bác với những câu chuyên kinh dị của chính ông về những kẻ cấp tiến nặc danh đã gửi cho ông một sợi thòng lọng vì dám đề xuất kế hoạch cứu liên minh Anh. Ông nhấn mạnh, một cuộc cách mạng không khác gì tự sát.

William tranh luận rằng, giải pháp tốt nhất cho tất cả là vẫn giữ sự trung lập, nhưng cha anh không lay chuyển. Hutchinson về sau ghi lại, ông “bộc lộ bản thân và tuyên bố ủng hộ các giải pháp giành độc lập”, đồng thời “chống lại sự bại hoại phân tán của vương quốc”. William đáp lại bằng sự giận dữ, song anh cũng ít nhiều lo lắng cho sự an toàn của cha. Nếu ông có ý định “thắp lên ngọn lửa ở các thuộc địa”, William hy vọng ông “biết cẩn thận chạy trốn bằng ánh sáng của nó”.6

Cảm thấy thất bại và thất vọng, William lên xe trở về New Jersey, tiếp tục những nhiệm vụ của một thống đốc hoàng gia. Đi cùng anh là cậu con trai Temple. Vấn đề mà Benjamin và William thống nhất được ở Trevose là cậu bé sẽ dành mùa hè ở New Jersey, sau đó trở lại Philadelphia để ghi danh vào học viện mà ông nội cậu đã thành lập tại đây. William từng hy vọng gửi cậu tới Đại học King (nay là Đại học Columbia) ở New York, nhưng Benjamin đánh đắm kế hoạch đó vì nơi đây nay đã trở thành một cái nôi của chủ nghĩa trung thành với nước Anh. Chẳng bao lâu, Temple đã bị kẹt trong cuộc lôi kéo giữa hai người đàn ông muốn giành giật lòng trung thành của cậu. Cậu háo hức tìm cách làm vừa lòng cả hai, nhưng định mệnh khiến cậu nhận ra, điều đó là không thể.

FRANKLIN - KẺ PHẢN LOẠN

Thật khó xác định chính xác thời điểm nước Mỹ bước qua ngưỡng để quyết định rằng sự độc lập hoàn toàn với nước Anh là điều cần thiết và đáng mong muốn. Việc xác định điểm chuyển giao đó đến với mỗi cá nhân cụ thể khi nào, thậm chí còn khó khăn hơn nữa. Franklin, người suốt 10 năm đã liên tục hy vọng để rồi lại thất vọng về việc tránh một sự đổ vỡ, đã đưa ra tuyên ngôn cá nhân với gia đình ông trong cuộc gặp tại Trevose. Đầu tháng 7 năm 1775 - chính xác một năm sau khi các nhà ái quốc người Mỹ bạn ông chính thức thể hiện lập trường riêng, ông đã sẵn sàng công khai bày tỏ chính kiến của mình.

Có nhiều sự việc cụ thể đã xô Franklin qua ranh giới sang bên nổi loạn - cá nhân bị xem nhẹ, hy vọng tiêu tan, sự phản bội và bồi tụ các hành vi thù địch của nước Anh. Song cũng cần phải ghi nhận các nguyên nhân cốt lõi dẫn tới cuộc cách mạng của cá nhân ông - và suy rộng ra, của dân tộc mà ông là một cá nhân điển hình.

Khi những người Anh như cha của Franklin di cư tới vùng đất mới, họ đã sản sinh một kiểu dân tộc mới. Như ông nhiều lần nhấn mạnh trong thư tín gửi con trai, nước Mỹ không nên lặp lại lối phân giai tầng xơ cứng của Cựu Thế giới. Các cấu trúc quý tộc và tổ chức xã hội phong kiến dựa trên xuất thân thay vì phẩm chất. Thay vào đó, sức mạnh của nước Mỹ nằm ở chỗ nó tạo ra một tầng lớp bình dân đầy kiêu hãnh, một tầng lớp của những chủ cửa hiệu và thương nhân cần mẫn và căn cơ, biết khẳng định quyển lợi của mình và tự hào về địa vị của bản thân.

Giống như nhiều người Mỹ mới, Franklin chọc giận cường quyền, đó là lý do vì sao ông bỏ trốn khỏi nhà in của anh trai ở Boston. Ông không lóa mắt trước tầng lớp tinh hoa dòng dõi - dù đó là nhà Mather, nhà Penn hay những người đồng đẳng trong Thượng viện Anh. Ông tỏ ra xấc xược trong các tác phẩm của mình và nổi loạn nơi tính cách. Ông đã hấp thụ triết lý của những tư tưởng gia Khai sáng mới, những người tin rằng tự do và lòng bao dung là nền tảng của một xã hội dân sự.

Suốt một thời gian dài ông đã ôm ấp hình ảnh một đế quốc thống nhất, nhờ đó cả nước Anh và nước Mỹ đều có thể phát triển trong một đế chế trải rộng vĩ đại. Song, ông cảm thấy nó chỉ vận hành nếu Anh ngừng bắt nạt Mỹ qua những luật lệ thương mại có tính trọng thương và những sắc thuế được áp đặt từ nơi xa xôi. Khi rõ ràng nước Anh vẫn nhất định muốn hạ thấp các thuộc địa của nó, chỉ có con đường duy nhất còn lại, đó là giành độc lập.

Trận Đồi Bunker đẫm máu và vụ đốt Charleston, đều diễn ra vào tháng 6 năm 1775, càng thổi bùng thêm sự thù hằn mà Franklin và các nhà ái quốc bạn ông cảm thấy với nước Anh. Tuy vậy, hầu hết các thành viên của Quốc hội Lục địa vẫn chưa tiến thật xa trên con đường dẫn đến cách mạng. Nhiều cơ quan lập pháp thuộc địa, trong đó có Pennsylvania, đã chỉ thị các đại biểu cự tuyệt bất cứ lời kêu gọi độc lập nào. Đứng đầu nhóm thận trọng là kẻ thù lâu năm của Franklin, John Dickinson, người vẫn từ chối dựng cột thu lôi ở nhà.

Vào ngày 5 tháng Bảy, Dickinson thông qua Quốc hội một thỉnh cầu cuối cùng gửi tới nhà vua, về sau được gọi là Thỉnh nguyện thư Cành Ô-liu. Đổ hết các rắc rối lên sự bội tín của các bộ trưởng “phiền toái” và “hão huyền”, nó “cầu khẩn” nhà vua tìm cách giải cứu nước Mỹ. Quốc hội cũng thông qua Tuyên ngôn về nguyên nhân và sự cần thiết phải cấm vũ khí, trong đó tuyên bố: “Chúng tôi không có ý định phá vỡ sự thống nhất vốn đã tồn tại quá lâu và quá tốt đẹp giữa chúng ta, là thứ chúng tôi chân thành mong được nhìn thấy nó phục hồi.”

Cũng như các đại biểu khác, vì mục đích đồng thuận, Franklin đồng ý ký Thỉnh nguyện thư Cành Ô-liu. Song, ông công khai thể hiện tình cảm nổi loạn của mình cùng ngày hôm đó. Lối ra ông chọn khá lạ lùng: một lá thư gửi tới William Strahan, người bạn lâu năm, chủ nhà in đồng nghiệp ở London. Không còn gọi bạn là Straney thân mến, ông viết thật lạnh lùng và tính toán trong cơn giận:

Ông Strahan,

Ông là một nghị sĩ của Quốc hội và thuộc đa số đã kết án hủy hoại đất nước tôi. Ông đã bắt đầu đốt các thành phố và giết người dân của chúng tôi. Hãy nhìn đôi bàn tay ông! Chúng vấy máu của những người thân quen với ông! Ông và tôi là từng là bạn nhiều năm nay: giờ đây ông là kẻ thù của tôi, và tôi là kẻ thù của ông.

B. Franklin.

Điều làm cho bức thư nổi tiếng này đặc biệt lạ lùng là việc Franklin cho phép nó được phát tán và đăng tải chứ không hề gửi nó đi. Thay vào đó, nó chỉ đơn thuần là một kỹ xảo để thể hiện rõ tình cảm của ông cho các bằng hữu người Mỹ biết.

Thực tế, hai ngày sau đó, Franklin đã viết cho Strahan một lá thư êm tai hơn và ông thật sự gửi nó đi. “Từ ngữ và lập luận giờ đây đều vô ích”, ông nói bằng giọng buồn rầu hơn là giận dữ. “Tất cả có xu hướng dẫn tới một sự chia rẽ.” Cũng như việc ông không gửi phiên bản giận dữ hơn, Franklin không lưu một bản của lá thư dịu dàng hơn này trong hồ sơ giấy tờ của ông.7

(Cuối cùng Franklin vẫn sẽ là bạn thân của Strahan, người bốn năm trước đã tuyên bố rằng: “chúng ta dù khác biệt song không bất đồng”. Chính vào ngày Franklin viết lá thư không gửi của ông, Strahan cũng viết một lá thư từ London than thở về khả năng cuộc chiến đang đến gần sẽ dẫn tới “sự hủy hoại tận cùng một tổ chức chính quyển dân sự và tôn giáo vẻ vang nhất từng tồn tại”. Họ tiếp tục trao đổi thư tín trong suốt năm 1775 và Strahan cầu mong Franklin trở lại Anh “với các đề xuất điều đình”. Franklin trả lời vào tháng Mười bằng cách đề xuất Strahan: “Hãy gửi cho chúng tôi các đề nghị có thiện chí về hòa bình nếu các vị chọn nó. Không ai sẽ sẵn sàng cổ vũ việc chấp nhận các đề nghị đó hơn chính tôi: nguyên tắc của tôi là không lẫn lộn sự bất bình cá nhân với công việc chung.” Ông ký tên, giống như Strahan đã ký trong thư của mình: “Người đầy tớ thương mến và khiêm nhường của bạn”. Một năm sau, khi Franklin sang Paris trong vai trò một đặc sứ Mỹ, ông còn nhận được món pho-mát Stilton mà Strahan gửi làm quà từ London.)8

Cũng vào ngày 7 tháng 7, Franklin viết thư cho hai bạn thân người Anh khác. Với Giám mục Shipley, ông lên án nước Anh đã dùng chiến thuật kích động nô lệ và người Anh-điêng chống lại thực dân. Sau đó, ông xin lỗi về giọng điệu giận dữ trong thư của mình. “Nếu một tính khí bình thường vốn mát mẻ và lãnh đạm, khi về già (lúc mà những cái đầu nóng nhất cũng trở nên mát mẻ) lại trở nên nóng tính, ông có thể thông qua đó đánh giá cơn giận chung ở đây. Hiện giờ, nó không kém gì điên cuồng.”9

Với Joseph Priestley, ông than thở Thỉnh nguyện thư Cành Ô-liu chắc chắn sẽ bị bác bỏ. “Chúng tôi đã gửi một thỉnh nguyện thư khiêm tốn khác tới nhà vua, cho nước Anh một cơ hội nữa - một cơ hội thiên về việc khôi phục tình bạn với các thuộc địa. Tuy nhiên, tôi nghĩ nước Anh không đủ nhạy bén để nắm bắt nó, vì thế, tôi kết luận rằng, nước Anh đã mãi mãi mất các thuộc địa của nó.” Lá thư gửi Priestley cũng giúp ta hiểu thêm về ngày làm việc của Franklin và tinh thần tiết kiệm ở các thuộc địa:

Ngày của tôi chưa bao giờ kín việc hơn thế. Lúc sáu giờ sáng, tôi có mặt ở ủy ban bảo an được Hội đồng Lập pháp lập ra để đặt tỉnh bang trong tình thế được phòng thủ. Ủy ban này giữ tôi đến gần chín giờ, khi tôi phải có mặt tại Quốc hội Lục địa và ngồi ở đó đến bốn giờ chiều... Tính căn cơ vĩ đại và tính cần cù vĩ đại giờ đã trở nên hợp thời ở đây: Các quý ông vốn quen với việc đãi khách bằng hai, ba món giờ lại tự hào khi thưởng thức thịt bò và bánh pudding đơn giản. Bằng mọi cách và nhờ sự đình trệ của thương mại hàng tiêu dùng với nước Anh, chúng tôi có thể chi trả tốt hơn các khoản thuế tự nguyện đề hỗ trợ quân đội của mình.10

Được giải phóng bởi sự đổ vỡ riêng tư với con trai và đổ vỡ công khai với Strahan, Franklin thành ra một trong những đối thủ sôi sục nhất của nước Anh trong Quốc hội Lục địa. Ông phục vụ trong ủy ban soạn thảo một tuyên bố để tướng Washington ban hành, và kết quả là, nó mạnh mẽ đến mức Quốc hội e ngại việc thông qua hay công bố nó. Tài liệu này rõ ràng xuất phát từ ngòi bút của ông. Nó chứa đựng các cụm từ trước đây ông đã sử dụng đề bác bỏ những lập luận của nước Anh về việc chu cấp cho vấn đề quốc phòng của các thuộc địa (“những khẳng định vô căn cứ và những lời vu khống ác ý”). Nó thậm chí còn kết thúc bằng việc so sánh nghiêm túc mối quan hệ Anh-Mỹ với mối quan hệ giữa Anh và Saxony (mẫu quốc của nó), sự so sánh trước đây đã từng được ông đưa ra một cách hài hước trong bài viết giễu nhại Một sắc lệnh của nhà vua xứ Phổ. Trong phần mở đầu được viết bằng ngôn ngữ mạnh hơn nữa của một nghị quyết quốc hội về quyền tư nhân mà ông soạn thảo song chưa từng nộp, Franklin kết tội nước Anh về “thực tiễn của mọi bất công mà sự tham có thể ra lệnh hoặc sự tàn bạo có thể thi hành” và về “việc ăn cướp công khai bằng một đạo luật nghiêm chỉnh của Quốc hội, tuyên bố rằng tất cả tài sản của chúng ta đều là của họ”.11

Giờ đây không còn ai, kể cả những kẻ hay gièm pha Franklin, còn hoài nghi về lập trường của ông. Giống như nhiều người dân Virginia khác luôn háo hức được biết về Franklin, Madison viết thư cho Bradford hỏi xem liệu các tin đồn về sự mâu thuẫn của ông vẫn còn tồn tại hay không. “Đã có điều gì khác được người ta rỉ tai nhau liên quan tới hành vi của Tiến sĩ Franklin.” Bradford thừa nhận các ý kiến đã thay đổi. “Mối hoài nghi đối với Tiến sĩ Franklin không còn nữa. Dù chủ tâm của ông ấy khi đến đây là gì, tôi tin ông ấy giờ đã chọn phía của mình và ủng hộ chính nghĩa của chúng ta.”

Tương tự, John Adams cũng kể với Abigail, vợ ông, rằng Franklin giờ đây hoàn toàn thuộc về phe cách mạng. “Ông ấy không do dự trước các biện pháp cứng rắn nhất của chúng ta; thậm chí dường như có vẻ còn nghĩ chúng ta quá thiếu quả quyết.” Nhà hùng biện hay đố kỵ không thể kiềm chế một sự bất mãn nhẹ rằng người Anh tin sự đối kháng của người Mỹ hoàn toàn bắt đầu từ Franklin, “và anh tin rằng các bồi bút của họ sẽ gán thái độ và cách hành động của Quốc hội Lục địa cho ông ấy.”12

NHỮNG ĐIỀU KHOẢN ĐẦU TIÊN VỀ KẾ HOẠCH LIÊN BANG CỦA FRANKLIN

Để các thuộc địa vượt ngưỡng của việc nổi loạn, họ cần bắt đầu nhận thức về bản thân như một quốc gia mới. Muốn trở nên độc lập với nước Anh, họ phải bớt độc lập với nhau. Là một trong những người đi nhiều nhất và ít có tính cục bộ địa phương nhất trong số các thủ lĩnh thuộc địa, Franklin từ lâu đã ủng hộ một số hình thức liên bang, bắt đầu với Kế hoạch Albany năm 1754 của ông.

Kế hoạch này, vốn không bao giờ được thông qua, đã hình dung ra một Quốc hội liên thuộc địa trung thành với nhà vua. Giờ đây, vào năm 1775, Franklin đưa ra ý kiến này một lần nữa, song với một điểm khác biệt lớn: mặc dù kế hoạch của ông cho phép khả năng một liên bang vẫn là một phần trong đế chế của nhà vua, nó được thiết kế để có thể tiếp tục vận hành ngay cả khi đế chế tan rã.

Những điều khoản về Liên bang và Liên minh Vĩnh viễn mà ông trình bày trước Quốc hội Lục địa vào ngày 21 tháng 7, cũng giống như kế hoạch Albany, chứa đựng các hạt giống của một sự đột phá vĩ đại về nhận thức mà cuối cùng sẽ quy định hệ thống liên bang của nước Mỹ: sự phân chia quyền lực giữa chính quyền trung ương và chính quyền các bang. Tuy nhiên, Franklin đã vượt trước thời đại của ông. Chính quyền trung ương do ông đề xuất rất mạnh, thực tế còn mạnh hơn cả chính quyền sau cùng được lập ra bởi Các điều khoản Liên bang thật sự mà Quốc hội Lục địa bắt đầu soạn thảo vào năm sau đó.

Phần lớn câu chữ trong đề xuất của Franklin được lấy từ các kế hoạch liên bang của New England, đưa ta trở lại một kế hoạch được tạo lập năm 1643 bởi các thỏa thuận tại Massachusetts và Connecticut. Nhưng phạm vi và sức mạnh của nó vượt xa bất cứ thứ gì đã được đề xuất trước đây. “Tên của Liên bang bởi thế sẽ được gọi là Các Thuộc địa Bắc Mỹ Hợp nhất,” 13 điều khoản chi tiết của Franklin đã bắt đầu như vậy. “Các thuộc địa hợp nhất từ đây sẽ gia nhập vào một Liên minh Bằng hữu vững chắc, ràng buộc chính họ và hậu duệ của họ để cùng phòng thủ chống lại kẻ thù, bảo đảm quyền tự do và tài sản, sự an toàn của cá nhân và gia đình họ cùng rất nhiều phúc lợi chung lẫn nhau.”13

Theo đề xuất của Franklin, Quốc hội Lục địa sẽ chỉ có một viện duy nhất, với các đại diện từ mỗi bang theo tỷ lệ dựa trên số dân. Nó có quyền đánh thuế, tiến hành chiến tranh, điều động quân đội, tham gia liên minh với nước ngoài, giải quyết tranh chấp giữa các thuộc địa, thành lập các thuộc địa mới, phát hành đồng tiền thống nhất, thiết lập hệ thống bưu chính, điều hành thương mại và ban hành luật pháp “cần thiết cho phúc lợi chung”. Franklin cũng đề nghị rằng, thay vì chỉ có một chủ tịch duy nhất, Quốc hội nên chỉ định một “hội đồng điều hành” gồm 12 thành viên, mỗi thành viên sẽ phục vụ theo các nhiệm kỳ ba năm so le nhau.

Franklin cũng đưa ra một điều khoản giải thoát: nếu nước Anh chấp nhật tất cả những đòi hỏi và tiến hành bồi thường tài chính cho mọi thiệt hại mà nó đã gây ra, liên minh có thể được giải tán. Nếu không, “liên minh này sẽ là vĩnh cửu”.

Franklin nhận thức đầy đủ rằng, điều đó gần dẫn đến một tuyên bố độc lập với nước Anh và một tuyên bố phụ thuộc giữa các thuộc địa với nhau, và cả hai điều này vẫn chưa nhận được sự ủng hộ rộng khắp. Vì thế ông đọc đề xuất của mình vào hồ sơ, nhưng không thúc đẩy việc biểu quyết cho nó. Ông vui lòng chờ lịch sử và phần còn lại của Quốc hội Lục địa bắt kịp mình.

Cuối tháng Tám, khi đã tới lúc Temple từ New Jersey trở về Philadelphia, William có ý đề nghị rằng anh có thể hộ tống cậu bé về.

Franklin cảm thấy không thoải mái khi nghĩ đến việc con trai trung thành với nước Anh của ông đến thành phố trong lúc Quốc hội chống đối đang họp, nên ông quyết định tự đi đón Temple.14

Temple cao lêu nghêu, ham vui, và bừa bộn như mọi thiếu niên 15 tuổi. Phần lớn thư tín của cậu là để tìm các đồ đạc cá nhân mà cậu đã để sai chỗ. Mẹ kế của cậu nhận xét: “Con cực kỳ kém may mắn với quần áo của mình.” William cố gắng giữ gìn hình ảnh một gia đình êm ấm và đưa những lời tốt đẹp về Franklin vào tất cả thư từ anh gửi cho Temple. Anh cũng cố gắng theo kịp những lời xin thêm tiền thường xuyên của cậu bé. Trong cuộc chiến lôi kéo tình cảm đó, cậu bé ít phải nghe bài giảng về tính căn cơ hơn các thành viên khác trong gia đình.

Một lần nữa, xung quanh Franklin là một kiểu gánh xiếc gia đình mà ông thấy rất thoải mái: con gái ông và chồng cô, hai đứa con của họ (Benny, 6 tuổi và William, 2 tuổi), Temple, và cuối cùng là Jane Mecom, cô em duy nhất còn sống của ông. Trong tất cả mớ thư từ từ ngày đó mà chúng ta có được, không khi nào ông nhắc đến Deborah; cuộc sống ở Phố Chợ có lẽ vẫn tiếp diễn mà không có bà.

Tới lúc này, Franklin đã có thể đóng mọi trương mục của ông, cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng, với gia đình “bản sao” tại London. Ông gửi cho bà Stevenson 1.000 bảng để trả tiền thuê nhà và kiên quyết khuyên bà đầu tư vào một mảnh đất hơn là chứng khoán. “Nước Anh đã bắt đầu cuộc chiến với chúng tôi, và tôi hiểu nó sẽ không sớm kết thúc”, ông viết, “có một khả năng rất cao là giá cổ phiếu sẽ quay đầu lao dốc.”

Về phần mình, bà Stevenson rơi vào “tinh thần yếu đuối”, héo hon chờ ông trở lại. “Nếu không phấn khởi hy vọng dành phần đời còn lại với ông”, một người bạn của bà viết thư cho Franklin, “thật sự bà ấy sẽ rất khốn khổ.” Theo cách vui vẻ của mình, Franklin một lần nữa đề xuất sắp xếp một cuộc hôn nhân - lần này là giữa Benny, cháu ông, và Elizabeth Hewson, con gái của Polly Stevenson.15

CHUYẾN ĐI TỚI CAMBRIDGE

Franklin đã phục vụ đất nước mình, vào lúc nó đang hướng đến cách mạng, trong những vai trò thích hợp với một người ở tuổi ông: nhà ngoại giao, phát ngôn viên lớn tuổi, nhà hiền triết và đại biểu tỉnh táo. Song, ông vẫn có thiên hướng và tài năng thực hành quản lý, sắp xếp mọi thứ để khiến cho chúng xảy ra trên thực tế.

Ông là lựa chọn rõ ràng cho vị trí chủ tọa một ủy ban thảo luận về cách thay thế hệ thống bưu chính do người Anh điều hành. Sau đó, ông trở thành tổng giám đốc bưu điện mới của nước Mỹ vào tháng Bảy. Công việc này đem lại cho ông một khoản 1.000 bảng mỗi năm, song tình yêu nước đã áp đảo tính cần kiệm của Franklin: ông hiến tặng tiền lương của mình để chăm lo cho các binh sĩ bị thương. “Người ta có thể cần mẫn với chúng tôi xuất phát từ lòng nhiệt tình vì lợi ích chung, cũng như với ông vì vài ngàn bảng mỗi năm,” ông viết cho Priestley. “Đó là khác biệt giữa các nhà nước mới không bị tha hóa và các nhà nước cũ bị tha hóa.” Tuy nhiên, thiên hướng của ông với chủ nghĩa gia đình trị vẫn không đổi. Richard Bache trở thành người kiểm soát tài chính của hệ thống mới.

Franklin cũng được giao phụ trách điều hành việc thiết lập một hệ thống tiền giấy, một trong những đam mê lâu nay của ông. Như thường lệ, ông đắm mình trong các chi tiết. Vận dụng kiến thức về thực vật học liên quan tới cấu trúc gần của nhiều loại lá, ông tự vẽ các kiểu lá cho các tờ tiền để giúp chúng khó bị làm giả hơn. Một lần nữa, Bache lại hưởng lợi - anh là một trong những người được Franklin chọn giám sát việc in ấn.

Các nhiệm vụ khác của Franklin bao gồm: đẩy nhanh nỗ lực thu gom chì để làm đạn, thiết kế các phương án để sản xuất thuốc súng và phục vụ trong các ủy ban thương lượng với người Anh-điêng và thúc đẩy mậu dịch với các đối thủ của nước Anh. Ngoài ra, ông được bầu đứng đầu hội đồng quốc phòng của tỉnh bang Pennsylvania. Trong tư cách đó, ông trông coi việc xây dựng hệ thống chướng ngại vật dưới nước bí mật để ngăn tàu chiến của kẻ thù đi vào sông Delaware và viết các đề xuất chi tiết, với đầy đủ tiền lệ lịch sử về việc dùng giáo mác, thậm chí cung tên đề bù đắp cho sự thiếu hụt thuốc súng ở thuộc địa (gợi nhớ tới các đề nghị mà ông đã đưa ra từ năm 1755 về việc sử dụng chó). Ý tưởng dùng cung tên có vẻ kỳ cục, nhưng ông biện luận cho nó trong một lá thư gửi Tướng Charles Lee ở New York. Một trong số những lý do ông đưa ra là: “Một người có thể bắn thật sự bằng một cây cung hệt như một cây súng hỏa mai thông thường... Anh ta có thể bắn bốn mũi tên trong cùng khoảng thời gian nạp và bắn một viên đạn... Đường bay của các mũi tên có thể được nhìn thấy khi nó lao về kẻ thù sẽ khiến chúng khiếp sợ và mất tập trung vào nhiệm vụ... Một mũi tên găm vào bất cứ bộ phận cơ thể nào cũng khiến kẻ đó bị loại khỏi vòng chiến đấu cho đến khi nó được rút ra.”16

Với tuổi tác và thể chất yếu đuối của ông, hẳn người ta đã mong đợi ông đóng góp kinh nghiệm của mình khi sống thoải mái tại Philadelphia. Nhưng một trong những đặc điểm của ông là sự sẵn sàng, hay đúng hơn là sự háo hức, tham dự vào các chi tiết thực tế thay vì lý thuyết xa vời. Từ khi còn là thiếu niên cho đến lúc ở tuổi cổ lai hy, ông luôn được tiếp thêm sức sống nhờ đi du lịch. Bởi thế, ông lại tham gia nhiệm vụ mà Quốc hội Lục địa giao vào tháng 10 năm 1775 và tháng 3 năm 1776.

Chuyến đi tháng Mười xảy ra để đáp ứng lời kêu gọi của Tướng Washington, người đã nắm quyền chỉ huy lực lượng dân quân Massachusetts ô hợp và đang nỗ lực biến họ cùng rất nhiều cư dân biên giới vô kỷ luật đến từ các thuộc địa khác thành hạt nhân của quân đội lục địa thực thụ. Thiếu thốn trang thiết bị và tinh thần sa sút, câu hỏi đặt ra là liệu ông có thể giữ được các đội quân qua mùa đông hay không. Vì thế, Quốc hội Lục địa đã chỉ định một ủy ban nghiên cứu tình hình - đó gần như là tất cả những gì họ có thể làm. Franklin đồng ý đứng đầu ủy ban này.

Buổi tối trước khi khởi hành, Franklin viết thư cho hai người bạn Anh, nhấn mạnh rằng nước Mỹ quyết tâm chiến thắng. “Nếu các vị tự huyễn hoặc rằng sẽ đánh cho chúng tôi phải quy phục, như vậy nghĩa là các vị không hề hiểu gì về dân tộc và đất nước này,” ông nói với David Hartley. Với Joseph Priestley, ông đưa ra một phép toán nhỏ để một trong những người bạn của họ cân nhắc: “Với chi phí 3 triệu bảng, nước Anh đã hạ được 150 người Mỹ trong chiến dịch này, nghĩa là tốn 20.000 bảng cho một cái đầu... Cùng lúc đó, có 60.000 đứa trẻ chào đời ở Mỹ. Từ những số liệu này, đầu óc toán học của ông ta sẽ dễ dàng tính ra được thời gian và chi phí để giết sạch chúng tôi.”17

Franklin cùng hai ủy viên đồng nghiệp đã gặp Tướng Washington ở Cambridge trong suốt một tuần. Kỷ luật là một vấn đề lớn, và Franklin đã tiếp cận nó theo cách tỉ mỉ thường lệ của ông bằng việc soạn ra (như ông đã làm hai thập niên trước với dân quân Pennsylvania) các phương cách và thủ tục chi tiết đến khó tin. Thí dụ, danh sách các hình phạt được định sẵn của ông bao gồm: từ 20 đến 39 roi cho các lính gác bị bắt quả tang đang ngủ quên, mức phạt một tháng lương với sĩ quan vắng mặt không phép, bảy ngày hạ ngục chỉ với bánh mì và nước cho một quân nhân vắng mặt không phép, và tử hình cho tội nổi loạn. Khẩu phần cho mỗi người được soạn ra chi tiết tương tự: một pound thịt bò hay cá muối mỗi ngày, một pound bánh mì, một lít bia hoặc rượu táo,... cho đến cả lượng xà phòng và nến.18

Khi họ chuẩn bị rời đi, Washington đề nghị ủy ban nhấn mạnh với Quốc hội “sự cần thiết của việc gửi tiền thường xuyên và liên tục”. Đó là thách thức lớn nhất của các thuộc địa và Franklin cung cấp một kế sách điển hình để có thể thu được 1,2 triệu bảng mỗi năm chỉ đơn giản từ việc biết căn cơ. “Nếu 500.000 hộ gia đình chi tiêu ít đi một shilling mỗi tuần”, ông giải thích với Bache, “họ có thể trả được toàn bộ số tiền này mà không cảm thấy hề hấn. Thôi uống trà sẽ giúp tiết kiệm ba phần tư số tiền trên và chỉ cần 500.000 phụ nữ mỗi tuần làm việc quay tơ hay dệt vải tạo ra 3 xu sẽ giúp trả nốt phần còn lại.” Về phần ông, Franklin hiến tặng số lương của giám đốc bưu điện, cộng với 100 bảng mà bà Stevenson giúp quyên góp ở London để giúp cho lính Mỹ bị thương. Ông cũng thu số tiền mà Hội đồng Lập pháp Massachusetts nợ ông để ông làm người đại diện cho họ ở London. Số tiền này thì ông giữ lại.19

Trong một bữa tối trong chuyến đi, ông gặp Abigail, vợ của John Adams, người về sau phỉ báng Franklin, song vào đêm đó thì thấy ông rất thú vị. Lời mô tả trong lá thư gửi cho chồng bà chỉ ra rằng bà có cái nhìn sâu sắc về thái độ của ông, nhưng niềm tin tôn giáo thì không:

Em thấy ông ấy là người thân thiện song không nhiều lời và mỗi khi ông ấy lên tiếng thường sẽ có điều gì đó hữu ích bật ra từ đầu lưỡi. Ông ấy nghiêm trang nhưng dễ chịu và dễ thương. Anh biết đó, em có một số ấn tượng về tướng mạo và em nghĩ mình có thể đọc được trên gương mặt ông ấy những giá trị của trái tim, trong đó lòng ái quốc tỏa sáng với ánh sáng viên mãn. Cùng hòa với nó là mọi đức tính của một Ki-tô hữu: bởi lẽ một nhà ái quốc thực thụ phải là một người mộ đạo.20

Trên đường trở về Philadelphia, Franklin dừng ở đảo Rhode để gặp cô em gái, Jane Mecom. Bà đã bỏ trốn khỏi thành phố Boston đang bị người Anh chiếm đóng và lánh tới nhà người bạn cũ của Franklin, Catherine Ray Greene và chồng cô. Nhà của Caty giờ đây chứa hàng tá họ hàng và bạn bè tới lánh nạn. Franklin lo rằng Jane “chắc hẳn là gánh nặng lớn với ngôi nhà hiếu khách đó”. Thực tế, như Claude-Anne Lopez nhận xét, “Jane and Caty, dù cách xa một thế hệ về tuổi tác và cách một thế giới về hoàn cảnh và tính khí, đã có một mối quan hệ tuyệt vời.” Cũng như Franklin quen tìm kiếm các cô con gái cho chính mình, Jane cũng quen xem Caty là con gái. (“Ơn Chúa, ta đã có một đứa con gái!” Jane viết cho Caty dù trên thực tế bà cũng có con gái ruột nhưng bị cô ta ghẻ lạnh.)21

Franklin đáp lễ. Khi đón Jane, Franklin đã thuyết phục Ray, cậu con trai 10 tuổi của Caty, theo họ cùng về Philadelphia để nhập học chung trường với Temple tại đây. Chuyến xe đi qua Connecticut và New Jersey là một niềm vui lớn với Jane. “Cuộc trò chuyện với anh trai thân mến của ta còn hơn vạn lần thời tiết tốt có thể tưởng tượng được cộng lại”, bà thuật lại với Caty. Cảm giác tốt lành mạnh đến mức họ có thể vượt qua mọi căng thẳng chính trị, ghé lại tại dinh thống đốc ở Perth Amboy để gặp William trong một khoảng thời gian ngắn ngủi.

Có ai ngờ đây là lần cuối cùng Franklin gặp con trai ông, trừ một cuộc gặp căng thẳng ở Anh 10 năm sau đó. Song cả hai đều không biết điều đó, nên họ chỉ có một cuộc gặp mau lẹ. “Cha mẹ sẵn lòng giữ mọi người lại lâu hơn nhưng ông nội con sốt sắng về nhà”, vợ của William viết thư cho Temple.22

Khi đó ở Philadelphia, có một nhóm đơn vị hải quân đang được tổ chức để tìm cách bắt các chuyến tàu chở vũ khí của quân Anh. Franklin để ý thấy một tay trống của họ đã vẽ một con rắn chuông trên chiếc trống của anh ta, trang trí với câu: “Đừng giẫm lên tôi!” Trong một bài báo giấu tên đậm chất hài hước và thoáng chút cay độc, ông đề xuất nó nên được lấy làm biểu tượng và khẩu hiệu cho cuộc đấu tranh của người Mỹ. Franklin nhận xét loài rắn chuông không có mi mắt, “vì thế có thể xem nó như biểu tượng của sự cẩn trọng.” Nó không bao giờ chủ động tấn công hoặc đầu hàng một khi đã lâm trận, “vì thế là một biểu tượng của lòng hào hiệp và dũng cảm thực thụ.” Về những chiếc chuông, con rắn trên mặt trống có 13 chiếc cả thảy, “chính xác bằng số thuộc địa hợp nhất ở Mỹ; và tôi cũng xin nhắc rằng, đây là phần duy nhất của con rắn có sự gia tăng về con số”. Christopher Gadsen, một đại biểu Quốc hội đến từ Nam Carolina, đã đón nhận gợi ý từ bài báo của Franklin, sau đó thiết kế một lá cờ màu vàng với một con rắn chuông và dòng chữ trang trí “Đừng giẫm lên tôi”. Nó được các đơn vị hải quân đầu tiên của nước Mỹ treo vào đầu năm 1776 và về sau cả nhiều lực lượng dân quân khác.23

CANADA

Nhận một nhiệm vụ tới vùng Boston vào mùa thu là điều dễ hiểu: đó là một chuyến đi đủ dễ dàng trở về sinh quán của ông. Điều khó giải thích hơn là việc Quốc hội Lục địa phái ông đi thực hiện một nhiệm vụ thứ hai và việc ông sẵn sàng nhận lời. Tháng 3 năm 1776, ở tuổi 70, Franklin bắt đầu một chuyến đi khốc liệt tới Quebec.

Một lực lượng Mỹ hỗn tạp, do nhân vật lúc này hãy còn yêu nước Benedict Arnold lãnh đạo, đã xâm phạm Canada với mục đích ngăn cản nước Anh đưa quân viễn chinh xuôi xuống Hudson chia cắt các thuộc địa. Bị mắc kẹt và bị bao vây, các lực lượng này đã trải qua một mùa đông lạnh cóng và đang cầu xin Quốc hội tiếp ứng. Một lần nữa, Quốc hội đáp lại bằng việc chỉ định một ủy ban, và một lần nữa Franklin lại dẫn đầu.

Vào ngày di chuyển đầu tiên, Franklin và các ủy viên đồng nghiệp đã đi ngang qua phía bắc Perth Amboy, nơi William vẫn vờ nắm quyền dù quân nổi dậy địa phương đã hạn chế hành động của anh. Franklin không ghé thăm. Con trai ông giờ đây là kẻ thù. Thực tế, William đã tỏ rõ lòng trung thành của anh hiện đặt nơi đâu: anh gửi sang London tất cả thông tin mà anh thu thập được về nhiệm vụ của cha. “Tiến sĩ Franklin”, anh viết, có ý định “thuyết phục người Canada tham gia vào Liên bang với các thuộc địa khác”. Tuy vậy, trong các lá thư gửi cho Temple, anh tuôn ra nỗi đau khổ và lo sợ của mình. Liệu người cha già của anh có đủ sức để sống sót sau chuyến đi? Có cách nào để khiến ông thoái chí ở lại? “Không có điều gì khiến cha đau lòng hơn khi ông nội con nhận lời đi chuyến này.”

Khi đến Saratoga, nơi họ dừng lại đợi băng trên các mặt hồ tan ra, Franklin nhận thấy rằng thực sự có thể ông không sống nổi. “Tôi đã nhận lấy một công việc khó nhọc mà ở tuổi này nó tỏ ra quá lớn đối với tôi”, ông viết cho Josiah Quincy. “Bởi thế tôi ngồi xuống để viết thư cho vài người bạn như một lời từ biệt.” Song, ông vẫn tiếp tục lên đường, và sau một tháng di chuyển gian truân, có những khi phải ngủ trên sàn nhà bỏ hoang, ông cuối cùng cũng đến được Montreal. Dọc đường đi, ông đã mua một chiếc mũ lông chồn mềm. Về sau chiếc mũ sẽ trở nên nổi tiếng khi thường được ông mang trong lúc làm đặc sứ tại Paris, để tạo một phần hình ảnh của một nhà hiền triết giản dị miền biên ải.24

Bất chấp sự hỗn loạn của các lực lượng do ông ta cầm đầu, Benedict Arnold đón tiếp Franklin và các ủy viên đi cùng bằng một bữa tối thịnh soạn - với một đám gái trẻ người Pháp góp vui thêm với. Chúa ơi, Franklin đâu có lòng dạ nào thưởng thức nó. “Tôi đớn đau nhiều vì mấy chiếc nhọt lớn”, về sau ông viết. “Ở Canada, hai chân tôi sưng tấy và tôi đã hiểu thế nào là phù thũng.”

Tình trạng quân đội cũng tệ hại tương tự. Đội quân bị vây khốn của người Mỹ mong ủy ban mang đến ngân quỹ cần thiết và họ thất vọng vô cùng khi nhận ra không phải vậy. Mặt khác, phái đoàn của Franklin cũng hy vọng có thể gây quỹ từ người dân Canada địa phương, song rõ ràng điều đó là không thể. Cá nhân Franklin đã trao cho Arnold 353 bảng bằng tiền vàng lấy từ túi mình, một cử chỉ tốt đẹp đem lại cho ông chút ít lòng yêu mến nhưng không giúp ích gì lắm trong việc giải quyết tình hình.

Franklin đã được chỉ thị cố gắng lôi kéo Quebec tham gia vào cuộc nổi dậy của người Mỹ song ông quyết định không thử. “Cho đến khi có tiền, dường như không phù hợp để đề xuất một liên minh liên bang giữa tỉnh này với các tỉnh khác”, ông báo cáo, “vì số bạn bè ít ỏi chúng ta có ở đây sẽ chẳng dám liều lĩnh tự thân ra sức ủng hộ nó cho đến khi họ thấy thế lực của chúng ta hồi phục và một đội quân đủ lớn đến đây.”

Khi các báo cáo cho biết tàu Anh đang trên đường tới, người Canada thậm chí còn trở nên ít hiếu khách hơn. Ủy ban đã đi đến một kết luận khó tránh khỏi: “Nếu không có tiền để hỗ trợ cho quân đội ở đây để có thể được người dân kính trọng bằng danh dự chứ không phải bị khinh ghét, chúng tôi nhất trí nhắc lại quan điểm cứng rắn rằng, tốt hơn hết ta nên lập tức rút quân.”

Kiệt sức và cảm thấy thất bại, Franklin dành cả tháng Năm gắng gượng trở về Philadelphia. “Tôi thấy mình yếu đi mỗi ngày”, ông viết. Khi về đến nhà, chứng bệnh gout của ông tồi tệ đến nỗi suốt nhiều ngày ông không thể ra khỏi nhà. Như thể ông đã làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho đất nước.

Song, sức khỏe của ông dần hồi phục, nó được động viên nhờ một chuyến thăm của Tướng Washington và một vài tin tức của một sự kiện lớn sắp xảy ra. Ông viết cho Washington vào ngày 21 tháng 6: sức khỏe tồi tệ “đã khiến tôi phải xa cách Quốc hội và bạn hữu gần như kể từ khi ngài rời xa chúng tôi, vì thế tôi ít biết về những gì đã xảy ra ở đó, trừ việc một Tuyên ngôn Độc lập đang được soạn thảo.”25

Chú thích:

[1]

[25]