← Quay lại trang sách

4. Nguyễn hữu Liên dâng mật kế (3)

Qua những giải đồng không mông quạnh, những làng mạc xơ xác, điêu tàn vì binh lửa đã đi qua, hai tráng sĩ Bùi, Lê đến Thăng Long, đất nhà Mạc, vào một buổi bình mình tươi đẹp.

Thành phố tưng bừng như ngày hội, dân chúng tấp nập như kiến cỏ. Họ hì hục đào cuốc suốt mấy dặm bao quanh cổ thành...

Hàng vạn con người, cuổc xuổng trong tay, móc đất đắp thành lũy. Họ hát ca vang dậy cả một góc trời.

Bùi văn Khuê bảo nhỏ với Thế Hùng:

- Hiền đệ thấy không? Mạc mậu Hiệp quyết phòng thủ Thăng Long đến cùng, đã ra lịnh cho dân chúng đào ba lần hào, đắp ba từng lũy, quân Trịnh Tùng có thiện chiến đến đâu cũng khó mà phá được thành.

Thế Hùng cất tiếng lo ngại:

- Đệ không tin tưởng như đại huynh, họ Mạc có đắp thêm mười từng lũy, đào mười lần hào cũng khó thắng họ Trịnh. Đệ chắc chắn như vậy.

Họ Bùi kinh lạ nhìn bạn:

- Hiền đệ nói như vậy là ý gì?

Thế Hùng chậm rãi đáp:

- Họ Trịnh dùng trí còn họ Mạc dùng sức người thì làm thế nào thắng được. Đại huynh nhớ rõ, từ khi chúng ta qua khỏi Sơn Nam và vào đến Thăng long, có một ai đến tra xét hay cật vấn chúng mình không? Một kinh đô đang chuẩn bị chiến tranh mà thả lỏng cửa thành làm sao thắng được. Hơn nữa Trịnh Tùng còn cả một đội trinh thám vô cùng lợi hại dưới tay. Không biết chừng đâu chúng đã tổ chức những cơ quan bí mật cùng khắp Thăng Long rồi cũng nên... Họ Mạc lo đào hào đắp lũy chỉ là phí công vô ích...

Bùi văn Khuê cho lời bạn là đúng. Thật ra chính chàng cũng chưa nghĩ đến việc đó. Vừa nói chuyện hai người đã vừa tiến vào nội thành lúc nào không hay. Thành Thăng Long đẹp đẽ, đường sá ngay thẳng, rộng thênh thang, hàng phố chưng bày đẹp mắt.

Bụng đã thấy đói, họ Bùi liền rủ bạn vào một tửu quán có lầu để dễ bề quan sát thành phố. Họ đi thẳng lên lầu tìm một nơi gần cửa sổ trông thẳng xuống đường. Một tên hầu bàn bước tới cúi chào thật lễ phép. Sau khi kêu thức ăn, họ Bùi bèn hỏi hắn:

- Kinh thành hôm nào cũng rộn rịp như vậy?

- Dạ thưa không! Chỉ mới tháng trước trở lại đây, Chúa kêu gọi xây lại cổ thành Đại La để phòng quân Trịnh, mới có vẻ tấp nập thế này. Nhị vị tráng sĩ từ xa mới đến đây ư?

Bùi văn Khuê nghiêm trang đáp:

- Vâng! Chúng tôi từ Sơn Nam tới.

- Nếu vậy thì may mắn vô cùng. Nhị vị còn ở chơi lâu chứ? Ồ, thành phố về đêm còn vui vẻ hơn nhiều. Để hai vị dạo thử Thăng Long một đêm cho biết sự náo nhiệt khác thường.

Tánh tình vui vẻ khôn ngoan của tên hầu bàn làm cho hai họ Bùi, Lê vui thích, nhưng Bùi văn Khuê không khỏi ngờ vực trong lòng vì cặp mắt láo liên của hắn trông không có vẻ thật tình. Nhưng chàng cũng cho rằng đấy có lẽ sự xảo quyệt của kẻ buôn bán mà thôi.

Bỗng từ dưới kia đường có tiếng xôn xao, tiếng người la vang, và các cửa tiệm đua nhau đóng cửa rầm rầm. Kinh ngạc, Bùi văn Khuê cùng Thế Hùng đến bên cửa sổ nhìn xuống. Đường phố thoảng chốc trở thành hỗn loạn, người ta chạy ùn ùn đổ ra phía ngoài thành.

Không lý giặc từ trong cung, điện đánh ngược trở ra? Mà quân sĩ đâu không thầy ứng phó? Tiếng kêu khóc của đàn bà, trẻ con chạy đạp lên nhau nghe thảm thiết...

Một lúc sau, đường phố vắng tanh như ngày loạn lạc. Không ai dám hé cửa ra đường. Tên hầu bàn lúc nãy trở lên bảo Bùi văn Khuê và Thế Hùng:

- Nhị vị tráng sĩ an lòng! Không có chi đáng ngại, con Thiên linh Hổ của nha Chúa xổng chuồng chạy ra phố, nên dân chúng hãi hùng đến thế.

Bùi văn Khuê lấy làm lạ:

- Một con hổ dữ xổng chuồng mà tướng sĩ của chúa Mạc không trừ khử được ư? Phải để cho dân chúng kinh hoàng như vậy sao?

Tên hầu bàn khẽ đáp:

- Tráng sĩ đừng lấy làm lạ, ‘‘Thiên linh hổ’’ là một con vật quí nhất của chúa Mạc. Nó xổng chuồng thì tìm cách bắt sống nó lại chứ không được dùng vũ khí. Nó mà mệnh hệ nào thì kẻ trừ khử được nó cũng khó toàn tánh mạng.

Bùi văn Khuê hơi tức trong lòng, chàng hỏi gằn lại:

- Như vậy, chúa Mạc để mặc tình cho con hổ ấy giết hại dân lành ư?

Tên hầu bàn khẽ gật đầu:

- Mỗi lần hổ xổng ra, ít nhất cũng đến mười mạng người làm mồi cho nó.

Bùi văn Khuê nghiến răng đứng dậy:

- Không thể được! Ta phải can thiệp để hạ con cọp dữ ấy!

Chàng chưa dứt lời, từ dưới kia đường phố vang lên một tiếng gằm long trời chuyển đất.

Bùi văn Khuê và Thế Hùng bước tới bên cửa sổ. Dưới kia một cảnh tượng kỳ di hiện ra trước mắt: một con hổ Mun, sắc đen huyền to lớn, bằng một con bò mộng, đuôi dài phết đất, đang hầm hừ nhe nanh dọa một tốp lính tuần lấp ló xa xa.

Họ Bùi đoán chắc đó là con ‘‘Thiên Linh Hổ’’ của chúa Mạc mậu Hiệp. Chúa sơn lâm bước chậm rãi trên đường như người đi dạo phố, chỉ thỉnh thoảng quay lại nhe nanh dọa nạt bọn lính tuần theo sát không buông...

Bùi văn Khuê từ trên lầu cao nhẹ nhàng phóng mình xuống đất giữa sự kinh ngạc của mọi người. Bọn lính tuần hét vang lên:

- Tên kia! Chạy mau, bộ ngươi muốn tự tử ư?

Viên tướng chỉ huy cuộc rượt bắt ‘‘hổ’’ vội rẽ đám lính sang bên để nhìn rõ họ Bùi... Hắn e ngại Bùi văn Khuê dùng đến vũ khí mà ‘‘Thiên linh hổ’’ có chết đi hắn sẽ bị tội lây...

Thế Hùng thấy bạn nhảy xuống, sợ bạn gặp nguy cũng vội vàng phóng mình theo. Chân chàng vừa chấm đất thì đã nghe tiếng họ Bùi quát to:

- Hiền đệ lui ra, có sá gì con hổ đói nầy mà hiền đệ bận tâm cho nhọc xác.

Thế Hùng không biết làm sao đành phải nép mình vào mái phố chờ đợi lúc nguy ngập sẽ vào tiếp tay với bạn.

Bao nhiêu cặp mắt hướng về phía con hổ và họ Bùi. Bao nhiêu trái tim đều hồi hộp lo âu. Từ trên lầu các phố đã thấy đông nghẹt những người chen chúc nơi cửa sổ ra hành lang hoặc leo tận trên nóc lầu để nhìn cuộc tranh hùng kỳ dị giữa người và ác thú.

Hổ đã dừng hẳn lại, tức giận nhìn kẻ điên rồ đang đứng cản đường. Cặp mắt long lanh sáng quắc của nó chiếu thẳng vào miếng mồi ngon tự dưng mang đến nạp.

Bùi văn Khuê thản nhiên nhìn thẳng vào mắt nó. Chàng đang nghĩ đến những thế võ có thể khuất phục Thiên linh Hổ dễ dàng. Hổ kia ý chừng có linh cảm là kẻ địch của mình không phải tay vừa, nên thay vì phóng tới để kết liễu cuộc đời họ Bùi, nó lại thối lui nhiều bước rồi thu mình ngồi xuống,

Bùi văn Khuê cũng ngạc nhiên không ít. Chàng chưa hiểu hổ kia định dở trò gì? Nó không tấn công chắc đang bày ra thế thủ hiểm độc chứ cặp mắt chàng không đủ sức khuất phục nó mau mắn như vậy. Chàng từ từ bước lên chầm chậm. Bất ngờ, hổ vọt ra phía trước, hai chân chụp lên đầu chàng. Lẹ làng, họ Bùi hét lên một tiếng, thụp mình xuống cho qua lần hổ chụp rồi đánh thẳng một quyền vào hông hổ. Sau một tiếng ‘‘phịch’’ nặng nề, hổ lật ngang mình rơi xuống vệ đường.

Bị đau, con vật gầm thét dữ dội. Đôi mắt giết người của nó đỏ ngầu. Nó vẫy đuôi, rồi xông thẳng vào mình Bùi văn Khuê chụp lấy chụp để.

Trước sự hung hăng của hổ, Bùi văn Khuê càng trổ tài né tránh. Chàng cố sức vờn nhau với hổ càng lâu càng hay để cho nó mệt nhừ mới dễ dàng ra tay bắt sống.

Bọn lính tuần và dân chúng đã phục tài chàng tráng sĩ lạ mặt. Họ đã bớt lo cho tính mạng của chàng nhưng cũng không khỏi hồi hộp. Mỗi lần thú dữ tấn công. Họ kinh ngạt vô cùng và không hiểu Bùi văn Khuê đã dùng những thế võ nào để thoát hiểm dễ dàng.

Viên tướng chỉ huy cuộc đuổi bắt Thiên linh Hổ rất vui mừng vì có người trị được hổ nhưng không khỏi lo ngại như hổ. Không khéo chàng tráng sĩ kia lỡ tay, Thiên linh Hổ vong mạng càng nguy khốn hơn.

Hắn e dè cất tiếng bảo họ Bùi:

- Tráng sĩ! Nhẹ tay với kẻo giết chết Thiên linh Hổ thì tai họa vào mình đấy.

Dân chúng đứng xem cười ầm lên trước một việc quá trớ trêu: không sợ người bị hổ giết mà đi lo người giết hổ. Nhưng khi nhớ đến lịnh truyền của Chúa Mạc, ai cũng lo giùm họ Bùi.

Chàng tráng sĩ vẫn quần thảo với hổ từ hiệp nầy sang hiệp khác. Chàng không cố ý tấn công để giết hổ nhưng chàng thấy mình khó tránh lâu được vì hổ kia quá dũng mãnh. Nó cứ chụp thẳng vào mình họ Bùi từng đợt một, không thấy sút sức đi một chút nào.

Họ Bùi lo ngại. Nếu không ra tay hạ nó, có lẽ chàng lại mệt trước nó thì nguy. Chàng nghĩ đến một thế võ từ lâu lắm không dùng đến chắc tiện lợi trong lúc này. Thế võ bí hiểm, chàng đã được một ông thầy Tàu, đi mãi võ ngày xưa, truyền dạy.

Thế võ nầy không dùng đến chân tay. Võ sĩ vận dụng hết sức lực lên đầu cho thật cứng rắn để đánh kẻ địch những miếng bất ngờ. Con hổ chỉ dụng thế nhảy bổ lên đầu để vồ lấy người. Né tránh mãi cũng không ăn thua gì, dùng quyền đánh như lúc nẫy rất khó khăn vì bị đau một lần hổ tỏ ra khôn hơn. Họ Bùi chỉ thấy còn một cách dùng đầu đội vào bụng cọp. Chàng tin tưởng chỉ vài miếng đòn đau, hổ sẽ bớt hung hăng và chàng sẽ bắt sống nó dễ dàng.

Vừa nghĩ xong, Bùi văn Khuê thực hành ngay. Đợi cho con ác thú nhảy choàng tới, đưa hai chân ra trước, chàng liền ngồi xuống, vận dụng hết sức lực lên đầu, rồi thình lình nhảy vọt lên đội mạnh vào bụng hổ.

‘‘Con ác thú’’ gầm lên một tiếng đau đớn, lộn nhào bốn năm vòng, giẫy giụa một lúc máu trào ra miệng rồi lịm dần đi...

Tất cả mọi người đứng xem bên ngoài đều vô cùng kinh dị. Một sự im lặng nặng nề đè lên khắp công chúng. Chính Bùi văn Khuê cũng không ngờ thế võ ấy lại ghê gớm đến như vậy. Chàng vội vàng đến bên cạnh hổ xem sao. Con vật của chúa Mạc mậu Hiệp đã tắt thở, mắt nó trợn trừng như uất giận.

Đoàn linh tuần đã vây quanh Bùi văn Khuê và mãnh hổ. Dân chúng ùa đến mỗi lúc mỗi đông.

Viên tướng chỉ uy đoàn lính tuần nhìn thấy hổ rồi nhìn họ Bùi:

- Anh kia! Tài anh đã dùng không nhầm chỗ rồi. Ta đã nói trước là không được giết nó, anh không nghe nên bây giờ phải mắc tội với Chúa.

Họ Bùi cãi:

- Tôi nào có ý định giết chết nó đâu? Chẳng qua là một sự rủi ro.

Viên tướng cả cười:

- Tất cả mọi người ở đây đều hiểu rõ là anh không cố ý giết ‘‘Thiên linh hổ’’. Nhưng lịnh Chúa dạy rằng kẻ nào giết chết cọp yêu của của Chúa thì phải đền mạng. Vì nghiêm lịnh đó mà bao nhiêu người phải làm mồi cho hổ rồi, anh biết chăng?

Họ Bùi thở dài nhìn xuống đất. Chàng buồn rầu không phải vì sợ chết nhưng bao nhiêu hy vọng mang theo từ Tây Đô ra đây phút chót tiêu tan. Vì sanh mạng dân lành, chàng ra tay đả hổ, không ngờ mang họa vào mình lại còn hư hại đến việc lớn... Ước vọng cùng Thế Hùng ra Thăng Long quy phục nhà Mạc để một ngày kia diệt trừ Chúa Trịnh Tùng, trả thù cho bao trung thần của nhà Lê chắc chắn sẽ khó lòng thực hiện được, vì ngày nay chàng bỗng dưng trở thành kẻ thù của Mạc mậu Hiệp.

Viên tướng chỉ huy lại cất tiếng:

- Vậy phiền anh chịu trói để ta dẫn về triều. Bùi văn Khuê hết sức phân vân trong tình thế cấp bách nầy. Chống lại bọn lính tuần, thoát khỏi nơi đây là điều hết sức dễ dàng. Chàng chỉ cần dùng đến võ lực là bọn chúng sẽ chạy tán loạn hết. Nhưng xét cho cùng, như vậy không bao giờ chàng còn thấy được mặt Chúa Mạc. Phải liều vậy họa may còn cứu vãn được tình thế chút nào chăng?

Chàng bình thản đưa tay cho chúng trói, không nói thêm một lời nào.

Dân chúng đã khâm phục tài nghệ xuất quỷ nhập thần của Bùi văn Khuê, trong hoàn cảnh này, ai nấy đều tỏ vẻ mến thương chàng, cả đến toán lính tuần cũng cảm mến tài đức của họ Bùi người mà chúng biết rằng chỉ vung tay lên, chúng cũng đã ngã lăn ra hết.

Vừa nói xong, chưa kịp dẫn đi, đoàn lính tuần đã nghe một tiếng thét kinh hồn. Từ trong đám đông, một người nhảy vọt ra, tay cầm đoản kiếm, miệng quát lớn:

- Khôn hồn mở trói ra, bằng không ta bầm xác chúng bây ra tức khắc.

Toán lính đều rút vũ khí ra nghinh địch. Viên tướng chỉ huy tức giận nhìn kẻ lạ mặt rồi như lạ lùng, sắc mặt của hắn thay đổi từ giận sang vui mừng. Hắn bước tới vài bước nhìn kẻ lạ mặt cho rõ hơn rồi reo lên:

- Ồ kìa! Lê Công tử. Công tử đến Thăng Long từ bao giờ?

Kẻ lạ mặt ấy chính là Lê thế Hùng. Từ lúc nãy đến giờ chàng yên lặng chứng kiến trận thư hùng giữa Bùi văn Khuê và mãnh hổ, lo ngại vì bạn đã dùng thế hiểm độc hạ sát con vật yêu quý của Chúa Mạc. Chàng không hiểu vì sao Bùi văn Khuê lại lẳng lặng chịu trói, không kháng cự với tốp lính tuần? Đến lúc bắt trói họ Bùi thì Thế-Hùng không còn tự chủ được nữa. Chàng rút kiếm xông vào quyết giải vây cứu bạn.

Không ngờ tên tướng chỉ huy đoàn lính tuần lại nhìn mặt được Thế Hùng. Tiếng reo mừng của hắn làm cho vị công tử chú ý và, chỉ trong chớp mắt, chàng nhớ ngay tên đội trưởng Tiểu lý Quảng ngày xưa đã từng hầu dưới trướng của cha chàng là Quận Công Lê cập Đệ

Chàng cũng đổi giận làm vui:

- Kìa, Lý Quảng tướng quân còn nhìn được tôi ư?

Lý Quảng cười hà hà, chạy đến bên chàng:

- Trời! Có đời nào Lý Quảng này quên được công tử.

Hắn nắm chặt hai vai Thế Hùng một cách trìu mến, giữa sự ngạc nhiên đến cực độ của đoàn lính tuần. Phút vui mừng gặp gỡ đã qua, Lý Quảng bỗng hỏi Thế Hùng:

- Thái Quận công vẫn mạnh hả công tử?

Thế Hùng cúi đầu nhìn xuống đắt, gương mặt rầu rầu.

Lý Quảng kinh ngạc hỏi dồn dập:

- Công tử! Có việc gì đã xảy ra cho Quận công rồi ư?

Thế Hùng nhìn lên đau xót:

- Phụ thân tôi đã bị Trịnh Tùng ám hại mất rồi, luôn cả đức vua Lê Anh Tôn và quan Ngự sử Đặng Phương.

Lý Quảng buột miệng kêu lên:

- Trời ơi! Quân Trịnh tàn ác đến thế là cùng!

Lê thế Hùng ngắt ngang lời hắn:

- Câu chuyện còn dài, để rồi tôi sẽ thuật cho tướng quân nghe. Chúng ta nên lo vấn đề hiện tại. Người vừa đánh chết mãnh hồ là Bùi văn Khuê, vị ân nhân mà cũng là người bạn kết nghĩa của tôi. Tướng quân có liệu cách nào cứu anh ấy thoát hiểm họa được chăng?

Vui mừng gặp lại chủ cũ. Lý Quảng quên phăng câu chuyện rắc rối hiện tại. Bây giờ câu nói của Thế Hùng đã kéo hắn trở về thực tế.

Lý Quảng cảm thấy bối rối vô cùng, một bên là chủ cũ, một bên là nghiêm lịnh của Chúa Mạc, gã không biết phải liệu định thế nào cho ổn thỏa cả đôi đường.

Nhưng Bùi văn Khuê cất tiếng giúp hắn qua khỏi cơn bối rối:

- Lý tướng quân đừng lưỡng lự gì cả. Cứ mang bọn ta vào nạp cho Chúa Mạc là êm chuyện.

Lê Thế Hùng ngạc nhiên nhìn bạn:

- Đại huynh nghĩ thế nào mà lại bảo như vậy?

Bùi văn Khuê trấn an lòng bạn:

- Hiền đệ cứ an tâm. Ta đã nghĩ kỳ rồi. Chỉ có cách ấy chúng ta mới dễ dàng ra mắt Chúa Mạc, miễn Lý tướng quân biết nghĩ đến bọn ta mà tâu giùm vài lời.

Nói những câu sau cùng, họ Bùi liếc nhìn Lý Quảng. Viên tướng nhà Mạc khẽ mỉm cười:

- Nhị vị tráng sĩ an Lòng. Dù sao vẫn còn có tôi.

Lý Quảng sai quân mở trói cho họ Bùi, rồi mời hai tráng sĩ lên ngựa vào triều bệ kiến Chúa Mạc mậu Hiệp, Lê Thế Hùng cùng bạn vào ra mắt Chúa Mạc nhưng trong lòng không khỏi hồi hộp lo âu. Lỡ ra Mạc mậu Hiệp vì tiếc con hổ quý, hạ lịnh xứ tử họ Bùi thì không làm sao trở tay cho kịp...

Qua cửa Hòa bình và Cung nội, thay vì đưa Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng vào triều, Lý Quảng dẫn họ đến diễn võ trường nơi. chúa Mạc mậu Hiệp đang thử tài các tướng.

Võ trường rộn rịp, quân sĩ đứng vòng quanh, cờ xí rợp trời tiếng kèn thúc giục vang lên inh ỏi. Trên khán đài bao quanh võ trường chính. Chúa Mạc và các quan trong triều, đang ngồi xem các tướng trổ tài.

Lý Quảng dẫn đoàn người ngựa đến trước khán đài. Chúa Mạc ra lịnh ngưng cuộc thi võ. Chúa Mạc nhìn họ Lý và hai kẻ lạ mặt ngạc nhiên hỏi:

- Lý Quảng! Đã đem ‘‘Thiên linh Hổ’’về chưa. Hai gã kia là ai vậy?

Giữa lúc ấy Bùi văn Khuê và Thế Hùng đã xuống ngựa. Họ cúi đầu nhìn xuống đất và sẵn sàng chờ đợi cơn thịnh nộ của nhà Chúa.

Lý Quảng vòng tay trước Mạc mậu Hiệp:

- Tâu Chúa Công, ‘‘Thiên-Iinh-Hổ’’ không may thiệt mạng

rồi.

Chúa Mạc bỗng đứng phắt dậy hét lớn:

- Thiệt mạng rồi! ‘‘Thiên linh Hổ’’ chết!

Sự tức giận đã làm cho đôi tay Chúa run run, cặp mắt đỏ ngầu, đôi mắt mấp máy như chực truyền lệnh trảm tử kẻ đã vi phạm nghiêm lệnh của mình. Tất cả các quan văn võ hiện diện đều im thin thít. Giờ phút này tánh mạng của con người như một sợi chỉ mành...

Lý Quảng đã mất hết sự bình tĩnh, nhưng khi nhớ đến hai tráng sĩ Bùi, Lê và phận sự mình phải làm để đáp nghĩa xưa, hắn rạp mình xuống trước khán đài:

- Lạy Chúa công, bớt cơn thịnh nộ để cho tiểu tướng tâu rõ nguồn cơn. Đây là một sự rủi ro không ngờ trước được. Thiên Linh Hổ xông ra, gây náo loạn khắp cả hoàng thành, tiểu tướng dẫn quân tuần cảnh rượt theo, chưa làm gì được thì tráng sĩ đây tới kịp chặn đường, không ngoài ý muốn bắt nó giúp Chúa công. Thần xin thề không dám nói ngoa, tráng sĩ chỉ dùng tay không đả hổ. Hai bên quần thảo một lúc, tráng sĩ kia dùng đến cách đánh bằng đầu vào bụng hổ. Thật rủi ro! ‘‘Thiên linh Hổ’’ ngã lăn ra chết.

Trước câu chuyện lạ lùng ấy, cả vũ trường xôn xao bàn tán. Không một ai tin nhất là các tướng của Chúa Mạc đều cho là chuyện bịa đặt để gỡ tội...

Giữa lúc Chúa Mạc chưa nguôi cơn giận thì quân sĩ đã khiêng xác Thiên linh Hổ vào đến nơi. Mạc mậu Hiệp thân hành xem xét thấy con hổ yêu mến của mình. Khắp thân thể Thiên linh Hổ không có lấy một vết thương nào chứng tỏ đã bị giết không bằng vũ khí. Lúc ấy, Chúa Mạc mới để ý nhìn qua kẻ tội phạm.

Bùi văn Khuê nghĩ rằng đã đến lúc mình phải nói một đôi lời. Chàng quỳ xuống trước mặt Mạc mậu Hiệp và nói:

- Tâu Chúa công, thực tình tiểu tướng không cố ý sát hại ‘‘Thiên linh Hổ’’, chẳng qua vì gặp sự rủi ro.

Nhà Chúa chăm chú nhìn họ Bùi. Một ý nghĩ vừa thoáng qua trong đầu ông. Mất ‘‘Thiên linh Hổ’’ ông lại được thêm một tướng tài như gã lực sĩ nầy cũng không uổng lắm. Nhưng ông nghĩ cần phải thử tài họ Bùi xem sao. Nhưng người chợt nhìn thấy Lê thế Hùng vẫn đứng ngang nhiên không nói một lời, Chúa Mạc hất hàm hỏi:

- Gã kia là ai vậy?

Thế Hùng cúi đầu thi lễ. Chàng chưa kịp đáp, Lý Quảng đã cướp lời tâu:

- Lạy Chúa công, đây là Lê công tử, con trai của chủ cũ tiểu tướng ngày xưa là Thái Quận công, Lê Cập Đệ vì bị Trịnh Tùng hãm hại giết cả gia đình nên phải bôn đào tị nạn...

Chúa Mạc mậu Hiệp ngạc nhiên:

- Trịnh Tùng hãm hại Lê cập Đệ rồi ư?

Thế Hùng quỳ xuống:

- Tâu Chúa công. Quả đúng như vậy. Chẳng những thế, Bình an Vương Trịnh Tùng lại giết luôn đức vua Lê Anh Tôn cùng cậu của thần là Ngự sử Đặng Phương...

Thoáng một giây, Chúa Mạc nghĩ rằng mình đã gặp may. Ông cúi xuống đỡ Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng đứng dậy.Ông chắc chắn đã được thêm hai tướng tài để đối đầu với Trịnh Tùng...

Mạc Mậu Hiệp cất lời nói với họ Bùi:

- Tráng sĩ đừng ngại về con ‘‘Thiên linh Hổ’’ chẳng qua vì nóng giận ta nói thế đấy thôi. Từ nay, tráng sĩ và Lê công tử hãy ở đây giúp ta.

Dứt lời nhà vua liền mời hai tráng sĩ Bùi, Lê lên khán đài. Cử chỉ chiêu đãi kẻ tội phạm như hàng thượng khách đã làm phật lòng một số đông võ quan hiện diện. Họ không ngờ đó chỉ là cái thuật dụng người của Chúa Mạc mà thôi.

Bây giờ, quan Đề đốc Hộ thành Thăng Long Nguyễn Quyện bèn gọi giựt Tiểu Lý Quảng đến trước hàng ghế của bọn tướng lãnh mà trách:

- Tướng quân muốn làm nhục bọn ta chăng? Hai tên chết đói đó ở đâu lại đưa về đây để lòe Chúa thượng bằng những chuyện bịa đặt như vậy?

Tiểu Lý Quảng uất ức vô cùng, nhưng chỉ cúi đầu làm thinh.

Đằng kia, thoáng nghe lời khinh miệt của Đề đốc Hộ thành, Lê thế Hùng nhổm dậy, nhưng họ Bùi nắm tay kéo lại, ra dấu nên nhẫn nhục.

Tô Tạo, tướng lãnh vào hàng vô địch của Chúa Mạc thấy vậy, cất tiếng cười nhạo báng:

- Hà! Hà! Thằng bé con kia hợm mình, còn thằng to đầu lại quá hèn nhát thì làm cái trò gì được.

Lê thế Hùng không còn chịu đựng được nữa. Chàng quyết đứng lên dạy cho chúng một bài học về cách đối xử ở đời. Biết tánh nóng nảy của bạn, Bùi văn Khuê thúc mạnh vào hông rồi bảo nhỏ:

- Hiền đệ cần nhẫn nhục nhiều hơn nữa. Gây sự với chúng không có lợi gì cả mà còn có thể hại đến việc lớn.

- Bọn chúng khinh miệt chúng ta như vậy mà Đại huynh chịu đựng được ư?

- Hiền đệ thật hay nóng sằng. Nếu đánh nhau với bọn tướng lãnh nhà Mạc, Chúa Mạo mậu Hiệp chắc chắn sẽ bênh vực chúng mà hiếp bọn ta. Có ai đi chặt bỏ chân tay mình vì những kẻ xa lạ đâu?

Lê thế Hùng tức tối vô cùng nhưng trước những lời nói hữu lý của bạn, chàng đành phải nghe theo.

Riêng về Chúa Mạc mậu Hiệp, tuy cặp mắt nhìn ra ngoài kia vũ trường, nhưng vẫn luôn luôn chú ý đến hành động và cử chỉ của hai tráng sĩ. Chúa Mạc thầm khen thái độ mềm dẻo của Bùi văn Khuê: Mạc mậu Hiệp cũng biết hàng tướng sĩ bất khuất và ganh tị việc Bùi - Lê được hậu đãi, nhưng cần gì, nếu họ Bùi là kẻ kỷ tài thì rồi đây họ cũng bắt buộc phải phục tùng.

Chúa Mạc không hiểu vì sao mới gặp lần đầu, ông ta đã có một sự tin tưởng ở tài năng và sự tận trung của Bùi văn Khuê. Đối với Lê thế Hùng, chúa Mạc chỉ xem thường thôi, không để ý nhiều lắm, dù người được biết Lê công tử là con của Thái Quận Công Lê cập Đệ, một vị công thần đáng trọng của nhà Lê.

Bỗng dưới vũ trường, tiếng trống, tiếng chiêng nổi lên inh ỏi. Quân lính ở vòng rào phía ngoài vẹt ra hai bên. nhường lối cho một đoàn kỵ sĩ, vai mang cung tên chậm rãi đi vào. Và khi đến trước khán đài, họ kính cẩn cúi đầu. Chúa Mạc vẫy tay đáp lễ.

Đoàn kỵ sĩ rời khán đài, thúc ngựa ra giữa vũ trường, xếp thành một hàng dài, ngay thẳng. Mỗi người lấy cung ra lắp sẵn lên, cũng nhìn về phía trước đợi chờ.

Chúa Mạc khẽ gọi Bùi văn Khuê đến bên mình rồi chỉ xuống đoàn kỵ sĩ, nói:

- Đây là những tay thiện xạ được tuyển chọn kỹ càng trong binh đội và trong dân chúng. Tuy không được phong tước nhưng ta rất tin yêu và trọng đãi họ. Quyền điều khiển nhóm kỵ sĩ thiện xạ này, ta đã giao cho tướng quân Tô Tạo, một lực sĩ vô địch ở Thăng Long thành.

Bùi văn Khuê khẽ liếc nhìn viên tướng chỉ huy đoàn kỵ

binh thiện xạ. Hẳn không ai khác hơn là kẻ vừa sĩ nhục hai chàng.

Họ Bùi bỗng hỏi Chúa Mạc:

- Tâu chúa thượng, cuộc thi bắn tên giữa các kỵ sĩ lão luyện này cốt ý để làm gì?

- Ta muốn chọn một vị phó tướng để tiếp tay với Tô Tạo

Họ Bùi thấy nôn nao trong lòng. Chàng cố bình tĩnh để hỏi:

- Tâu chúa thượng, điều kiện được tuyển chọn như thế nào, xin cho tiểu tướng được biết.

Chúa Mạc khẽ mỉm cười:

- Tráng sĩ muốn dự thi ư? Có khó gì. Cứ thắng được kẻ giải nhất của đám kỵ sĩ thiện xạ nầy, ta sẽ phong chức ấy ngay.

Bùi văn Khuê hết sức vui mừng:

- Cảm đội ơn chúa thượng!

Ở dưới kia, cuộc thi bắn tên bắt đầu. Ba hồi trống, ba hồi chuông vừa dứt, tất cả mọi người đều nhìn về phía một vệ sĩ mặc quân phục màu đỏ, tay cầm chiếc lồng... Một tiếng pháo lịnh nổ vang lên, hắn mở nắp lồng đưa lên cao.

Từ trong lồng, một con chim én vọt bay lên không. Sau một tiếng pháo lệnh thứ hai, hằng trăm mũi tên bay rẹt theo. Dưới tầm mắt của những tay thiện xạ kỳ tài, chim kia không thoát được: một mũi tên xuyên qua cổ họng, chim én bổ nhào xuống đất, giữa tiếng hoan hô ầm ĩ.

Đám kỵ sĩ thiện xạ vẫn ngồi im lim trên lưng ngựa, lòng hồi hộp vô cùng. Giờ phút này cũng chưa rõ ai đã bắn rớt chim bay. Anh vệ sĩ áo đỏ lúc nẩy lại hiện ra. Hắn lượm con chim én lên và đọc to tên họ của kỵ sĩ trúng tuyển được khắc sau đuôi mũi tên:

- Nguyễn Oai...

Tiếng hoan hô lại nổi lên vang dậy. Nguyễn Oai ra khỏi hàng ngũ đám kỵ binh rồi phóng ngựa đến trước khán đài để ra mắt chúa Mạc.

Mạc Mậu Hiệp ban khen chàng kỵ binh may mắn và phán rằng:

- Điều kiện trở thành Phó tướng đoàn kỵ binh thiện xạ còn phải qua lần thử sức đua tài, hẳn tướng quân còn nhớ chứ?

Nguyễn Oai nhảy xuống ngựa cúi đầu:

- Tâu chúa thượng, tiểu tướng nhớ rõ.

Nói xong, Nguyễn Oai bước đến một chiếc đỉnh đồng to lớn nặng có hơn ngàn cân, đặt trước khàn đài.

Hằng vạn cặp mắt đều quay về phía hắn. Nguyễn Oai chăm chú nhìn chiếc đỉnh cao lớn hơn thân người của y, từ từ ngồi xuống, rồi hai tay nắm lấy một chân đỉnh, nhắc bỗng lên. Chiếc đỉnh hơi động đậy một chút rồi lên theo hai tay Nguyễn Oai.

Tiếng vỗ tay hoan nghinh lại vang trời dậy đất.

Nguyễn Oai từ từ hạ đỉnh đồng, nét mặt hơi thoáng mệt. Chúa Mạc mỉm cười loại nguyện và phán to giữa vũ trường:

- Nguyễn Oai, sau khi bắn tên và cử đỉnh, tỏ ra xứng đáng được chọn giữ chức phó tướng chỉ huy đoàn kỵ binh thiện xạ.

Tiếng hoan hô lại vang lên như sắm dậy. Chúa Mạc phải đưa tay ngăn lại và tiếp lời:

- Nhưng... để cho công bình hơn, ta truyền lịnh cho khắp ba quân tướng sĩ và cả trong dân chúng - những cấp bực cao hơn không nói làm gì - ai tỏ ra bất phục cứ vào xin thử tài thử sức...

Khắp vũ trường im phăng phắc. Mọi người lắng đợi một chuyện lạ xảy đến vì chắc chắn cuộc chọn Phó tướng hôm nay sẽ thêm phần hào hứng.

Chúa Mạc khẽ quay lại nhìn họ Bùi, thầm hỏi: Bùi văn Khuê đang gặp cảnh khó xử, bây giờ bước xuống vũ trường thi thố tài năng, chàng thấy e ngại lắm. Như vậy chẳng khác nào đi tranh giành một chức nhỏ với Nguyễn Oai hay sao? Chi bằng nhơn dịp này chàng và Thế Hùng trổ tài cho chúa Mạc và các tướng thấy thì tốt hơn. Bởi vậy Bùi văn Khuê đang chuẩn bị những lời lẽ phân trần cho mọi người hiện diện hiểu rõ để khỏi hiểu lầm hai chàng tráng sĩ.

Đằng kia Mạc Mậu Hiệp cất tiếng hỏi:

- Thế nào Bùi tráng sĩ? Có định thi tài chăng?

Bùi văn Khuê chỉ chờ có thế. Chàng khều tay Thế Hùng rồi đứng lên, tiến ra trước khán đài.

Chàng nói:

- Tâu Chúa thượng. Trước khi thi thố tài năng, tiểu tướng xin Chúa thượng được phép nói vài lời trước khán quan.

Suy nghĩ một lúc, Chúa Mạc phán:

- Được! Ta chấp thuận lời yêu cầu của tráng sĩ.

Thế Hùng lo ngại nhìn bạn. Chàng không hiểu họ Bùi định

bầy trò gì đây. Các tướng lãnh của chúa Mạc đều quay nhìn Bùi văn Khuê lạnh lùng như chờ đợi một lời súc phạm hay một sự sơ xuất nào đó, để phản đối gây chuyện lớn.

Bùi văn Khuê cũng hiểu rằng sự có mặt của mình và Thế Hùng tại vũ trường hôm nay không gây được một không khí cảm tình. Các tướng lãnh đều có vẻ khinh miệt hoặc hằn học vì sợ hai chàng chiếm mất phần nào lòng tin yêu ‘‘của chúa Mạc’’. Đã từng lưu lạc giang hồ, sống ở trà đình, tửu điếm, qua nhiều cung cấm, nha môn, họ Bùi hiểu rõ việc ấy, Sự ganh ghét chỉ do lòng đố kỵ mà ra, chỉ cần mềm mỏng và khéo léo một chút sẽ gây được cảm tình ngay.

Bùi văn Khuê bước ra trước khán đài, cúi đầu thi lễ:

- Trước khi thi thố tài mọn giữa đây, tôi xin có vài lời thưa cùng các vị tướng lãnh và tất cả khán quan để tránh những hiểu lầm không lợi. Chúng tôi là những kẻ lưu lạc vì bè lũ Trịnh Tùng mưu toan ám hại, nên mới tìm đường ra Thăng Long để quy phục Mạc Triều; không may lại lỡ giết chết Thiên Linh Hổ, nhưng nhờ nhà vua rộng lòng tha tội chết và còn chiêu đãi trọng hậu. Muốn được Chúa thượng tin dùng và quý quan văn võ nghĩ tình nâng đỡ giúp, anh em chúng tôi không còn cách nào hơn là được trổ tài trước mắt quý ngài. Và một điều chúng tôi xin thanh minh trước là chúng tôi không tranh lấy chức Phó tướng chỉ huy kỵ binh thiện xạ của tướng Nguyễn Oai....

Cử tọa im lìm một lúc, rồi tiếng vỗ tay hoan hô bỗng nổi lên dậy cả một gốc trời. Bùi văn Khuê liếc nhìn về hàng tướng lãnh thấy không khí bớt nặng nề hơn: nhiều người vỗ tay, có kẻ gật đầu, tỏ dấu hài lòng...

Những lời lẽ ôn tồn, khiêm nhượng của chàng đã chinh phục được cảm tình của hầu hết khán quan. Chỉ riêng có Đề đốc Hộ thành Nguyễn Quyện và Tô Tạo là tỏ vẻ bất mãn ra mặt, nhưng vì nể chúa Mạc, họ chưa dám hành động gì.

Bùi văn Khuê khẽ gọi Thế Hùng rồi hai người phi thân nhảy vọt xuống giữa vũ trường.

Họ Bùi kêu người lính mặc võ phục đỏ lúc nãy đến bên mình bảo nhỏ mấy câu. Vệ sĩ nầy chạy vụt đi. Một lát sau, y cùng hai đồng bạn khiêng ra một chiếc lồng to lớn nhốt đầy chim én.

Hai tráng sĩ Bùi, Lê mượn hai chiếc cung của đoàn kỵ binh thiện xạ và hai bó tên. Bùi văn Khuê liền ra dấu cho tên lính cứ thả một lần hai chim én lên không trung... Chim vừa vỗ cánh, hai cánh cung vừa giương lên là hai con chim gục đầu lao mình xuống đất. Tên lính cứ thả chim, hai tráng sĩ cứ giương cung, một lúc đã có một đống xác chim nằm ngổn ngang dưới đất. Không có một con nào thoát được hai tay thiện xạ kỳ tài...

Trong lồng chim, phút chốc không còn một con nào. Hai tráng sĩ Bùi, Lê quay đầu cúi chào Chúa Mạc và tất cả công chúng. Tiếng vỗ tay hoan hô một lần nữa lại vang lên. Mạc Mậu Hiệp mỉm cười sung sướng, ông không ngờ hôm nay may mắn lại thâu dụng được những viên tướng tài xuất chúng.

Đợi cho phút sôi nổi của khán giả lắng xuống, Bùi văn Khuê liền bảo nhỏ với Thế Hùng:

- Hiền đệ giúp ta! Chúng ta cần phải cho vua quan nhà Mạc biết tài hơn nữa...

Hiểu ý bạn, Thế Hùng vội moi trong túi lấy ra một miếng vải trắng buộc vào đuôi một mũi tên rồi bắn thẳng lên không trung. Mũi tên bay vút lên không, vạch một lằn trắng trên nền trời xanh biếc. Tiếp liền tay, Bùi văn Khuê lại bắn theo một mũi tên với một tốc độ mau hơn. Thoáng chốc, mũi tên của Bùi văn Khuê đã ghim đúng vào đuôi mũi tên có buộc vải trắng của Thế Hùng.

Tiếng hoan hô lại vang trời dậy đất. Tất cả công chúng và quân sĩ đều đứng thẳng lên, reo mừng ca ngợi.

Quân sĩ đã lượm mũi tên có buộc vải trắng lúc nãy, dâng lên Mạc Mậu Hiệp. Chúa Mạc cũng cảm phục tài thần tiễn của Bùi văn Khuê mũi tên ấy đã tét làm đôi rất đều đặn. Giữa lúc ấy Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng đã đến bên cái đỉnh đồng ngắm nghía.

Họ Bùi khẽ bảo bạn:

- Nhường cho tiểu đệ trước đấy.

Thế Hùng không đáp, nhẹ nhàng ngồi xuống, nhắc bổng chiếc đỉnh đồng rồi chạy thẳng đến trước khán đài, nơi chúa Mạc đang ngự. Tất cả khán giả đều kinh hồn về thần lực của Lê công tử. Chính Chúa Mạc cũng không ngờ Thế Hùng tài giỏi như vậy vì ngôi sao của Bùi văn Khuê sáng quá nên làm lu mờ phần nào tài nghệ của chàng thiếu niên tráng sĩ. Nếu không có họ Bùi, chắc chắn Lê thế Hùng nổi bật hơn cả trong buổi diễn võ hôm nay.

Công chúng lại hoan hô nhiệt liệt làm cho Thế Hùng càng thêm phấn khởi. Chàng cố sức nâng cái đĩnh đồng, chạy hết một vòng quanh vũ trường giữa tiếng reo hò như dạy giặc.

Bùi văn Khuê khoan khoái nhìn bạn. Nhờ có dịp này chàng biết rõ tài nghệ của Thế Hùng hơn, chàng càng thấy yêu tha thiết người bạn kết nghĩa, đã từng sống bên nhau qua những giờ phút gian nguy.

Lê Thế Hùng đã đặt chiếc đỉnh đồng lại chỗ cũ, mặt không hề đổi sắc. Chàng ngó Bùi văn Khuê, rồi mỉờ hường lại đại huynh.

Văn Khuê bước tới bên bạn, cất tiếng khen:

- Khá lắm! Hiền đệ đã làm cho vua tôi nhà Mạc nể mặt chúng ta.

Nói xong, chàng đưa một tay ra nắm chân chiếc đỉnh đồng. Cả võ trường im phăng phắc, chú ý đến cử chỉ của họ Bùi.

Bỗng Văn Khuê hét lên một tiếng kinh thiên động địa, nhắc bổng chiếc đỉnh đồng lên quay tít một vòng rồi liệng thẳng lên không. Võ trường náo động trước sức mạnh dị thường của chàng dũng sĩ. Công chúng nhớn nhác kinh dị nhìn chiếc đỉnh đồng đảo lộn trên không rồi từ từ rơi xuống. Bùi lực sĩ vẫn điềm nhiên đứng nhìn lên, không tỏ vẻ gì lo ngại nhưng khi đỉnh đồng rơi xuống gần tới nơi thì họ Bùi bỗng nhún mình nhảy vọt lên cao chụp lấy một chân đỉnh rồi nhẹ nhàng đặt vào chỗ cũ.

Toàn thể võ trường như loạn lên vì tiếng la hét hoan nghinh inh ỏi. Chúa Mạc rời chỗ ngồi chạy thẳng xuống khán đài.

Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng quỳ xuống thi lễ.

Mạc Mậu Hiệp đỡ hai chàng dậy khen tặng hết lời:

- Thật là trời nhỏ phước xuống cho ta mới được các khanh về giúp đỡ... Từ nay ta phong cho Bùi tráng sĩ chức Đại Tướng chỉ huy Kỵ Binh thiện chiến của ta và Lê tráng sĩ làm Phó tướng.

Bùi văn Khuê và Lê thế Hùng cúi đầu lạy tạ ơn Chúa Mạc.

Mạc Mậu Hiệp vui vẻ quay bước trở lên khán đài cất tiếng dõng dạc:

- Sau khi hai tráng sĩ Bùi, Lê thi tài, thi sức, trước mặt quân binh và các quan các tướng, ta sắc phong cho Bùi, Lê chức Đại tướng và Phó tướng chỉ huy Kỵ binh thiện chiến. Lệnh truyền giữa đây có ai bất phục, ta cho phép thử tài sức với hai người mới thật công bình.

Các tướng lãnh đều im lặng tỏ vẻ hài lòng. Chỉ riêng có quan Đề Đốc Hộ thành Nguyễn Quyện và Võ vệ Tướng quân Tô Tạo là không vừa ý.

Đề đốc nói nhỏ với Tô Tạo:

- Chúa thượng phong chức như vậy thật bất công. Chúng ta đã từng vào sanh ra tử để bảo vệ ngai vàng nhà Mạc mới lên đến địa vị ngày nay. Hai tên kia vừa chân ướt chân ráo tới đây, một sớm một chiều đã nghiễm nhiên thành Đại tướng.

Tô Tạo biểu đồng tình:

- Ngu hạ cũng trộm nghĩ như thượng quan.

Quan Đề đốc Hộ thành lại nói khích:

- Theo tôi xem, hai tên nầy võ dũng vô mưu, chỉ rành bắn tên và có sức mạnh, chứ võ nghệ chưa chắc đã tinh thông, lão luyện. Nếu không cho chúng một trận nên thân chúng lại tưởng trào thần nhà Mạc hết người.

Chàng lực sĩ vô địch ở thành Thăng-Long, Tô Tạo cảm thấy như mình bị sĩ nhục nặng nề. Chàng quắc mắt đứng lên nhìn về phía Chúa Mạc và hai tráng sĩ Bùi, Lê rồi cất tiếng:

- Tâu Chúa thượng! Hạ thần không dám mạo muội phản đối lại lệnh phong tước của Chúa thượng. Nhưng trước khi hai tráng sĩ Bùi, Lê nhậm chức, thần muốn xin thử tài với một trong hai người để cho quân sĩ biết rõ tài nghệ của những người sẽ cầm vận mạng của họ.

Chúa Mạc vui vẻ chấp thuận lời đề nghị của TôTạo. Riêng Bùi văn Khuê thấy rõ lòng đố kỵ hèn hạ của y. Chàng bảo nhỏ với Thế Hùng:

- Tiểu đệ hãy nhường tên nầy lại cho Đại huynh dạy hắn một bài học bớt kiêu căng...

Thế Hùng gật đầu, tuân lời. Ngay lúc ấy, chúa Mạc vừa quay nhìn lại và phán hỏi:

- Thế nào nhị vị tráng sĩ? Có bằng lòng thử tài với Tô tướng quân không?

Bùi văn Khuê vội vã tâu:

- Tâu Chúa thượng, tiểu tướng xin tuân lịnh.

Chàng vừa dứt lời, Tố Tạo đã rời khán đài nhảy xuống võ trường. Tiếng hoan hô của quân lính nhà Mạc cũng vang trời dậy đất.

Họ Bùi nói thầm:

- Tô Tạo rất được lòng quân sĩ? Hay vì sợ oai hắn mà quân lính tỏ thái độ hoan nghinh bắt buộc như vậy!

Chàng phân vân và hơi lo ngại: nếu mình thắng Tô Tạo sẽ mất lòng quân sĩ chăng? Nhưng giờ phút này không còn thối lui được nữa! Có mất cảm tình của quan quân nhà Mạc cũng đành vậy. Ít ra chàng cũng cho kẻ quá kiêu ngạo một bài. học đích đáng để về sau y bớt khinh thường anh hùng trong thiên hạ.

Văn Khuê nhảy vọt xuống võ trường và lần nầy chàng không được tiếp đón bằng một tiếng hoan hô nào.

Công chúng đều có một vẻ mặt lạnh lùng khác lạ không như lúc nãy. Chỉ riêng có Chúa Mạc Mậu Hiệp là mỉm cười để khuyến khích chàng.

Thái độ khán giả ở võ trường càng làm cho Thế Hùng kinh ngạc hơn. Chàng quay nhìn khắp nơi và thấy Lý-Quảng đang lặng lẽ đi về phía chàng.

Vừa đến bên Thế-Hùng, Lý-Quảng nói:

- Tô Tạo là một lực sĩ dũng mãnh nhất ở Thăng Long này.Hắn rất hung hăng và vô nhân đạo lại thêm dựa vào Đề Đốc Hộ thành Nguyễn Quyện nên thế lực mạnh mẽ lắm. Trong trào nhà Mạc ai cũng nể trước tánh vũ phu của hắn mà không muốn gây sự. Quan nhỏ thì bị hắn hãm hại, quan to thì không muốn bứt dây động rừng: hại hắn làm sao khỏi mích lòng Đề Đốc Hộ Thành Nguyễn Quyện. Nhị vị tráng sĩ nên thận trọng nhiều hơn.

Thế Hùng hỏi Lý Quảng:

- Tô Tạo và Nguyễn Quyện có họ hàng với nhau ư?

Lý Quảng mỉm cười:

- Không! Tô Tạo gắm ghé làm con rể nhà họ Nguyễn nhưng Nguyễn ngọc Lan tiểu thơ có khi nào để ý đến hắn đâu.

Đề đốc Nguyễn Quyện hiểu rõ việc ấy, nhưng ông ta vẫn làm ngơ, cốt ý để dùng kẻ vũ phu làm tay sai đắc lực.

Ngoài kia, tiếng trống, tiếng chiêng bỗng nỗi lên vang dậy báo hiệu cuộc tỉ thí bắt đầu.

Bùi văn Khuê bước đến trước mặt Tô Tạo cúi đầu thi lễ. Tô Tạo, vẻ mặt đầy sát khí, không đáp lễ mà còn nói:

- Những kẻ sợ chết mới lấy lòng kẻ địch. Đừng khách sáo vô ích, hãy tỏ ra mình là kẻ biết võ nghệ!

Bùi văn Khuê, trước những lời vô lễ ấy, chỉ mỉm cười, nhưng bên trong sự tức giận đã lên đến cực độ. Chàng quyết tâm sẽ cho hắn hiểu rằng trên thế gian còn có lắm người tài.

Chiêng trống vừa dứt, Tô Tạo không nói không rằng, phóng mình đánh thẳng vào mặt họ Bùi. Bất thình lình Văn Khuê không đỡ kịp nện vội vàng hụp đầu xuống. Hụt tay, Tô Tạo không gượng lại được, choàng lên mình họ Bùi Văn Khuê như cây pháo thăng thiên, vận dụng toàn lực lên đầu nhảy phóc lên. Thế võ nầy lúc nãy chàng đã giết chết Thiên linh hổ. Đầu Văn Khuê trúng mạnh vào ngực Tô Tạo làm cho hắn bắn vọt lên cao hằng mấy thước, Tô Tạo là một tay lực sĩ vào hàng thượng thặng, phần luyện nội công cũng khá cao nên bị một miếng đòn hiểm độc vào ngực hắn té xuống đất loạng choạng một lúc rồi gượng đứng dậy được ngay. Bùi văn Khuê hơi gờm tài kẻ địch. Lâu rồi chàng mới gặp được một đối thủ xứng đáng. Tô Tạo lại bắt đầu tấn công. Hắn khôn ngoan hiểu rằng họ Bùi lanh lẹ nên muốn nhập nội cho thật gần dùng sức lấn áp Văn Khuê.

Tô Tạo không ngờ Văn Khuê rất sở trường về môn đánh quyền và đánh vật. Tô Tạo càng nhập sát vào mình chàng càng ưa thích hơn. Họ Bùi quyết cho hắn ‘‘đo đất’’ vài lần cho bõ ghét. Đợi Tô Tạo đánh tới, chàng né mình qua, không tấn, khóa chặt hai chân tréo của hắn rồi xè cứng bàn tay chàng đánh mạnh vào ót đối phương một miếng như trời giáng... Tô Tạo bổ nhào mấy vòng, nhủi đầu xuống cỏ.

Võ trường xôn xao chấn động. Công chúng đâu đứng đấy chăm chú nhìn. Chúa Mạc cũng kinh hoàng trước một thế võ lạ kỳ từ xưa đến nay chưa từng thấy. Tô Tạo vẫn nằm liệt dưới đất không ngồi dậy được.

Bùi văn Khuê cúi đầu chào khắp mọi người không một tiếng vỗ tay reo mừng vì toàn thể công chúng còn nghĩ đến sự trả thù ghê gớm của Đề đốc Hộ thành Ngnyễn Quyện nếu một khi Tô Tạo chết đi. Mọi người đều phục tài Bùi văn Khuê và đều lo ngại cho tính mạng của chàng từ nay về sau khó lòng bảo toàn được...

Lính tuần đã vào giữa võ trường để khiêng thây Tô Tạo nhưng Bùi văn Khuê khoát tay đuổi ra. Thái độ của chàng đã làm cho nhiều người bất mãn. Họ không hiểu được họ Bùi muốn gì, đã đánh chết người mà không cho khiêng đi nữa ư?

Chúa Mạc cũng lấy làm lạ. ông ta phán hỏi:

- Kìa, Bùi tráng sĩ đã thắng, cớ sao chưa cho đem Tô tướng quân vào...

Chúa Mạc bước xuống khán đài, các quan lặng lẽ theo sau. Bùi văn Khuê quỳ xuống tâu rằng:

- Tâu Chúa thượng, Tô tướng quân nào đã thiệt mạng mà Chúa thượng lo ngại. Tiểu tướng xin cứu tỉnh Tô tướng quân tức khắc.

Chàng khoát tay gọi lính đem một vò nước ra, Bùi văn Khuê đổ nước vào mặt Tô Tạo rồi lấy tay xoa bốp hai bên ót. Một lúc sau Tô Tạo thở ra rồi cựa mình, giữa sự kinh ngạc của Chúa Mạc và các quan.

Tô Tạo duỗi thẳng chân tay rồi ngồi nhỏm dậy, nhớn nhác như vừa qua một cơn ác mộng. Thấy chúa Mạc cùng các quan đứng bao quanh ; y sực nhớ lại những chuyện đã xẩy ra. Tô Tạo bẽn lẽn cúi đầu, nhưng trong lòng y dãy lên một sự căm thù ghê gớm. Tô Tạo thề rằng sẽ giết chết họ Bùi để rửa cái nhục hôm nay.

Không lý ngồi mãi nơi đây, Tô Tạo cúi chào Chúa Mạc và các quan rồi bước khỏi võ trường, đi thẳng. Vừa thấy hắn bước đi, quân lính và dân chúng chợt hiểu và khi Bùi văn-Khuê và Lê Thế Hùng được đưa lên khán đài để chúa Mạc phong tước, tiếng vỗ tay và hoan hô vang lừng như sấm dậy một góc trời.