← Quay lại trang sách

21. Hương cũ... người xưa

MẤY hôm nay, thủ đô Thăng Long tưng bừng náo nhiệt: liên tiếp trong ba ngày Chúa Mạc mở cuộc duyêt binh vĩ đại.

Dân chúng rất vui mừng vì liên tiếp mấy ngày họ được dịp vui chơi thỏa thích. Từ các vùng quê xa tắp, thiên hạ ùn ùn kéo về xem cuộc duyệt binh.

Thăng Long thay đổi hẳn bộ mặt hằng ngày. Hàng quán mọc ra chơm chởm khắp nơi, các tửu lầu, tửu điếm đông nghẹt những khách... Những gia đình ở xa, có con sung vào đội ngũ được dịp xem con tập trận, ai mà lại không vui... Họ kéo nhau ra thủ đô từ trước mấy ngày, một là vui chơi cho biết kinh thành, hai là nhìn con cho hả dạ.

Đêm vừa xuống thì thủ đô bừng lên rộn rịp: tiếng người đi lại trên hè phố, tiếng cầm ca, tiếng hát xướng trên các tửu lầu, hòa lẫn với tiếng vó câu, lạc ngựa rộn rã trên đường, tạo thành một âm thanh hỗn loạn...

Nhưng, xa hẳn cảnh huyên náo ngoài kia của dân chúng, trong một dinh thự trang nghiêm, Bùi văn Khuê trầm lặng một mình bên cạnh hồ sen, dưới ánh sáng dịu dàng của những ngọn đèn lồng màu xanh thẳm...

Từ khi Lê thế Hùng bỏ đi rồi, chàng sống như một cái bóng... Ngoài những sự giao tiếp trong triều chàng không thích giao du với ai cả; lủi thủi trở về Dinh sau một ngày luyện quân tập trận, chàng đọc sách hay ngồi trầm mặc hằng giờ bên hồ..

Tên tuổi vang dậy và lối sống gần như quái dị của chàng là những đầu đề mà các triều thần thường đem bàn tán với nhau trong những buổi trà dư tửu hậụ...

Người còn trẻ lại quyền cao tước trọng, sống âm thầm trong bốn bức tường dinh thự, xa hẳn những cuộc giao du, thì làm sao khỏi bị người ta chú ý đến. Nhất là những vị lão quan có con gái, gần đến tuổi cập kê, lại càng kiếm cách làm thân với chàng, mong một ngày kia kén được chàng rể quý... Nhiều công nương, tiểu thư cũng thầm mong mỏi mắt xanh chàng ghé đến một hôm nào.

Nhưng họ Bùi nào buồn chú ý đến ai, chàng sống âm thầm như người có tâm sự buồn không nói được...

Chúa Mạc Mậu Hiệp rất nể chàng vì Bùi văn Khuê chính là cái gương sáng trong hàng tướng sĩ của ông. Song đôi khi thái độ thẳng thắn của họ Bùi cũng làm phật ý ông nhưng nghĩ đến tài năng và công khó của chàng, ông đều tha thứ hết.

Trái lại Bùi văn Khuê càng gần gũi nhiều với Chúa Mạc chàng càng thấy nhiều điều bất đồng, tuy nhiên chàng không dám thốt ra nói một lời nào cả.

Trong những giờ lúc chán nản ấy, chàng bỗng nhớ đến Thế Hùng.. Càng nhớ chàng càng giận bạn nhiều hơn. Không biết từ bao lâu nay, xông vào đất giặc, Thế Hùng đã làm nên công trạng gì chưa? Hay đã nạp mạng cho kẻ địch? Mỗi lần nghĩ đến đó họ Bùi cau mày khó chịu. Chàng muốn xua quân vào hỏi tội Trịnh Tùng, nhưng sao bao lần tâu xin, đề nghị của chàng cũng không được Chúa Mạc chấp thuận.

Bùi văn Khuê chủ trương đánh bất thình lính, khiến quân địch trở tay không kịp. Ngược lại Chúa Mạc muốn chuẩn bị sẵn sàng, thị oai trước đã rồi tiến đánh cũng không muộn gì.

Ý kiến tuy bất đồng nhưng là phân bầy tôi, họ Bùi phải buộc lòng tuân theo...

Lần nầy cũng như bao nhiêu lần trước, sau một ngày điều khiển hàng vạn quân lính tập trận thị uy chàng trở về Dinh, lòng chán nản vô cùng.

Đối với công việc chung. Bùi văn Khuê không còn thấy hăng say, hào hứng như lúc đầu. Chàng chỉ làm cho tròn phận sự.

Tuy nhiên khi đứng trước ba quân, tướng sĩ, dòng máu chiến binh vẫn còn sùng sục sôi trong huyết quản, chàng điều khiển muôn binh thay đổi trân đồ mau lẹ như chớp nhoáng, khiến chúa Mạc rất hài lòng.

Nhưng khi bóng chiều đổ xuống, binh sĩ tan hàng ngũ, chàng lại lủi thủi về Dinh.

Chàng mượn cớ mệt nhọc, cáo thác hết những yến tiệc linh đình do Chúa Mạc tổ chức để khoản đải các hàng tướng lãnh... Cho rằng họ Bùi buồn nhớ Lê thế Hùng, nên Mạc mậu Hiệp cũng không để ý.. Song các hàng tướng lãnh điều nghi ngờ sự bất mãn của chàng! Song không ai thốt ra môt lời nào. Chỉ riêng có Hoàng quốc Mục là thường gần gũi với Văn Khuê nên hiểu rõ chàng hơn.

Bao giờ cũng vậy khi yến tiệc xong rồi họ Hoàng sang Dinh Bùi văn Khuê trò chuyện giúp chàng khuây khoả nỗi sầu.

Hoàng quốc Mục biết rằng chàng buồn nhớ bạn và bất mãn nhà vua. Chàng cố ý muốn thoát ly khỏi cảnh chán nản này, nhưng vẫn còn phân vân chưa quyết. Bỏ Mạc Triều tìm kiếm Thế Hùng, biết sau nầy còn giữ được địa vị quan trọng như hôm nay chăng?

Rồi khi cần phải đương đầu với Trịnh Tùng, lấy đâu ra binh hùng tướng mạnh? Mà ở lại thì trong sự hết sức băn khoăn: không biết Thế Hùng vào Tây đô còn, mất thế nào? Thêm vào đó sự bất đồng ý kiến giữa chàng và chúa Mạc càng lúc càng sâu thêm. Chàng chỉ sợ một ngày nào đó, chàng không kiềm giữ được lòng mình ra mặt chống báng lại thì hậu quả sẽ còn tai hại nhiều hơn...

Đêm nay, Bùi văn Khuê cảm thấy lòng buồn hơn lúc nào hết. Hoàng quốc Mục lại bận việc đi Sơn Nam, nếu không đến được, chàng đành một mình ngồi ủ rũ, nhìn cá đớp trong hồ sen.

Ngoài kia thủ đô vẫn náo nhiệt trong đêm dạ hội tưng bừng. Tiếng ồn ào vang dội vào tận nơi đây.

Bùi văn Khuê bỗng ngẩng đầu lên suy nghĩ rồi lẩm bẩm một mình:

- Tại sao ta không đi viếng kinh thành đêm nay thử xem? Biết đâu sẽ chẳng khuây khỏa được nỗi lòng!

Từ lâu lắm rồi, bỏ mình trong việc quân cơ, chàng gần như mất cái thú phiêu lưu... Sẵn dịp này chàng thấy mình cần chen lẩn trong dân chúng, dò xét thử lòng dạ họ đối với nhà Mạc thế nào?

Chàng đứng lên, vào nhà thay đổi y phục màu đen, đeo võ khí, rồi ung dung ra đi như một tay kiếm khách giang hồ. Chàng nhảy vọt lên những tàn cây rậm rạp trong vườn chuyền mình ra khỏi vòng dinh, không cho quân canh hay biết.

Đường phố đông đảo, đèn sáng như sao, các cửa tiệm đều mở toang ra trong đêm dạ hội.

Bùi văn Khuê lẩn trong đám người lũ lượt trên hè phố tiến vào cổng chợ.

Lòng lâng lâng, họ Bùi cũng cảm thấy vui lây cái vui hồn nhiên của một thời xa vắng mà bỗng dưng chàng tìm thấy lại được trong một chuyến du hành bí mật. Một sự so sánh thoáng hiện lên trong óc chàng giữa con người lưu lạc ngày xưa và con người quyền tước hôm nay: Bùi văn Khuê cảm thấy một sự cách biệt xa vời. Thật ra chàng thấy thích thú hơn nếu trở lại cuộc đời sóng gió ngày xưa.

Bỗng từ phía trước, dân chúng ùn ùn chạy ngược trở lại- Họ chen lấn xô đẩy, chà đạp lên nhau để dẹp đường. Bùi văn Khuê rất ngạc nhiên giữa đêm đại hội, ai dám ngang nhiên làm náo động giờ phút vui đùa của dân chúng giữa Kinh đô?... Chính chàng cũng bị xô đẩy té ngã nghiêng trên lề đường. Tiếng mẹ lạc con, chồng lạc vợ gọi nhau ‘‘ơi ới’’ tiếng trẻ con khóc dậy lên như giữa một buổi loạn ly.

Bùi văn Khuê tức giận vô cùng. Chàng lật đật chen ra tới trước nhìn xem. Từ xa một đoàn người rần rộ kéo đến. Mấy tên kỵ sĩ đi đầu, cứ ra roi quất vào mình dân chúng để dẹp đường. Người người kinh sợ tránh xa, nhường bước.

Mặc dân chúng đổ xô nhau chạy, chúng ngang nhiên ngồi trên mình ngựa cười đùa hí hởn như giữa chỗ không người.

Bùi văn Khuê chú ý nhìn bọn người vừa đến cố tìm hiểu xem là ai mà có vẻ ngang tàng như vậy. Chàng thấy gần mười tên đi đầu dẹp đường, kế đến hai tên cao lớn phục sức sang trọng ngồi trên lưng hai con ngựa kim, phía sau đó mười tên khác đi tập hậu. Bùi văn Khuê hết sức ngạc nhiên vì dáng điệu và nét mặt của hai tên đi giữa, chàng không phân biệt được chúng thuộc vào hạng quan lại nào trong triều!

Bỗng một tiếng thét vang lên:

- Trời ơi! Chết tôi rồi! Mấy ông ơi!

Mọi người đều giật mình, dừng chân nhìn lại; một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt họ. Một bà lão té nằm sóng sượt trước chân ngựa của gã kỵ sĩ đi đầu... Hắn gắt gõng ầm ĩ rồi bổ roi tới tấp xuống mình bà lão:

- Đồ khốn nạn, đã bảo tránh đường, còn lẩn quẩn trước đầu ngựa làm gì?

Bà lão quá đau đớn nhưng cũng rán gượng ngồi dậy lết đi, tránh những ngọn roi tàn bạo của kẻ vũ phu.

Trước cảnh tượng ấy, Bùi văn Khuê không còn chịu đựng được nữa. Chàng phóng mình tới ôm sốc bà lão lên và thuận tay chàng nắm lấy chiếc roi đang bổ xuống vun vút, lôi tên kỵ sĩ tàn ác rời khỏi mình ngựa.

Tiếng reo mừng vang dậy. Mọi người đứng xung quanh đều thỏa mãn vì kẻ ác bị trừng trị. Đoàn kỵ sĩ thấy đồng bọn bị nguy vội phóng tới, bao quanh kẻ lạ mặt. Nhất là người trẻ tuổi mặt hiểm ác ngồi trên ngựa, rất bực tức la hét ầm ĩ:

- Tên khốn kiếp nào đó, muốn chết hay sao dám vuốt râu hùm?...

Bùi văn Khuê đã đỡ được bà lão dậy và nhờ những người đứng xem kế cận đưa bà đi nơi khác. Vừa quay mình lại chàng bỗng nghe lời xấc xược kia nên quắc mắt nhìn lên cười gằn:

- À, bọn bây ỷ chúng hiếp cô giữa chỗ đông người. Bây không sợ tội hay sao chứ?

Cả bọn cười rộ lên:

- Ha! Ha! Tội à? Ai bắt tội bọn ta? Nhà ngươi chăng? Ha! Ha!

Bùi văn Khuê cố giữ vẻ điềm tĩnh nhưng trong lòng cơn giận đã sôi lên sùng sục.

À, thì ra bọn nay dám khinh khi cả luật pháp triều đình! Chắc có lẽ chúng dựa vào một thế lực nào to lớn lắm! Con vua cháu chúa gì đây chăng! Chàng cố dằn lòng để tìm hiểu tận tường những hành động hống hách, của bọn người cậy quyền thế áp bức dân lành.

Đợi cho chúng dứt tiếng cười, chàng chậm rải nói:

- Nếu chính ta bắt tội chúng bây rồi mới làm sao?

Một tiếng quát vang lên:

- A! Tên nầy láo, dám xấc xược với các ông!

Tên trẻ tuổi, thúc ngựa tới, hươi thương đâm nhầu vào mình Bùi văn Khuê. Nhanh như chớp, họ Bùi đưa tay ra phía sau, rút thanh trường kiếm múa lên một vòng sáng chớp bao quanh thân mình. Cây thương của chàng trẻ tuổi chưa đâm được vào mình Bùi văn Khuê đã bị đánh bạt văng đi mất. Tê buốt khắp cả cánh tay, gã ấy kinh hồn, hô bọn thủ hạ xông vào trợ chiến.

Nhưng Bùi văn Khuê không muốn chần chờ nữa. Chàng vội nhảy vọt lên nắm đầu hai tên ngồi trên lưng ngựa lôi xuống đất.

Bọn thủ hạ kinh hoảng liều chết xông vào đánh giải nguy. Họ Bùi buộc lòng phải tạm bỏ hai tên kia một bên để hươi kiếm chống trả với hằng hai mươi ngọn trường thương.

Thừa dịp ấy hai tên nọ, cũng thuộc vào hạng tinh thông võ nghệ, cố sức thoát được ra ngoài, vẹt đám đông trốn mất. Bọn thủ hạ thấy chủ tướng trốn chạy, nên đâm loạn đả vài đường thương rồi cũng quất ngựa chạy theo như một lũ chuột.

Bùi văn Khuê không đuổi, ung dung tra kiếm vào vỏ, từ từ bước đi giữa tiếng hoan hô vang trời dậy đất của dân chúng đứng bu quanh...

Tuy nhiên có nhiều người hiểu rõ lai lịch của bọn người hống hách nên tỏ vẻ lo sợ giùm cho sinh mạng của họ Bùi:

- Tráng sĩ trốn mau đi thôi! Đừng ở đây thêm giờ phút nào nữa. Bọn chúng sẽ trở lại ngay bây giờ. Nếu chúng bắt được thì đừng hòng sống sót.

Bùi văn Khuê đứng dừng lại cảm ơn mọi người có lòng lo lắng cho chàng, rồi hỏi:

- Thưa quí vị, chẳng hay bọn vừa rồi thuộc bè phái nào mà ngang tàng như vậy?

Mọi người đều trố mắt nhìn chàng kinh ngạc, một lúc sau. mới có nguời rụt rè nói:

- Thì ra tráng sĩ là người ở xa mới đến đây, nên không rõ oai quyền của ạnh em Kiều Công tử. Cả một cái chợ này ai ai cũng đều khiếp vía kinh oai.

Bùi văn Khuê lại hỏi:

- Chẳng hay nhị vị công tử ấy là con cái nhà ai mà ghê gớm như vậy?

Như gặp phải một câu hỏi khó trả lời, nhiều người lo sợ lãng dần. Người đối diện với Bùi văn Khuê khẽ liếc nhìn quanh rồi nói nhỏ:

- Anh em Kiều Công tử tên là Kiều kỳ Giang Kiều kỳ-Hải, đều thuộc dòng dõi quan đại phu Kiều kỳ Diệu. Cả hai vốn là em vợ của Thượng tướng Mạc ngọc Liễn, uy quyền vào bực nhất Thăng Long nên chẳng hề biết nể sợ ai!

Bùi văn Khuê lẩm bẩm một mình:

- À ra thế!

Chàng không ngờ Mạc ngọc Liễn có thể dung dưỡng cho hai tên em vợ hà hiếp dân chúng, xem thường luật pháp triều đình.

Hằng ngày gặp nhau tại triều, Bùi văn Khuê thầm mến phục họ Mạc là người cao kiến điềm đạm, không xua nịnh nhà vua. Nhưng gặp phải câu chuyện này họ Bùi thấy băn khoăn nhiều lắm.

Không có lý biết rõ hành động ỷ thế lộng quyền của hai đứa em vợ mình mà Mạc Ngọc Liễn vẫn làm ngơ?

Chàng định bụng gặp nhau sẽ hỏi câu chuyện nầy cho rõ ràng hơn.

Bùi văn Khuê cúi chào, cảm ơn người khách lạ rồi bước đi lần theo lớp người cuồn cuộn đổ ra phía ngoài thành xem dạ hội hoa đăng, tổ chức trên sông.

Nhưng, chàng đi được chừng mười bước bỗng có người đập vào vai chàng rồi có tiếng oanh thỏ thẻ bên tai:

- Bùi tráng sĩ! Xin người dừng chân cho thiếp được hầu chuyện.

Bùi văn Khuê rất đổi ngạc nhiên. Ai lại biết rõ tên họ của mình nhứt là dưới lốt cải trang khó nhận hiện thời. Chàng dừng chân, quay đầu lại, bắt gặp khuôn mặt nõn nà, trong sáng của một thiếu nữ mảnh khảnh trong bộ y phục màu hồng tha thướt.

Nàng e lệ thi lễ rồi nói:

- Xin mạn phép làm phiền tráng sĩ. Có người muốn hầu chuyện với tráng sĩ ở trên kia lầu.

Nàng vừa nói vừa chỉ tay lên một dạ điếm sang trọng, đèn đuốc sáng ngời, nơi đó tiếng đàn sáo, ca xang dịu dặt…

Bùi văn Khuê ngước nhìn và chợt nhớ đây là tửu quán mà lần đầu tiên khi đến Thăng Long, chàng và Thế Hùng đã bước vào. Chính cũng trên cái lầu ấy chàng đã buông mình xuống đánh con hổ quý của Chúa Mạc.

Họ Bùi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Nàng thiếu nữ này là ai mà biết rõ tên họ của chàng? Ai ở trên dạ điếm kia lại muốn cùng chàng trò chuyện?

Bùi văn Khuê phân vân lắm. Phải chăng đây là quỷ kế của bọn anh em nhà họ Kiều? Nhưng sá gì phường nhải ranh ấy! Chàng sốc lại áo choàng, tay nắm chặt chuôi gươm, bước theo người thiếu nữ lạ mặt, không hỏi thêm một lời.

Vừa bước đến cửa dạ điếm, chàng kéo sụp chiếc khăn trùm đầu xuống khỏi trán cho mọi người bên trong khỏi để ý đến chàng. Cũng may là lúc ấy khách hàng bận ăn uống vui chơi không quan tâm đến những người mới đến.

Nhưng khi Bùi văn Khuê vừa bước lên khỏi cầu thang thì tên chủ quán đã nhận ra ngay. Hắn nhớ liền vị quí khách, đã xuống tay hạ Thiên linh Hổ độ nào và đã được Chúa Mạc tin dùng, bấy lâu nay vang lừng tên tuổi. Hắn toan chạy đến thi lễ thì người thiếu nữ áo hồng đã chận ngay hắn lại, bảo nhỏ vào tai mấy lời làm đôi mắt hắn vụt sáng lên.

Hắn lấm lét nhìn đi nơi khác rồi lẫn mất vào trong đám đông bọn tiểu nhị.

Bùi văn Khuê rất ngạc nhiên. Cử chỉ lạ lùng của người thiếu nữ càng làm cho chàng không hiểu nàng thuộc vào hạng người nào, uy quyền ra sao!

Chàng còn đang suy nghĩ thì thiếu nữ đã bước đến bên cạnh nói:

- Tráng sĩ hãy theo tiện thiếp vào phòng trong.

Bùi văn Khuê do dự nhìn thẳng vào mắt nàng. Thế nầy nghĩa là làm sao? Một cuộc âm mưu sâu độc và hiểm ác đang đợi chàng chăng?

Biết chàng e ngại, thiếu nữ mỉm cười:

- Tráng sĩ đừng ngại, không ai dám hại ngài đâu?

Bùi văn Khuê hơi túng túng vì kẻ đối diện đã đoán được ý mình. Trong giờ phút này, chàng thấy rằng mình không còn do dự được nữa. Cứ đến nơi rồi sẽ tùy cơ ứng biến.

Chàng tin tưởng ở tài sức của mình có thể vượt khỏi mọi hiểm nguy.

Qua khỏi dãỵ hành lang dài, người thiếu nữ áo hồng đưa họ Bùi vào căn phòng tráng lệ, bày trí đẹp như một cảnh nhà quan. Mùi hương thoang thoảng bay quanh khiến Bùi văn Khuê hơi bàng hoàng ngây ngất.

Chàng tự hỏi thầm:

- Đây là đâu? Hương hoa trong vườn hay hương sắc của giai nhân?’’

Thiếu nữ áo hồng cất tiếng êm dịu mời chàng ngồi bên chiếc bàn đầy hoa quả.

Nàng nói:

- Phiền tráng sĩ ngồi chơi, tôi vào bẩm lại với chủ nhơn tôi.

Và không kịp cho chàng hỏi thêm một lời nào, thiếu nữ biến mình sau bức mành trúc họa cảnh thiên thai.

Bùi văn Khuê từ từ ngồi xuống ghế. Chàng lẩm bẩm một mình:

- Giai nhân có lẽ là con nhà quyền quí!

Tiếng đàn sáo bên ngoài dạ điếm vẫn văng vẳng đưa vào. Chàng còn đang say sưa ngây ngất với hương diu dịu, nhạc u huyền, bỗng nghe từ phía sau, tiếng mành trúc lay động nhẹ nhàng.

Văn Khuê quay đầu nhìn lại, thẩn thờ, tuởng chừng như mình đang sống trong mơ. Trước mặt chàng, giai nhân vừa xuất hiện, đẹp tuyệt trần trong màu áo xanh lam mát dịu...

Vừa thấy mặt nàng, họ Bùi kinh ngạc vụt đứng phắt dậy

- Trời!Thúy Loan!

Giai nhân mỉm cười rất tự nhiên, phô ra hàm răng trắng nuốt và đều đặn:

- Vâng, chính thiếp! Đã bao nhiêu lâu rồi mà tráng sĩ - à quên - đại nhơn có nhớ đến thiếp ư?

Bùi văn Khuê sửng sờ giây lâu không nói được. Cử chỉ ấy giúp Thúy Loan đoán được lòng chàng, bao lâu nay vẫn hằng mơ tưởng đến nàng.

Thúy Loạn bồi hồi cảm động, ngước mắt long lanh nhìn người bạn một đêm nào đã gặp thoáng qua trong giây phút nguy hiểm. Nàng nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế đối diện với họ Bùi rồi cất tiếng mời:

- Đại nhơn hãy ngồi xuống đi. Câu chuyện còn dài.

Bùi văn Khuê liền hỏi:

- Nương nương ra đây tự bao giờ? Vì sao lại rời bỏ Tây Đô? Còn Chúa Trịnh?

Thúy Loan đảo mắt nhìn quanh, ra dáng e ngại một sự gì rồi hạ thấp giọng:

- Xin đại nhơn nói khẽ chứ. Vì ở đây tai vách mạch rừng.

Bùi văn Khuê hơi ngạc nhiên, vì thái độ của nàng. Một lát sau, Thúy Loan giả vờ rót nước mời chàng. Khi họ Bùi đưa tay bưng chén trà thì thừa dịp ấy nàng bí mật trao cho chàng một mảnh giấy xếp nhỏ. Văn Khuê tiếp lấy mảnh giấy. Đồng thời một mối hoài nghi lởn vởn trong trí óc chàng. Chàng nhủ thầm:

- À! Thì ra bọn dọ thám Trịnh Tùng vẫn âm thầm hoạt động! Và tửu quán này là sào huyệt của chúng chăng? Ta cần phải dò xét nhiều hơn để tóm cổ cho được hết bọn chúng.

Nhưng chàng không khỏi phân vân trước tình thế hiện tại. Thúy Loan đang đóng vai trò gì đây? Nàng vẫn còn là người tốt như xưa hay qua bao ngày sống trong lầu vàng, điện ngọc, lòng nàng đã biến cải hẳn rồi?

Bùi văn Khuê bưng nước lên uống mà lòng rối như tơ vò. Chàng không biết mình phải đối xử với Thúy Loan như thế nào đây?

Dạ điếm của ai?

Nàng đến Thăng Long với nhiệm vụ gì?

Còn lá thư nhỏ này chứa đựng bên trong những tiết lộ gì bí mật?

Chàng phân vân trước bao nhiêu câu hỏi trên đây mà chàng chưa tìm ra được lời giải đáp.

Trong lúc ấy Thúy Loan bằng một giọng mà nàng cố làm ra vẻ thản nhiên, bắt đầu kể chuyện. Nàng bịa đặt ra việc trốn thoát khỏi phủ Chúa Trịnh để rời Tây đô lánh mình ra Thăng Long. Rồi, không để cho chàng ngắt lời, Thúy Loan bắt qua hỏi thăm tin tức của chàng kể từ ngày hai đàng cách biệt nhau.

Văn Khuê hiểu rõ dụng tâm của nàng. Ấy là nàng cố làm lạc dấu những kẻ đang rình rập xung quanh đây để lóng nghe cuộc đàm thoại giữa hai người.

Vì thế chàng cũng chỉ trả lời cầm chừng những câu hỏi của Thúy Loan, rồi đứng dậy xin cáo từ ra về, trong lòng nôn nao muốn sớm được biết rõ nội dung lá thơ bí mật mà chàng vừa tiếp nhận.

Chàng đứng lên nói với Thúy Loan:

- Nương nương cho phép lui gót vì hôm nay tôi còn nhiều phận sự phải làm. Lúc nào rổi rảnh xin đến gặp nương nương

Thúy Loan hình như cũng mong mỏi như vậy nên vui vẻ đáp:

- Đại nhơn cứ tự tiện, thiếp còn ở đây lâu.

Nàng vừa nói vừa mỉm cười ý nhị.

Bùi văn Khuê cúi chào quay đi. Từ trong bức mành trúc, thiếu nữ áo hồng lúc nãy vội bước ra để tiễn chàng xuống thang lầu.

Sau bức mành, Bùi văn Khuê thoáng nhận thấy một bóng người đàn ông lực lưỡng, mặc toàn màu đen.