← Quay lại trang sách

Chương V Đào tẩu

Đoàng…đoàng…

Hai tiếng nổ tiếp theo nhau trong vòng nửa tích tắc đồng hồ. Nhưng đây không phải là tiếng nổ ở Tân đề-li, hai viên đạn phá tung một bên mặt của đại tá Phờrôn, người hùng CIA gục chết bên đống hồ sơ của tiệm đồ cổ Ađam ở quảng trường Con-nốt.

Đây là tiếng nổ trong xạ trường Trung ương CIA, cách tổng hành doanh Lan-gờ-li gần trăm cây số. Xạ trường là đồn điền rộng 50 mẫu tây ở xa khu dân cư, một phía là núi, mặt kia là sông. Bề ngang của xạ trường bằng bề dài của sân túc cầu.

Về bề dài nó không thua các phi đạo quốc tế nghĩa là 3, 4 kilômét.

Hai tiếng đoàng đoàng phát ra từ một khẩu súng săn W.M. (Weather Magnum) loại 300, chuyên dùng bắn hươu trong khoảng xa 400 mét. Xạ thủ là một thanh niên Mỹ, vóc dáng vạm vỡ, khôi ngô. Ông tổng giám đốc Sì-mít đứng bên cùng ông phó hành chính DDA (xem « Cuba, đêm dài không sáng » ) và phụ tá Hành động đại tá Pit. Ông Sì-mít theo dõi cuộc bắn bằng thái độ thận trọng, lo lắng như thể ông là người cha còn xạ thủ là hoc sinh, con ông, đang làm bài thi.

Trên một phạm vi nào đó, xạ thủ đang làm bài thi trước sự phán xét của người cha. Ông tổng Sì-mít đặt hy vọng tràn trề vào khả năng của xạ thủ. Ông đích thân tuyển chọn y trong đống hồ sơ cá nhân mấy ngàn nhân viên. Y hội đủ điều kiện cần thiết cho điệp vụ ông sửa soạn tiến hành: bô trai, hấp dẫn, giỏi võ, và bắn giỏi. Trong điệp vụ này, bắn giỏi chưa đủ: phải bắn thật giỏi trong khoảng xa trên dưới 500 mét. Và không phải bắn đạn ghém, gồm nhiều hột nhỏ, tóe rộng, dầu không trúng mục phiêu hiểm yếu con thú vẫn chết. Ông Sì-mít cần một điệp viên bắn đạn thường.

Điện thoại reng reng, một phụ tá của ông Sì-mít túc trực gần bia bắn kêu tới. Bia bắn được dựng cách nơi bắn nửa kilômét, giấu trong một căn nhà lưu động bọc thép dầy, đạn bắn không lủng. Xạ thủ bắn bằng ống viễn kính. Hồng tâm hình tròn, đường kính một mét.

Ông phó DDA chộp ống nghe, hỏi dồn:

-Trúng hồng tâm?

Sau đó ông thở dài, quay sang ông tổng giám đốc Sì-mít lắc đầu, giọng ai oán:

-Tệ hơn trước.

Ông Sì-mít cau mày:

-Nghĩa là?

-Thưa, trong 8 phát trước thì 2 phát trúng vòng xanh, 6 phát lạc ra ngoài. 2 phát vừa rồi cũng lạc ra ngoài.

Ông Sì-mít nói:

-8 phát không chạm hồng tâm cả 8, vậy thì…

Ông hỏi đại tá Pit:

-Thành tích của Z.28 như thế nào?

Pit đáp:

-Thưa, Z.28 bắn 8 phát thì cả 8 đều vào vòng thứ nhất của hồng tâm. Không phát nào chạm vòng thứ hai, chứ đừng nói là vòng xanh hoặc lạc ra ngoài.

Bia bắn là miếng cạt-tông khổng lồ, đứng sừng sững như bức tường. Hồng tâm gồm 5 vòng từ nhỏ đến lớn. Vòng thứ nhất có đường kính một tấc, vòng thứ hai hai tấc…Bắn trúng từ vòng thứ hai đến vòng thứ năm đã là thành tích rực rỡ, rất ít xạ thủ bắn trúng vòng thứ nhất. Bên ngoài 5 vòng hồng tâm là vòng xanh, đường kính mét. Xạ thủ do ông tổng Sì-mít đặc biệt tuyển chọn chưa thấm tháp gì với Văn Bình.

Đại tá Pit lại nói:

-Đó là thành tích trong khoảng 500 mét. Văn Bình còn lập được nhiều kỷ lục ly kỳ hơn: bắn xa 800 mét, y vẫn trúng vòng thứ nhất như thường. Những ngày gió thổi ngược hoặc thời tiết ẩm ướt, y vẫn luôn luôn dẫn đầu. Theo thiển ý, trong điệp vụ sắp tới ta chưa thể bỏ Z.28.

Ông Sì-mít chép miệng:

-Cứ mỗi điệp vụ thuê Z.28 là quỹ của Sở nhẹ thêm 2 hoặc 3 triệu đô la, nhiều khi còn phải trả gấp đôi, gấp ba như thế nữa. Với trớn xài tiền này, chẳng mấy chốc ta nghèo kiết xác, ông Hoàng giàu bốc lên. Hừ…hừ…Z.28 hiện ở đâu?

Đại tá Pit báo cáo:

-Hoạt động ở Nê-pal, Ấn độ và Bhu-tan, trong khuôn khổ điệp vụ Hoa Sen.

-Với sự tiếp tay của Phờrôn?

-Dạ.

-Ông phó hành chánh và anh cần liên lạc trước với Sàigòn, yêu cầu cụ Hoàng cho mình « thuê » Z.28 thêm một vụ nữa. Phải làm gấp kẻo người khác còm-măng thì phiền. Nghe nói dạo này tình báo Do Thái và Tây Đức cũng coi thường tốn kém, dám xuất bạc triệu mướn Z.28.

Ông Sì-mít đang nói thì một chiếc trực thăng đáp xuống xạ trường. Cách xa ông đứng 15 thước, một thanh niên cao lớn, cái tép da xích vào cườm tay, từ trên trực thăng nhảy xuống bước nhanh như chạy về phía ông. Người mang tép da này là nhân viên giao liên hỏa tốc từ tổng hành doanh tới. Chìa khóa mở tép da gồm hai cái giống nhau, một cất tại tổng hành doanh, một được ông Sì-mít giữ thường trực trong túi. Ổ khóa tép da thuộc loại bất khả xâm phạm, hễ ai manh tâm mở trộm là tài liệu bên trong mờ biến hết chữ. Nắp tép da còn được khằng chặt bằng dấu xi. Trước khi mở tép, ông Sì-mít quan sát dấu xi. Nếu nó gẫy đôi, ông sẽ trao tất cả cho ban điều tra. Trên thực tế, chưa bao giờ công việc giao liên gặp trục trặc. Từ nhiều năm nay, tép da tài liệu từ Lan-gờ-li chở bằng phi cơ đến cho ông ở bất cứ địa điểm nào trên lãnh thổ Hoa Kỳ được coi là hoàn hảo trăm phần trăm.

Tép da đựng một cái phong bì lớn. Phong bì này cũng được đóng dấu xi. Dưới phong bì lớn là phong bì nhỏ. Trong phong bì nhỏ có bản dịch một bức mật điện từ Tân đề-li đánh về: bức điện vĩnh biệt của giám đốc trú sứ Phờrôn.

Đọc xong, ông Sì-mít lặng người. Ông ra hiệu cho đại tá Pit theo ông lại « phòng giấy lưu động » thiết lập trên chiếc xe Buick cũ mèm từ thời tiền chiến sót lại. Mã ngoài cũ mèm cốt che mắt thiên hạ. Những kẻ tò mò cũng khó biết động cơ chiếc Buick cũ mèm này thật ra rất mới, hơn thế nó còn được trang bị đầy đủ tiện nghi viễn thông hiện đại.

Ông Sì-mít ngẫm nghĩ một lát rồi đọc lại cho đại tá Pit viết một bức điện gửi ông Hoàng ở Sàigòn.

Nội dung bức điện như sau:

« Kính gởi HH,

Hai cộng sự viên của tôi tại Ấn độ đã tự vẫn để khỏi sa vào tay Phản gián địa phương, và để bảo toàn bí mật của điệp vụ Hoa Sen. Hai người này là đại tá Phờrôn, giám đốc trú sứ Tân đề-li và Natalie, nữ bí thư của Phờrôn.

Sự quyên sinh của họ đe dọa trầm trọng sự thành công của điệp vụ Hoa Sen. Trú sứ CIA ở Tân đề-li phụ trách luôn một số quốc gia kế cận, trong đó có Nê-pal, Bhu-tan và Sik kim. Cái chết của Phờrôn làm toàn bộ trú sứ tê liệt. Phút này, đại tá Z.28 đang ở Bhu-tan, thái tử Bô-kha chưa được hộ tống về đến Kát-man-đu mà điệp vụ Hoa Sen lại rơi vào tình trạng mất người điều hợp.

Vai trò điều hợp ấy do Phờrôn nắm giữ. Không nhân viên nào của tôi trong khu vực hội đủ điều kiện thay thế Phờrôn. Không những thế, tôi phải mất trên dưới một tuần lễ mới có thể phái nhân viên khác đến tận nơi, móc nối với nhân viên sở tại.

Bởi vậy, tôi trân trọng yêu cầu quý Sở đảm trách toàn bộ điệp vụ Hoa Sen, kể từ giờ phút này.

Chờ đợi phúc điện của quý Sở theo thể thức khẩn cấp loại A. Tôi sẽ gửi tiếp mọi chi tiết chuyên môn cần thiết.

Trân trọng.

Sì-mít. »

Trong khi bức điện được chuyển đi, ông tổng giám đốc Sì-mít trải một bản đồ tiểu lục địa Ấn trên bàn. Những nước chính trong vùng như Ấn độ, Nê-pal, Bhu-tan và Sik kim được tô màu rực rỡ khác nhau. Ông cầm bút khoanh tròng vị trí ở Tân đề-li rồi nhìn đại tá Pit như hỏi ý kiến. Ông Sì-mít khác ông Hoàng ở điểm ông ít đi sâu vào các điệp vụ. Ông chỉ đứng trên cao, điều khiển chính sách. Việc thực hiện được ủy thác cho cộng sự viên thân cận, năm thì mười họa ông mới tìm hiểu tường tận. Vì vậy ông chỉ biết Z.28 tham dự điệp vụ Hoa Sen, chứ không biết Z.28 hiện ở đâu và làm những gì.

Đọc tư tưởng ông tổng giám đốc, phụ tá Hành động đại tá Pit bằng giọng rành mạch, chắc nịch, báo cáo lại từ đầu đến cuối điệp vụ. Ông Sì-mít chống tay lên cằm, thái độ bâng khuâng. Thốt nhiên ông ta choàng tỉnh:

-Căn cứ vận tải 906 của ta cách làng Chimakôti và lộ trình đào tẩu của Văn Bình bao nhiêu cây số?

Đại tá Pit cắm một cây kim gút màu đỏ vào một điểm trên bản đồ trong vùng Át sam:

-Thưa, 200.

-Nghĩa là phi cơ có thể đáp xuống kịp thời. Mùa này, con đường về Phun-sô-linh rất tối, đèn sáng đến mấy cũng không xuyên thủng được sa mù. Gió lại thổi mạnh. Năm ngoái, trưởng căn cứ 906 về đây gặp tôi, xin tôi tăng gấp đôi tiền lương và tiền thưởng cho những phi hành đoàn bay đêm ở Bhu-tan và Sik kim. Tỉ lệ tai nạn ở đó cao hơn mức dự liệu nhiều lần. Nếu thời tiết tốt thì may, nhược bằng trời xấu…

-Ông sợ…?

-Ừ, tôi sợ. Về phản lực cơ, phi công của ta thuộc loại xuất sắc, không quốc gia nào bì kịp. Khốn nỗi công tác tiếp cứu Z.28 cũng như địa hình địa vật Bhu-tan chỉ thích hợp với phi cơ cánh quạt. Anh có bản tin tức khí tượng mới nhất không?

-Dạ, có bản tin tức tổng quát do vệ tinh viễn thông chuyển xuống. Máy điện toán IBM tiên liệu nhiều thay đổi bất thần về thời tiết trong vùng.

-Tôi muốn ra lệnh trực tiếp cho phi công tiếp cứu.

-Thưa, ta có thể liên lạc bất cứ lúc nào với căn cứ vận tải 906. Còn với phi công tiếp cứu thì không. Tầm máy vô tuyến của phi cơ rất hạn hẹp.

-Anh hiểu sai ý tôi. Tôi muốn ra lệnh ngay cho căn cứ 906, rồi từ đó họ lại ra lệnh lại cho phi công.

-Theo kế hoạch, phi công phải đình chỉ mọi liên lạc vô tuyến trong khi bay.

-Nghĩa là căn cứ chỉ còn cách ngồi chắp tay cầu nguyện…

-Dạ. Phi công bay rất thấp, căn cứ không thể theo dõi sự xê dịch trên màn ảnh rađa.

Vẻ mặt rầu rĩ, ông tổng giám đốc CIA buông phịch xuống ghế xoay:

-Nguy to. Thôi, đành bắt chước trưởng căn cứ 906 chắp tay cầu nguyện.

Ông Sì-mít không hổ danh tổng giám đốc một cơ quan điệp báo hùng hậu nhất nhì thế giới. Tuy cách Hy mã lạp sơn cả một đại dương mênh mông, với chục ngàn cây số, ông đoán đúng không sai mảy may. Thật vậy, trưởng căn cứ vận tải 906 đang ngồi bất động bên đống tàn xì gà cao ngất, chốc chốc lại liếc kim đồng hồ, trong khi bên ngoài, trên mặt đất, gió khuya thổi ào ào…

Phòng chỉ huy cũng như mọi kiến trúc khác của căn cứ 906 đều được xây ngầm dưới đất. Kỳ công này của CIA, nằm trên đất Ấn, sát nách các nước Bhu-tan, Sik kim, Miến điện và nhất là Trung Hoa, mà tính chất bí mật của nó chưa hề bị bạn hay thù xuyên phá.

Nó được ngụy trang làm đồn điền trà. Trà Át sam cũng như cà phê Ban mê thuột, ở đâu cũng thấy. Địa thế của đồn điền hơi trái khoáy. Nó ở bên hông con sông dữ dằn Brahmaputra. Mùa nắng thì khô cằn, mùa mưa thì trời ơi, nước sông dâng lên vùn vụt, đầu hôm sớm mai toàn vùng bị ngập nước, nhiều khi cả mấy trăm cây số bị úng thủy.

Lụt lội là lý do khiến ít nhà trồng tỉa nào bén mảng đến vùng này lập nghiệp. Do đó, trong nhiều năm liền, đồn điền của căn cứ 906 đứng chơ vơ một mình, một bên là sông và núi, bên kia là rừng già bất khả xâm phạm.

Chủ đồn điền là người Anh. Song thân y đến nơi này từ trước thế chiến thứ nhất, hành nghề săn bắn và nghiên cứu dược thảo. Cả hai thiệt mạng trong một cuộc oanh tạc. Người con trưởng thành từ ngoại quốc về Ấn, thương nhớ cha mẹ, đến sống tại đồn điền cũ. Không ai có thể nghi ngờ sự khắng khít tình cảm ấy. Vả lại, ngoài nguyên nhân tình cảm gia đình, chàng trai này còn một sở thích hợp với rừng xanh, núi thẳm: ghét cuộc sống phồn hoa bụi bặm, và mê sự ẩn dật thanh cao.

Y kết hôn với một cô gái khá đẹp thuộc bộ lạc Khasi. Bộ lạc Khasi là một trong số ít bộ lạc còn sống sót mà nữ có nhiều quyền hơn nam. Đất ruộng của tổ tiên chỉ được chia cho con gái. Con trai không được thừa kế. Nhờ vợ, y nới rộng được đồn điền cũ. Nhờ vợ, y được mọi người vị nể. Bộ lạc Khasi không ưa cái mới. Tất cả những gì liên hệ đến nền văn minh hiện đại đều bị họ ngăn chặn quyết liệt. Họ đã bỏ thói quen ăn thịt người, song họ không tha thứ cho mọi sự đột nhập ngoại lai. Họ thờ hàng chục thứ thần thánh. Họ tiên đoán vị lai số mạng bằng cách đập vỡ quả trứng rồi quan sát. Họ khoái ca hát, nhậu nhẹt và nhảy múa…

Bộ lạc Khasi chất phác không ngờ được chàng thanh niên người Anh hiền lành làm rể của họ chính là một nhân viên trung cấp CIA, bí danh Pi-ô.

Căn cứ 906 do Pi-ô chỉ huy gồm hai phi cơ cánh quạt dấu dưới hầm nơi có một giẫy phòng rộng bằng bê-tông dầy. Mùa khô thì phi cơ được cần trục nâng lên giống như hệ thống cần trục trên hàng không mẫu hạm. Rồi phi cơ lăn bánh trên nền xi-măng để cất cánh. Đặc điểm của phi cơ là lên xuống dễ dàng như trực thăng. Mùa mưa, Pi-ô xử dụng hòn núi kế cận: miệng núi khum tròn như cái giếng, trên nền đá khô ráo có thể cất cánh bất cứ lúc nào. Phụ tùng và xăng nhớt do ban Không vận CIA thả xuống mỗi năm ba, bốn lần. Pi-ô kiêm đủ việc, kể cả việc bảo trì phi cơ và đích thân cầm lái mỗi khi hoa tiêu chính vang mình sốt mẩy. Nơi khỉ ho cò gáy này, cái gì cũng độc, người sinh trưởng ở địa phương còn mang bệnh, huống hồ hoa tiêu CIA Mỹ quen sống tiện nghi. Thành thử Pi-ô không phải là phi công mà quanh năm cứ lái dài dài. Hoa tiêu chính tứ thời nằm bẹp vì sốt rét, kiết lị. Tại căn cứ 906, thời hạn được rút xuống còn phần ba. Nghĩa là 6 tháng. Sau 6 tháng ở căn cứ 906 thì được hưởng 6 tháng nghỉ phép ở Mỹ. Lợi lộc như vậy mà số nhân viên tình nguyện mỗi năm một giảm. Là vì điều kiện để được tình nguyện rất gắt gao. Cái chết luôn luôn gần kề. Chuyến bay nào cũng nguy hiểm. Hơn thế nữa, phục vụ ở các quốc gia tây phương thú hơn, chẳng ai ham đến chốn thâm sơn cùng cốc, xa lánh sàn nhảy thoát y và nhan sắc núi lửa.

Ngược lại, Pi-ô gắn bó với căn cứ 906. Cho dẫu Pi-ô đòi được thay thế cũng chẳng có ai. Rốt cuộc Pi-ô trở thành nhân viên trung cấp CIA hoạt động lâu năm nhất ở Viễn đông.

Đêm ấy, Pi-ô mất ngủ. Vì lý do nào, y không biết. Y là vua ngủ. Bận rộn, lo lắng đến đâu, y đặt lưng xuống là ngáy o o. Trừ phi phải thức đêm để liên lạc với phi công trên trời -trường hợp này xảy ra rất ít- thường thường Pi-ô ngủ sớm. Cô vợ trẻ thuộc bộ lạc Khasi biết cách chiều chuộng. Nàng chỉ bằng lòng cho chồng thức đêm trong nhà hầm nếu đó là công vụ quan trọng. Ngay cả khi phải thức, Pi-ô cũng nằm dài trên giường sắt, mũ nghe chụp vào tai, hễ có liên lạc vô tuyến thì chồm dậy.

Mất ngủ, Pi-ô hút thuốc liên miên. Vì hút thuốc liên miên, y càng mở mắt thao láo. Phi công vừa rời đồn điền bay tới con đường xuyên sơn ở Bhu-tan là phi công ưu tú, với hàng ngàn giờ bay gián điệp ban đêm sương mù. Pi-ô có thể tin tưởng. Nhưng khi phi cơ bốc khỏi ngọn cây trực chỉ tây-bắc, Pi-ô lại đâm ra băn khoăn.

Linh tính gián điệp lãi luyện của Pi-ô báo hiệu sự trục trặc. Từ bên kia bờ biển Thái bình dương, ông tổng giám đốc Sì-mít cũng đánh hơi thấy sự trục trặc. Bằng chứng là ông gởi cho Pi-ô liên tiếp một dây mật điện. Mật điện này chưa kịp dịch xong thì mật điện kia lại kêu tạch tè trên máy. Ông Sì-mít đòi Pi-ô báo cáo diễn biến của công tác.

Cho đến phút này, Pi-ô chẳng có gì để báo cáo về Trung ương. Chỉ vỏn vẹn một phúc trình khí tượng. Phúc trình lại chứa những chữ và con số làm người lạ quan nhất phải bi quan.

Pi-ô thẫn thờ trèo cầu thang lên mặt đất.

Y thò mặt ra khỏi cửa hầm và có cảm giác như bị đấm mấy thoi liên tiếp khiến y loạng choạng suýt ngã. Thủ phạm của những trái đấm thôi sơn vô hình ấy là gió. Gió từ sông Brahmaputra thổi lại. Tứ phía dật dờ ánh trăng pha lẫn ánh sáng mờ ảo của buổi rạng đông. Pi-ô không nhìn thấy giòng sông vì nó bị nhiều cánh rừng che khuất. Tuy nhiên, y ngửi được mùi nước tanh tanh. Bị hàng rào cây kiên cố ngăn cản, gió còn hung hãn, nếu là bãi đất trống để được mặc sức tung hoành, chắc chắn gió sông Brahmaputra đã nhổ hết nhà cửa của đồn điền, luôn tiện bốc theo những căn phòng bê-tông chôn sâu trong lòng đất.

Sông Brahmaputra là kỳ quan của tiểu bang Át sam. Theo tiếng Ấn, Brahmaputra có nghĩa là « con của thần Brahma », một trong 3 vị thần sáng tạo và hủy diệt sự sống được người Ấn thờ phụng trong sự kính nể vượt bậc. Mỗi năm đến mùa nước, mặt sông dâng cao 12 mét, biểu lộ cơn giận dữ của thần. Khi tam bành lắng xuống, những con thuyền nhỏ có thể ngược xuôi giòng sông an toàn.

Một ánh đèn đỏ được bật sáng dưới hầm. Pi-ô thấy những tia phản chiếu trên tường bê-tông. Mật điện. Mật điện. Pi-ô nhảy ba bậc một xuống phòng điện đài. Trời ơi, đây không phải điện thúc giục của ông Sì-mít. Đây cũng không phải điện báo tin điệp vụ hoàn tất tốt đẹp như Pi-ô mong mỏi.

Mà là tin S.O.S.

Bản cầu cứu S.O.S. được đánh bằng tín hiệu đặc biệt. Theo quy định, phi công chỉ phát tín hiệu S.O.S. trong trường hợp máy bay lâm nạn, không thể quay về căn cứ. Mọi việc được trù liệu tỉ mỉ: trong mọi hoàn cảnh phải phá nổ phi cơ, không chứng cớ nào được để sót hầu tố cáo vai trò của CIA.

S.O.S. nghĩa là điệp vụ tiếp cứu gần làng Chimakôti bị thất bại.

Mặt xanh tái, bàn tay hơi run, chỉ huy trưởng căn cứ vận tải 906 thảo bức điện ngắn, tường trình tự sự thê thảm về Lan-gờ-li cho ông tổng giám đốc Sì-mít.

Tín hiệu S.O.S. được căn cứ vật tải 906 tiếp nhận hồi 5 rưỡi sáng, giờ địa phương.

Hơn 2 giờ đồng hồ trước đó, Văn Bình cùng hai chú cháu Mahan-Tuyết Lê mắc kẹt trong đống đá kếch sù đổ chắn ngang đường. Hết phương tiện cơ khí đến làng Chimakôti, nơi hẹn với phi cơ của CIA. Mọi người đang lo bấn xúc xích thì có ánh đèn pha lóe sáng trong đêm tối sa mù.

Mahan vội vã chụp khẩu tiểu liên, ra hiệu cho Tuyết Lê nằm phục bên đường. Văn Bình vẫn đứng khơi khơi bên chiếc díp méo mó. Thái tử Bô-kha tỏ vẻ không hài lòng khi bị Tuyết Lê nắm cánh tay kéo đi. Thái tử bị mù nên không thấy xe hơi chạy tới. Mahan cất tiếng kêu Văn Bình:

-Núp ngay. Lính Bhu-tan chúa sợ ma, chúng thấy bóng đen là nhắm mắt bóp cò…

Hai lùm pha xe hơi còn cách nơi đổ khoảng một cây số. Một kilômét trên con đường ngoằn ngoèo nên trông rất gần. Mahan đoán không sai. Hắn vừa dứt lời thì một loạt âm thanh tacata tacata nổi dậy. Trong chớp mắt, một chiếc quân xa đồ sộ thắng ken két, hai tên lính ôm súng từ phía sau cam-nhông vọt xuống.

Tên sĩ quan ngồi ở băng trước ló mặt hỏi lớn:

-Gì vậy chúng mày?

Hai tên lính vượt qua mũi xe, đến sát chiếc xe díp lâm nạn. Một tên đáp:

-Xe húc phải tường đá. Nơi này núi lở, thiếu úy ơi!

Tên thiếu úy lười biếng, không chịu xuống xe. Hắn tiếp tục chỉ huy theo lối « lính cậu »:

-Hành khách bị thương nặng?

Một tên lính đáp:

-Không thấy ai hết.

Tên bạn tru tréo:

-Ma, ma…mới thấy người đứng chềnh ềnh giữa đường…

Cả hai tên lính hoảng hốt phóc lên quân xa. Ma là điều cấm kị ở Bhu-tan. Người dân ven rặng Hy mã quan niệm vạn vật đều có hồn, và hàng triệu triệu, tỉ tỉ hồn ma này bay lượn trong không gian, ngự trị trên núi non, cây cỏ với những quyền hành siêu việt.

Tên thiếu úy quát:

-Chúng mày lục soát lại lần nữa. Đầu xe bẹp rúm, tài xế húc mạnh đống đá chắc hành khách văng khỏi xe, rớt xuống vực. Chỗ này vực núi không sâu, lại có nhiều rễ cây, chiếu đèn bấm xuống may ra tìm thấy.

Hai tên lính đùn việc cho nhau, không tên nào tình nguyện. Tên thiếu úy gắt ngậu sị chúng mới tuân lệnh. Nhưng chúng đòi đi cùng. Nằm sau đống đá cạnh Mahan, Văn Bình muốn bật cười. Trên quân xa có 4 người. Với bọn giá áo túi cơm hèn nhát này, chàng nắm tình hình không khó.

Tia đèn pin quét một vệt dài gần xe díp. Hai tên lính rón rén từng bước một. Chúng sợ trượt chân thì ít, sợ ma thì nhiều. Nhờ sa mù dầy đặc chúng tiến sát chỗ chàng núp mà không nhìn thấy chàng. Sau lưng chàng là khoảng tối vô tận. Là hố thẳm mênh mông, bề sâu non ngàn mét. Ném hòn đá xuống vực không nghe tiếng động. Hụt bước là rớt. Và chắc chắn tan xương nát thịt. Trừ phi bám được những rễ xi và bồ đề lớn bằng con trăn…

Tên lính cầm đèn bấm vừa lọt trong tầm cước của Văn Bình. Hắn nói oang oang như để phá tan sự im lặng ghê rợn, mang lại niềm tin cho chính hắn. Văn Bình nhoài mình, vươn tay, nắm gọn mắt cá chân của tên lính cầm đèn.

Hắn chỉ kịp kêu một tiếng « ối » ngắn.

Rồi câm bặt.

Văn Bình đã kéo hắn nhào xuống vực núi đen ngòm.

Bạn hắn la thất thanh:

-Thiếu úy, thiếu úy…

Văn Bình chồm tới ôm ngang lưng hắn. Vòng tay chàng khép lại như gọng kềm. Trong nháy mắt, xương sống hắn gãy đôi. Chàng buông lơi, xác chết rơi phịch. Rồi chàng khều nhẹ. Hai tên lính được đoàn tụ với nhau ở đáy vực, bên kia cõi sống.

Tiếng kêu cứu kinh động đập vào tai đồng bọn còn lại trên quân xa: tài xế và tên thiếu úy. Tên thiếu úy đang ngủ gà ngủ gật dưới tác động của những điếu thuốc cần sa hút liên tiếp. Tên tài xế đập vai hắn:

-Thiếu úy ơi, hai thằng ấy bị ma bắt!

Tên thiếu úy lè nhè:

-Tao mệt muốn chết. Mày tìm chúng nó giùm tao.

-Em cũng sợ muốn chết.

-Mày dám cãi lệnh tao?

-Em đâu dám. Chẳng qua em không có đèn. Có mỗi cây đèn bấm chúng nó đã lấy dùng và để rớt xuống vực.

-Ừ nhỉ. Mày chịu khó lùi xe, chiếu pha về phía đó.

-Vâng…vâng.

-Té ra mày vẫn còn teo. Đây này, coi tao…Tao làm một băng là ma chạy hết.

-Em xin thiếu úy. Thiếu úy bổ báng như vậy, em sợ…

Câu nói của tên tài xế bị tiếng súng ròn rã che lấp. Đạn của Nhà nước có khác. Tên thiếu úy bắn một hơi hai sạt-giơ. Văn Bình kéo thái tử Bô-kha ép sát xuống nền đường. Tên thiếu úy chĩa mũi súng vào đống đá, bụi núi bắn tung tóe. Văn Bình phải dùng thân chàng làm lá chắn cho Bô-kha. Hàng chục hòn đá lớn bằng bao quẹt văng rớt lộp độp trên lưng chàng.

Bắn xong, tên thiếu úy cười ha hả:

-Hết sợ chưa mày?

Tên tài xế mở máy xe. Văn Bình bò thật lẹ lên lòng đường. Quân xa ở đây được trang bị đèn pha riêng, loại đèn i-ốt khả dĩ xuyên phá màn sương kiên cố. Dưới lùm đèn pha cực mạnh này, sự hiện diện của chàng và những người khác trong đoàn sớm muộn sẽ bị bại lộ. Tên thiếu úy chỉ cần lia họng tiểu liên là toàn thể mất mạng.

Văn Bình bắt buộc phải ngăn chặn tên tài xế xử dụng đèn pha. Con đường đèo chật hẹp ngoằn ngoèo giữa vách núi, và vực sâu, tài xế phải thận trọng gài số, đạp thắng, rớm ga từ từ. Hộp số kêu rèn rẹt, tài xế sang số « de » sửa soạn cho xe lùi. Văn Bình lách ra khỏi vùng sáng, nhỏm dậy. Chàng đang ở phía vô-lăng. Loại quân xa này cao lêu nghêu. Văn Bình rướn chân mới chặt được atêmi ngang gáy tài xế. Chàng vung dòn thần tốc và đột ngột. Nạn nhân gục mặt xuống tay lái, sức nặng của khối thịt đè xuống bàn chân phải, bàn chân điều khiển ga xăng, khiến tốc lực xe gia tăng gấp bội. Chiếc quân xa khổng lồ lao vút về phía sau, húc phải tường đá kêu rầm.

Những tảng đá bị rạn nứt nhưng chưa đổ xuống trong cơn núi lở đã biến thành hàng chục, hàng trăm cục nham thạch nhào rớt bay bắn loạn xạ. Chiếc cam-nhông nặng nhiều tấn bị đảo nghiêng, chồm ra đằng trước, quay mình một vòng rồi lăn chiêng, tạo nên một chuỗi âm thanh đinh tai nhức óc.

Tai nạn xảy ra bất thần, tên thiếu úy chưa kịp đối phó thì bị mắc kẹt. Phía hắn ngồi bị dộng xuống đường, thi thể tên tài xế bị Văn Bình hạ sát chặn ngang ngực làm hắn suýt ngạt thở. Kiếng chắn gió bể tan tành, miễng vụn cứa đứt mặt hắn, máu chảy đầm đìa. Hắn ráng sức xô tên tài xế, miệng kêu oai oái:

-Cứu tao với, chúng mày ơi!

Kêu được mấy tiếng, tên thiếu úy mới tự thấy lầm lẫn và lố bịch. Đám lính dưới quyền đã chết sạch. Hắn là mống cuối cùng còn sống. Hắn kêu đến sáng cũng chẳng đi đến đâu. Lấy lại tinh thần, hắn rờ mặt, rờ ngực tên tài xế. Vô ích, tên tài xế đã ngủm củ tỉ. Hắn lẩm bẩm:

-Quái…làm sao nó chết được…Ừ…làm sao xe hơi lại chạy lùi…Đúng đoạn đường này có ma. Nó khuyên mình cứng đầu không nghe, e ma giết mình đến nơi…

Nghe tên thiếu úy rát như cáy than vãn, Văn Bình nẩy ra ý nghịch tinh. Hồi nhỏ, chàng nổi tiếng nghịch tinh. Thoạt tiên là nghịch tinh nhất lớp. Sau đến nghịch tinh nhất trường. Những anh lớn hơn một cái đầu và khỏe gấp đôi cậu bé Văn Bình cũng ngán chàng về môn nghịch tinh. Chàng dọa ma thì diễn viên thượng thặng phải thua. Ban đêm, trời teng teng lạnh, gió thổi hắt hiu, ngọn đèn dầu của phòng trọ leo lét muốn tắt, chàng có thể giả đủ thứ âm thanh, nào là tiếng hú não nùng ngoài vườn chuối, tiếng chân người dẫm trên cầu thang gỗ ọp ẹp, nào tiếng nạn nhân bị bóp cổ ằng ặc, tiếng khóc tỉ tê của những con ma bơ vơ…

Văn Bình gõ mui xe hơi lộp cộp. Trong xe, tên thiếu úy lục đục, cựa quậy, rồi suýt soa:

-Ma thật rồi…ma thật rồi…Tối nguy, mình trốn đâu bây giờ..

Văn Bình giọng khàn khàn:

-Ma thật rồi…ma thật rồi…

Tên thiếu úy rú lên:

-Ông ma ơi, ông tha cho con. Con trót dại. Người ta nói quãng đường này ông ngự trị mà con ngu dại không tin, giờ đây con nghe tận tai, thấy tận mắt, con không dám xấc xược nữa. Ông cho phép con đi Phun-sô-linh, con trao tận tay bức thư và tiền thưởng cho ông trạm trưởng, sau đó con xin mua lễ vật cúng tạ ông.

Văn Bình thở phù phù trong khi ngón tay chàng cào sườn xe sồn sột. Tên thiếu úy van vỉ to hơn:

-Ông thần ma ơi…Nếu ông rủ lòng thương, ông không phạt con, sau chuyến đi này con sẽ thôi việc. Vâng, con xin thú tội trong 3 năm làm việc dưới quyền tướng Khẩu Cầm, con đã hạ sát cả thảy 10 người. Vâng, 10 người, họ không quen con, họ không thù con, chẳng qua con vâng lệnh cấp trên…

Văn Bình lạnh người. Chàng định « đùa dai » với tên thiếu úy sợ ma, chàng không ngờ sự nghịch tinh này lại dẫn chàng đến một khám phá mới. Một khám phá kịp thời và quan trọng.

Chàng ngưng gõ mui xe. Trong xe cũng im lặng. Tên thiếu úy câm nín để nghe động tĩnh. Lát sau, thu hết can đảm, hắn bám vô-lăng đu lên, vận sức hất cánh cửa. Cửa xe nhấc lên đập xuống nhiều lần. Sau cùng nó được mở ra hẳn. Tên thiếu úy trèo ra ngoài, co chân nhảy xuống đường.

Văn Bình chờ sẵn. Chàng túm tay hắn, bẻ quặt ra sau, đồng thời vặn ngón tay trái trong một thế nhu đạo đau đớn cực độ. Nạn nhân phải quỳ gối để bớt đau. Khi ấy, hắn nhìn thấy Văn Bình. Chàng là người bằng xương bằng thịt đàng hoàng, không phải « ông ma ».

Chàng dõng dạc ra lệnh:

-Thư đâu, tiền đâu?

Tên thiếu úy toan vùng dậy song vội bỏ ý định dưới thế võ lợi hại của Văn Bình. Hễ hắn cử động mạnh là xương cốt như bị gẫy vụn. Hắn đành nhăn nhó:

-Té ra không phải ma.

-Đáng sợ hơn ma nhiều. Thư đâu, tiền đâu? Muốn ngủ dưới vực như hai thằng lính kia không?

-Úi chao…ông quăng chúng nó xuống vực…Tôi thèm sống, tôi dại gì, thưa ông. Thư và tiền trong túi.

-Lấy coi.

Văn Bình đinh ninh tên thiếu úy chịu ép một bề với hy vọng vớt vát tính mạng. Vì thế chàng lơ là, cho phép hắn xử dụng cả hai tay. Chàng cũng chẳng buồn theo dõ phản ứng của hắn. Hắn rút súng giấu trong túi bắn liền. Văn Bình tinh mắt, oằn người tránh, viên đạn sướt qua hông chàng.

Chủ đích của Văn Bình là trấn áp tên thiếu úy, dùng ngón nghề tra tấn võ thuật bắt hắn cung khai. Vạn bất đắc dĩ chàng mới hạ thủ.

Chàng vung atêmi, xoẹt như lưỡi dao cạnh bàn tay trái của chàng phập vào cổ tên thiếu úy. Nạn nhân vập mặt xuống đường.

Chàng lục thi thể tìm thấy một cái phong bì lớn, khá dầy, ép sau áo, sát ngực. Chàng mang lại xe hơi, lựa chỗ khuất gió, châm lửa vào miếng vải dùng nó làm đuốc, mở thư đọc.

Gọi là thư, thật ra chỉ là tờ giấy nhỏ với mấy giòng chữ viết tay nguệch ngoạc:

« Anh Tô-rúp thân,

Giữ đúng lời hứa với anh, nhân dịp nhân viên của tôi ở Lôi địa đi công tác, tôi sai nó tạt qua Phun-sô-linh gửi anh số tiền hai ngàn Anh kim kèm đây bằng bạc 20 đồng.

Một lần nữa, cám ơn anh đã tận tình giúp đỡ chúng tôi, và riêng cá nhân tôi.

Sau khi hoàn thành công tác, trở về Kát-man-đu, tôi sẽ trình ông tướng về sự đóng góp đắc lực của anh, và tôi tin tưởng ông tướng không làm anh thiệt thòi.

Bạn anh,

Sêbu.

T.B. À, bữa chúng mình gặp nhau, anh cho hay vừa săn được con tây ngu độc sừng, sửa soạn ngâm túi mật của nó với rượu bờ-han. Yêu cầu anh chia cho một ít. Cám ơn nhiều. »

Văn Bình bâng khuâng nhìn cảnh vật hoang liêu bị chìm ngập trong sa mù và bóng đêm u uất. Chàng có cảm tưởng như đánh mất một vật gia bảo. Mahan chạm vai chàng:

-Bọn này là nhân viên của tướng Khẩu Cầm?

Văn Bình gật đầu. Chàng chỉ đống đá sừng sững chắn ngang đường đèo:

-Mình phải rút khỏi nơi này thật nhanh.

Mahan cất tiếng hỏi thêm, Văn Bình gạt:

-Thong thả. Lúc này chưa tiện nói.

Mahan cằn nhằn:

-Còn xa mới đến Chimakôti. Không lẽ mình cuốc bộ.

Văn Bình nói:

-Cứ cuốc bộ rồi liệu sau.

Tuyết Lê dìu Bô-kha lại gần đống đá. Văn Bình xốc thái tử lên vai, thoăn thoắt trèo qua. Núi đá phản ánh chất lân tinh giúp mọi người nhìn thấy đường.

Bên kia đống đá nằm thưỡn con giốc chênh vênh. Gió từ Phun-sô-linh thổi tới vù vù. Sương mù đổ trút như nước mưa. Văn Bình bắt bàn tay lên vành tai làm ống nghe. Chàng nói với Mahan:

-Anh nghe tiếng gì không?

Mahan nín thở, hướng tai về phía nam, nơi Văn Bình nói có âm thanh lạ.

-Có, có. Dường như tiếng máy xe hơi.

Văn Bình chắt lưỡi:

-Còn « dường như » gì nữa. Chắc chắn là nó. Mình sắp có phương tiện di chuyển. Tuyết Lê, em ngồi với thái tử. Đưa súng cho anh.

Mahan xấn lên:

-Tôi cũng đi chứ?

-Khỏi cần.

Văn Bình chạy phăng phăng xuống giốc.

Lúc ấy là 4 giờ sáng.