Chương VI Tai nạn
Văn Bình áp bụng trên phiến đá lớn nhô ra ở khúc rẽ. Phiến đá này cách mặt đường 5 mét, tạo cho chàng một vị trí quan sát tốt đẹp để bao quát con đường đèo từ dưới bò lên cao theo hình chữ Z. Dẫu xe hơi sắp tới là quân xa trí súng đại liên với một tiểu đội binh sĩ ưu tú, Văn Bình vẫn nắm trước phần thắng vì đây là ổ phục kích lý tưởng.
Chẳng mấy chốc chàng thấy ánh đèn. Đèn không sáng lắm, tài xế không có lối lái bạt mạng. Văn Bình đoán là xe hơi tư nhân.
Mà thật, 5 phút sau, chàng thấy rõ một chiếc díp taxi. Taxi thường chạy ban ngày. Trời xấu –mưa hoặc bão- thì ngay cả ban ngày taxi cũng không dám lăn bánh vì mỗi khúc quẹo là một triển vọng tai nạn. Năm khi mười họa, có khách thuê chuyến thật đắt tài xế mới chạy ban đêm.
Chiếc díp bò giốc ì ạch một cách mệt mỏi như muốn đứt hơi. Đến gần chỗ núi lở, nghĩa là sau khi vượt khỏi ổ phục kích của Văn Bình, tài xế tốp lại.
Đèn trong xe bật sáng.
May cho chàng, ngoài tài xế trong xe chỉ có một người khách. Văn Bình khỏi phải mang thêm tội giết quá nhiều người. Vì dẫu là hàng chục nạn nhân vô tội chàng cũng không được quyền do dự và nhân đạo. Hai người líu ríu xuống xe, mỗi người một phía. Đẹt, đẹt hai tiếng nổ liên tiếp. Cả hai đều bị bắn trúng tim.
Văn Bình buông mình xuống đất, chạy vội lại xe hơi. Chàng ôm xác nạn nhân ném vào khoảng không bên phải. Chàng thót lên xe. Liếc đồng hồ xăng, chàng mừng húm. Bình xăng còn đầy, quá đủ cho chàng phóng qua biên giới, chứ đừng nói là dừng lại trước làng Chimakôti nữa.
Mahan là Tuyết Lê lếch thếch chạy tới. Mỗi người đỡ một bên vai Bô-kha. Văn Bình trở đầu xe, sau 5, 7 lần đít xe díp húc vào vách đá và hai lốp xe trước suýt trượt lăn xuống hố thẳm, chàng mới đạt được ý muốn. Chàng dặn Mahan và Tuyết Lê:
-Giữ chặt thái tử, tôi phóng đây.
Thế là chàng đạp lút chân ga. Càng rời xa Hang Cọp tiến về phương nam, mặt đường càng bớt hẹp và lộ trình càng bớt nguy hiểm.
Cảnh vật không quá tiêu điều như trước. Lác đác bên đường có ruộng nương trồng trọt, và nhà ở. Xa xa, in cắt trên nền mây nửa đen nửa sám là một đờ-dông, pháo đài xưa, từng là nơi ngự trị của các tiểu vương có quyền sinh sát đối với dân cư trong vùng, nay được dùng làm trại binh hoặc cơ sở chính quyền. Tuyết Lê đập mạnh sườn xe làm hiệu cho Văn Bình:
-Chimakôti kia rồi anh ơi!
Giẫy nhà hình vuông, sơn trắng, kiên cố, được xây cất trên sườn đồi có hào sâu và tường cao bao bọc này báo hiệu sắp tới làng Chimakôti. Văn Bình lái thêm một quãng đến khu rừng thông mới quẹo vào. Gần đó là bãi đất rộng, không cây cối. Chàng vặn đèn trong xe, giữ địa đồ, bàn bạc một hồi với Mahan. Xong xuôi chàng xách xuống bãi trống cái xắc bằng vải bạt dầy mang theo từ Lôi địa. Xắc này đựng những dụng cụ cần thiết để liên lạc với phi cơ tiếp cứu. Đại để gồm cái máy phát tín hiệu bíp bíp làm chuẩn cho hoa tiêu bay trên trời lượng tính vị trí để hạ cánh, cái máy walkie-talkie thu gọn bằng hai hộp quẹt, tầm liên lạc âm thanh xa gần 5 cây số, và một hệ thống hỏa pháo đặc biệt.
Nguyên tắc xử dụng rất giản dị: khi bắt đầu nghe tiếng máy bay, nhân viên dưới đất bấm nút phát tín hiệu, máy bay sẽ được hướng dẫn đến nơi một cách chính xác. Khi máy bay lượn trên đầu người dưới đất, hoa tiêu có thể trò truyện với nhau bằng walkie-talkie, và sau cùng, hỏa pháo được dùng thay đèn của sân đáp.
Văn Bình không mấy vững tâm vì trời bất thần chuyển gió. Phi cơ tiếp cứu CIA thuộc loại một động cơ, dưới tài điều khiển của hoa tiêu giàu kinh nghiệm, tỉ lệ an toàn của nó suýt soát trăm phần trăm. Phiền một nỗi, nó không bay được nhanh và cao. Tuy nhiên, đó chưa phải là điều quan trọng. Quan trọng là làm cách nào hạ cánh ban đêm xuống giẻo đất lạ không gây tai nạn.
Tuyết Lê kêu Văn Bình:
-Phi cơ đang xà xuống, anh nhìn thấy chưa?
Trừ phi mắc bệnh cận thị nặng, chàng mới không nhìn thấy những chấm đèn xanh đỏ bật sáng đồng loạt dưới cánh phi cơ. Tuyết Lê vẫn nói bai bải:
-Anh kìa, sao anh chưa bắn hỏa pháo?
Văn Bình lạnh toát châu thân. Theo quy ước tiếp cứu CIA -những quy ước chỉ riêng nhân viên hành động CIA am hiểu- phi cơ đảm trách công tác bốc gián điệp từ đất địch lên luôn luôn được gắn một giẫy đèn dưới cánh. Cách thức bật cháy và màu sắc của giẫy đèn chàng vừa thấy chính là tiếng kêu báo động của hoa tiêu đối với người đợi dưới đất.
Thật vậy, những chấm đèn xanh đỏ Văn Bình vừa thấy không phải tin mừng.
Mà là tin S.O.S.
Tại sao hoa tiêu báo tin S.O.S.? Chắc bộ phận bánh đáp bị trục trặc. Những sự trục trặc trái khoáy xảy ra những lúc không ai ngờ tới nhất. Trong trường hợp bánh đáp bị hư, hoa tiêu đáp xuống bằng bụng. Hoa tiêu dùng đèn báo động, điều này chứng tỏ trục trặc trên phi cơ rất nghiêm trọng.
Chàng lẩm bẩm:
-Không khéo bị cháy!
Giẫy đèn S.O.S. tắt phụt. Chiếc phi cơ du lịch một động cơ bé nhỏ, mảnh mai nhòa biến trong màu đen sám của vòm trời cuối đêm. Từ dưới đất trông lên không còn thấy gì, cả tiếng máy nổ cũng tan hòa vào cõi hư vô. Rồi một vùng đỏ lóe lên:
Tuyết Lê hoảng hốt:
-Cháy, cháy!
Hỏa hoạn là ưu tư hàng đầu của phi cơ nhẹ. Với những tiến bộ của kỹ nghệ hàng không, vật liệu được dùng để chế ráp máy bay ngày càng tăng đặc tính kỵ hỏa. Phi cơ càng nhỏ, khả năng kị hỏa càng yếu vì dụng cụ chống lửa cũng như hệ thống tự động dập tắt và cô lập những khu bị cháy trong phi cơ bị hạn chế đến mức tối đa. Vể địa hạt thuần túy kỹ thuật như « pan » bánh đáp, pan động cơ hoặc các bộ phận điều khiển phi cơ nhẹ không mấy lo lắng. Ngược lại, nạn cháy thường dẫn đến kết quả thê thảm.
Văn Bình vẫn lạc quan mặc dầu những lưỡi lửa vừa phát xuất ra đã vây kín phi cơ trong một khối đỏ rực. Chàng hy vọng phi cơ ở độ thấp, hoa tiêu có thể hạ cánh trước khi nổ tung. Dầu sao, chàng cũng vững tin khả năng của hoa tiêu vận tải điệp báo.
Cũng như mọi cơ quan điệp báo thế giới, CIA Mỹ giành một cố gắng khác thường cho công cuộc đào tạo hoa tiêu vận tải bí mật. Muốn được tuyển dụng phải là sĩ quan phi hành có nhiều giờ bay, can đảm, tháo vát, bình tĩnh, học thức rộng, giỏi kiến thức cơ khí, tuổi từ 30 đến 40. Số tuổi thấp hơn không được kết nạp vì cấp chỉ huy điệp báo nghĩ rằng trên 20, 21 tuổi mới tốt nghiệp khóa phi hành, và người sĩ quan không quân cần 5, 10 năm học tập ngoài chiến trường và trong các khóa bổ túc trước khi tạm được coi là trưởng thành. Ở tuổi 30, sĩ quan không quân thường đã lên cấp đại úy. Nghề nghiệp trưởng thành, tuổi đời cũng trưởng thành, khi ấy là thời kỳ thích hợp cho chương trình tái huấn luyện của CIA.
Chương trình này phân thành nhiều đợt. Đợt đầu nhằm huấn luyện thân thể, đề cao sự chịu đựng, gần giống như sự chịu đựng của khóa sinh biệt kích dù và khóa sinh phi hành gia không gian hợp lại. Sau đó, họ phải làm quen của mọi kiểu phi cơ, đặc biệt là phi cơ nhỏ và nhẹ. Ban Vận tải CIA đặt ra 3 cấp hoa tiêu: A-1, A-2 và A-3. Cấp cao nhất, A-3 gồm những hoa tiêu kiêm luôn nghề gắn ráp phi cơ nhẹ. Sự gắn ráp này đôi khi rất cần. Trong quá khứ, hơn một lần CIA đã thả những thùng đựng phụ tùng và bộ phận tháo rời để nhân viên của họ bị kẹt ở hậu địch tự tay gắn ráp.
Phi cơ được tháo rời để gắn ráp thuộc kiểu Skybaby, dịch nghĩa là Thiên nhi (1).
Trong phi mục CIA, nó mang tên Skyhair, Thiên mao –tóc của trời. Lông tóc có khác: nó nhẹ hơn Thiên nhi mấy chục kí, động cơ của nó lại mạnh hơn, do đó nó bay nhanh hơn, lên xuống lẹ hơn.
Hoa tiêu cấp A-3 rất hiếm. Trong số 20 người may ra mới gạn lọc được một. Hoa tiêu kém thì phục vụ tại khu vực ít nguy hiểm. Ở những vùng dọc sát bức màn tre và bức màn sắt cộng sản, thường thường là hoa tiêu A-3
Văn Bình lạc quan khá đúng: hoa tiêu của chiếc phi cơ nhẹ đang bốc cháy trên đầu chàng là hoa tiêu A-3. Chàng không biết y, và y không biết chàng là ai. Về màu da, kích thước thân hình, diện mạo, hoàn toàn khác nhau. Nhưng về khoản yêu đàn bà đẹp và yêu rượu huýt ky thì hai người giống nhau như được đúc cùng khuôn.
Y trạc 35, 36, cao chưa được một thước bảy, nghĩa là chiều cao trung bình theo tiêu chuẩn tây phương, và là hơi thấp nếu so với các đồng nghiệp của y trong không lực Mỹ. Đền bù lại, bề dầy và bề ngang của y thật vĩ đại. Y to xác đến nỗi trông y lùn tịt. Nhưng chớ tưởng y mập thù lu mà khinh thường: y chỉ có rất ít mỡ thừa, ở đâu cũng thấy thịt là thịt. Khối thịt đồ sộ này không phương hại đến tài lái tàu bay chính xác và hữu hiệu. Y có những phản ứng nhanh nhẹn như người gày ốm. Chạy nhảy, leo trèo, y không đến nỗi bết bát như người khổng lồ cùng khổ.
Những ngọn lửa vàng, xanh, đỏ hiện ra trong cốc-pít sau khi hoa tiêu tắt máy, chuẩn bị cho đáp xuống bãi trống. Y chưa kịp tìm hiểu nguyên ủy của hỏa hoạn thì lửa đã bùng lớn.
Bằng chân phải, y đạp nút liên lạc viễn thông S.O.S. Sau khi đã dứt bỏ bằng tay sợi dây nhôm khằng dấu chì an toàn trên táp-lô. Máy truyền tin tự động trình báo về căn cứ vận tải 906. Hoa tiêu vận tải chỉ được phép xử dụng nút S.O.S. này trong trường hợp phải tiêu hủy phi cơ hoặc hoa tiêu có thể bị thiệt mạng.
Trong khoảnh khắc, khoảng trống sau lưng hoa tiêu phùn phụt lửa. Y đạp nút chân trái. Đây là nút mở giẫy đèn S.O.S. dưới cánh để báo hiệu cho những người chờ sẵn bên dưới.
Như vậy là đủ, giờ đây y chỉ cần tập trung ý chí vào việc lái chiếc lâm nạn đột ngột xuống giẻo đất đen ngòm.
Cùng tích tắc đồng hồ này, Văn Bình kéo Mahan chạy như ngựa đua về chỗ đậu xe díp. Chiếc phi cơ đang quay cuồng trên trời, mỗi lúc nó xuống một thấp và lửa càng cháy dữ. Chẳng bao lâu nữa, lửa đột nhập thùng xăng và gây ra tiếng nổ…
Văn Bình cố hy vọng là hoa tiêu đáp xuống kịp thời. Chàng giựt cái bình chữa lửa màu đỏ được móc bằng cái vòng lát-tích mềm vào sườn xe hơi, và ném cho Mahan. Đồng thời chàng ôm tấm vải bạt dầy, chạy trở lại nơi chàng đứng hồi nãy.
Suýt nữa cả Mahan lẫn chàng đều chết uổng. Chiếc phi cơ cháy đỏ sa xuống cách xe díp 3 mét. Nếu hai người lừng khừng một vài sao đồng hồ nữa thì chiếc phi cơ đã đè bẹp họ, và biến họ thành cây đuốc sống.
Mọi việc xảy ra sau đó như những tình tiết của một cuốn phim màu trinh thám mạo hiểm kỳ tình.
Rầm rầm, bụng phi cơ chạm nền đất, một người đàn ông râu ria xồm xoàm, mặc đồ bay đen, quấn phu la đỏ, thân hình béo ú, từ trong ca-bin trèo ra, lắc lư, lắc lư, đoạn nhào xuống bãi cỏ.
Văn Bình nhìn thấy lưng áo hoa tiêu có lửa cháy. Chính vì sợ bỏng và sợ phi cơ phát nổ nên hoa tiêu liều mạng nhảy từ trên cốc-pít xuống nền ruộng.
Văn Bình thốc tới, vung tấm bạt che phủ hoa tiêu từ đầu xuống chân. Hoa tiêu nằm sóng soài dường như y bị thương nặng. Tấm bạt có tác dụng dập tắt lửa. Văn Bình cặp khối thịt đẫy đà của gã hoa tiêu vào nách, phóng như tên bắn ra khỏi vùng cháy. Trong cơn nguy biến, Văn Bình bỗng có một sức lực thiên thần, gã hoa tiêu Mỹ nặng xêm xêm 85 kí mà chàng cảm thấy nhẹ như bấc…
Chàng quăng gã hoa tiêu xuống sau một ụ đất cao nơi Tuyết Lê và thái tử Bô-kha đang núp. Mahan tiến sát theo sau, miệng bình chữa lửa chĩa vào đống thịt bất động còn cháy. Xì, xì…hơi tuôn ra đến đâu, lửa tắt ngúm đến đấy.
Khi ngọn lửa cuối cùng tắt ngúm trên bộ đồ phi hành đen của hoa tiêu thì cách ụ đất 10 mét một tiếng nổ long trời lở đất được phát ra, những bộ phận còn lại của phi cơ tan vụn thành trăm ngàn mảnh nhỏ đỏ ối bay tán loạn trong không gian mù mịt.
Đám cháy phi cơ không còn nữa, nhưng đám cháy xe díp mới bắt đầu. Lửa bắt vào đệm xe díp. Trong nháy mắt, những vật dụng cần thiết như súng ống, đạn dược, nhất là máy móc truyền tin…làm mồi cho thần lửa tàn bạo.
Văn Bình ngó đống lửa, vẻ mặt ngơ ngác. Đứng bên Mahan buông tiếng thở dài:
-Tưởng giữ được nó, ai ngờ …
Nằm trên đất, hoa tiêu cựa mình:
-Đa tạ các anh. Nếu không có các anh tôi đã bị thiêu sống.
Văn Bình xưng tên rồi hỏi:
-Anh duỗi thử tay chân xem sao.
Hoa tiêu đáp:
-Tôi chỉ bị bỏng nửa lưng dưới. Chắc cũng không sao. Nhưng chân trái thì nặng.
-Bỏng?
-Không. Bị gẫy.
Văn Bình xé ống quần của hoa tiêu, máu và thịt lầy lụa một khoảng từ bẹn xuống đến đầu gối. Chàng lấy vải băng buộc qua loa cho nạn nhân. Mahan nói:
-Xương chân bị gẫy, chắc anh đi không được. Chúng tôi sẽ làm cáng khiêng anh.
Hoa tiêu nghển cổ:
-Gấp quá, tôi không kịp mang máy vô tuyến xách tay. Các anh có phương tiện liên lạc riêng không? Tôi gửi điện về là trong vòng 25 đến 40 phút có phi cơ khác đến cứu. Anh em yên tâm, căn cứ vận tải tọa lạc ở gần đây…
Mahan lắc đầu ngao ngán:
-Máy của tôi cũng bị cháy tiêu như máy của anh.
-Nghĩa là bị cắt đứt liên lạc?
-Vâng.
Hoa tiêu thở dài một cách khổ sở. Văn Bình bận tìm tre làm băng ca nên không được chứng kiến cuộc đối thoại tuyệt vọng giữa hai người. Tuyết Lê bỏ mặc Bô-kha một mình bên đống lửa hầu tàn, lăng xăng rảo theo chàng. Bhu-tan là một xứ kỳ lạ, nơi nào có cây cối thì trùng trùng điệp điệp, hết rừng này đến rừng kia liên tu bất tận, hễ là bãi trống thì một bụi cây nhỏ cũng không thấy.
Mò mẫm một hồi Văn Bình bẻ được một đống cành tươi. Chàng sửa soạn bó lại thì Tuyết Lê xán đến bên. Chàng kinh ngạc nói:
-Anh dặn em ở lại săn sóc Bô-kha, em bám theo anh làm gì?
Nàng đáp:
-Để giúp anh.
-Hừ…giúp, em làm rộn thì có.
Tuyết Lê, giọng như khóc:
-Em cứ tưởng anh yêu em, anh không muốn xa em…
-Trời ơi…sắp chết cả lũ, còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện ái tình.
-Về phần em, em luôn luôn nghĩ đến.
Tuyết Lê ghì cứng Văn Bình. Thì ra từ lúc rời Lôi địa đến giờ, nàng rình rập cơ hội gần gũi chàng, ngoài sự dòm ngó của người lạ. Chú nàng kè kè một bên suốt lộ trình, đến Hang Cọp thì chàng phải đột nhập thiền viện giải cứu thái tử Bô-kha. Sự hiện diện của Mahan khá phiền phức, nhưng dầu sao Mahan là chú, khi bị tình yêu thôi thúc nàng có thể phớt lờ. Nàng khó thể phớt lờ sự hiện diện của Bô-kha, phương chi lại còn gã hoa tiêu CIA bị gẫy chân nữa. Vì vậy nàng ôm hôn Văn Bình với tất cả sự thương nhớ và chờ mong chồng chất. Văn Bình phải kéo tay nàng ra:
-Khổ quá, em ơi. Ruột anh đang rối như tơ vò.
Tuyết Lê cười:
-Anh cứ hay lo xa. Mình tạt vào rừng, trèo một ngọn núi là sang tới Sik kim. Dọc biên giới Sik kim, chú em có người quen. Mình có thể lấy ngựa về thẳng Nê-pal. Hoặc mình lẻn vào đờ-dông cách đây 3 cây số, mượn tạm ít súng đạn và máy liên lạc vô tuyến. Em làm hướng đạo giùm anh, nếu anh không chê em yếu đuối, em xin…
-Thôi em…Em nói toàn chuyện mộng mị.
-Rất thực tế, sao anh lại bảo là chuyện mộng mị. Em từng sống tại đây, em thuộc lòng như cháo đường vào đờ-dông, đường xuyên rừng, đường trèo núi. Em lại biết rõ tinh thần phục vụ của binh sĩ địa phương, tối đến là họ lăn ra ngủ, hoặc…
Chẳng nói chẳng rằng, Văn Bình ôm đống củi lên vai. Tuyết Lê lẽo đẽo chạy theo:
-Anh chờ em với. Anh dùng thuật khinh công thì em làm sao theo kịp. Đừng giận em, tội nghiệp. Em nói đúng, vùng này em rất quen, em không dám xạo đâu.
Văn Bình nghiêm nét mặt:
-Vấn đề được đặt ra không phải là em nói đúng hay xạo. Phút này anh chưa tiện giải thích. Dầu sao em cũng cần hiểu rằng tình hình rất nguy ngập: mạng sống của chúng mình bị đe dọa thì chẳng kể làm gì. Điều đáng kể là điệp vụ Hoa Sen khó thể thành tựu. Khi chưa có gã hoa tiêu bị thương, anh còn lo sốt vó. Giờ đây phải làm cáng khiêng hắn, phải chăm nom hắn…Không lẽ bỏ rơi hắn ở lại, mặc hắn chết, để thoát lấy một mình…
-Em chẳng hiểu gì cả, anh ơi.
-Đàn bà thường kỳ cục như vậy. Khi yêu thì cái chết cũng chỉ là trò đùa. Chỉ cần yêu, yêu, yêu…
-Ai cho phép anh mạt sát đàn bà chúng em?
-Xin lỗi.
-Không tha. Anh phải đền mới được.
-Ông chú đang nhìn. Em hôn anh lộ liễu, không nên.
Tuyết Lê vùng vằng:
-Ông chú yêu tự do, yêu lộ liễu thì không ai dám xía vào. Còn em…hừ, anh bắt nạt em vừa vừa chứ.
Mahan đỡ bó củi tươi từ trên vai Văn Bình xuống đất. Y hỏi chàng, giọng bực tức:
-Nó lại quấy nhiễu anh?
Văn Bình đáp:
-Không.
Rồi chàng lảng sang đề tài khác:
-Có tấm vải bạt và cuộn ni-lông, mình có thể buộc thành cái băng-ca. Thằng cha này quá mập, không biết những cành cây bé nhỏ này chịu nổi không.
Mahan uốn một cành rồi nói:
-Loại cây này giẻo và dai như tre. Anh nên nghỉ một lát. Để hai chú cháu tôi cột cáng cho.
Thái tử Bô-kha, như thường lệ, ngồi kiết già trên đất, hai tay chắp trước ngực. Văn Bình ân cần hỏi:
-Sắp phải xuyên rừng, đức ngài mệt lắm không?
Bô-kha đáp:
-Không. Tôi chỉ buồn lòng thôi. Các ông chưa hề giải thích tại sao lại gián đoạn thời kỳ tu dưỡng hàng năm của tôi, đang đêm dùng võ lực đưa tôi đi, nói là về Nê-pal. Một lần nữa, tôi yêu cầu ông cho biết: ông là ai? Việc bắt tôi được làm theo lệnh ai? Và bắt tôi như vậy với mục đích gì?
-Khi tới địa điểm an toàn, có thời giờ rộng rãi, tôi xin nói rõ. Đức ngài đã biết tôi là Z.28. Đức ngài cũng đã biết Z.28 phục vụ cho ai. Nghĩa là hai trong ba thắc mắc của đức ngài tự nó đã được trả lời. Còn câu hỏi thứ ba, thưa đức ngài, tôi đã trả lời rành rẽ khi còn ở vọng thiên đài. Nếu đức ngài muốn, tôi chỉ có thể báo cáo thêm chi tiết. Nhưng việc này chưa phải lúc, xin đức ngài cảm phiền.
Băng-ca được buộc xong. Văn Bình cắt cử Mahan dìu Bô-kha, còn Tuyết Lê phụ lực với chàng khiêng băng-ca. Hai đám cháy đã tắt. Chân trời đông hừng sáng. Cảnh vật vẫn im vắng. Tai nạn phi cơ với lửa cháy đỏ ối và tiếng nổ xé lỗ nhĩ tai không đủ sức làm kinh động giấc ngủ của binh sĩ và dân chúng ở xa. Không ai nói với ai tiếng nào. Phần vì mệt mỏi sau một đêm mất ngủ. Phần vì lối băng vào rừng gập ghềnh, lồi lõm, từng quãng ngắn bị hố sâu cắt đôi, bên dưới là lớp đá nhọn lởm chởm hoặc nước đỏ ngầu như pha tiết.
Vấn đề mất ngủ và đường xấu không mấy quan trọng đối với Văn Bình. Chàng lầm lì vì một lý do khác. Tuyết Lê đoán biết chàng đang suy nghĩ, và chàng giấu kỹ trong lòng một bí mật kinh hoàng. Vẻ mặt của chàng quá nghiêm nghị nên nàng không dám hỏi. Nàng cũng không dám làm nũng và cười duyên như thường lệ với chàng nữa.
Những tia nắng đầu tiên của ban mai chiếu xuống sườn đồi trọc làm hiện rõ vẻ hốc hác xanh mét của gã hoa tiêu. Thảo nào y nằm dán mình vào băng-ca, tuyệt nhiên không cử động mạnh. Vết thương nơi đùi đã hao phí quá nhiều máu, y đành cắn răng chịu đựng.
Vượt qua ngọn đồi trọc, mọi người đến một cánh rừng um tùm cây cối. Toàn những cây cao, thân lớn, cành lá chi chít, tương tự cây lim. Tính theo đường chim bay, mọi người đã rời khỏi nơi phi cơ bị nạn khoảng 8, 9 cây số. Nếu mặt lộ bằng phẳng thì tốc độ đi bộ trung bình là 5 cây số một giờ. Hai giờ đồng hồ đã trôi qua. Leo trèo, rẽ xuyên bụi rậm, đề phòng hầm hố, lại khiêng băng-ca, dìu người mù mà vẫn vượt được non 10 cây số, đủ biết sức lực đã được vận dụng triệt để. Văn Bình khoát tay ra hiệu cho Tuyết Lê dừng bước, đặt băng-ca xuống.
Nơi tạm nghỉ là một thác nước róc rách. Nước từ khe núi tuôn ra trắng xóa như giát bạc trên những tảng đá đen sì, nhẵn bóng. Dọc bờ suối là những bụi hoa đỏ giống như hoa mẫu đơn. Trên đầu là cây cao bóng mát. Một phía là núi. Uy nghi. Hùng vĩ. Bên kia là rừng tre. Ẻo lả. Dịu hiền.
Tuyết Lê dựa lưng vào gốc cây, thở giốc. Sự nhí nhảnh cố hữu nhường lối cho những cử chỉ chậm chạp, ủ dột. Nàng tháo giày, ngón chân út của nàng đọng máu bầm tím. Nàng xoa chân, mặt nhăn nhó. Nàng mới đi bộ mươi, mười lăm cây số. Trong trường hợp phải đi bộ một mạch tới vương quốc Nê-pal, chắc chắn nàng phải nằm cáng.
Nàng chỉ nhăn nhó mà không phàn nàn, rên rỉ. Nàng biết Văn Bình chưa thể quan tâm đến nàng. Văn Bình đang quỳ gối bên cạnh băng-ca, xem xét vết thương của gã hoa tiêu phì lũ. Người mập thường kém khả ái. Trái lại, gã hoa tiêu có những nét khả ái khác thường.
Văn Bình dùng dao ku-kri xén đứt những lớp vải chàng quấn quanh đùi nạn nhân hồi chưa sáng. Máu còn ri rỉ, bông băng đỏ lòm. Nếu chàng không có cách nào làm đông máu thì chỉ đến chiều hoặc đêm nay gã hoa tiêu chết vì hết máu.
Gã hoa tiêu nhìn Văn Bình, rơm rớm nước mắt. Y không cất tiếng, song lối nhìn của y cho thấy y muốn nói « thành thật cám ơn anh ». Văn Bình ngó quanh quất. Chàng để ý tới những bông hoa màu đỏ tía lớn bằng bàn tay xòe đang rung rinh trước gió.
Mahan hỏi:
-Anh tìm thuốc dấu?
Văn Bình đáp:
-Phải. Dường như đây là hoa cầm máu. Mấy năm trước, tôi săn thú trong rừng Át sam, một thổ dân dẫn đường bị trượt té, nhánh cây nhọn đâm suốt bả vai, máu chảy hoài không ngừng. Bạn hắn ra bờ suối hái hoa cầm máu nhá nhỏ, đắp lên vết thương là hết.
Mahan ngắt một bông hoa đỏ tía, đưa lên mũi ngửi:
-Tôi chỉ nghe người ta nói lại, chứ chưa được thấy tận mắt, và chưa được dùng. Có lẽ lớp băng hồi nãy bị lỏng. Theo thiển nghĩ, mình buộc thật chặt là máu đông lại ngay.
Văn Bình không trả lời bạn. Chàng mân mê cánh hoa sù sì trên tay, bâng khuâng hồi tưởng lại những điều đã học trong sách vở và trong trường đời về hiện tượng đông máu. Đành rằng buộc chặt vết thương có thể làm đông máu nhưng đó không phải là lối điều trị tận gốc. Lấy mũi dao chích vào da thịt, máu chảy ra. Ở người bình thường, nó chỉ chảy trong vòng từ 3 đến 6 phút thì ngừng. Sự đông máu hoặc loãng máu tùy thuộc vào 30 hóa chất kỳ lạ được tìm thấy trong máu người. Hồi ở Át sam, một thổ dân hoàn toàn mít đặc về kiến thức khoa học, nhai mấy cánh hoa đỏ hệt hoa mẫu đơn là trong khoảnh khắc máu ở vết thương sâu hoắm tụ lại thành cục.
Không suy nghĩ thêm nữa, Văn Bình vò nát đóa hoa, sửa soạn đút vào miệng. Mahan cản lại:
-Thong thả, anh ơi. Anh để tôi thử mấy cái nấm kia đã nào. Nếu nó quả là hoa cầm máu, tại sao dưới gốc nó có nấm độc…
Những người đi rừng quen không thể không biết tới nấm độc. Muốn nhận diện phải căn cứ vào hình dáng, màu sắc và mùi vị của nó. Một số thợ săn mang theo một vật bằng bạc thật, đem nấm luộc chín nếu thả bạc bị nám đen tức là nấm độc. Tuy nhiên, cách thử nghiệm thô sơ này chỉ hữu hiệu đối với một vài loại nấm độc.
Có mấy trăm thứ nấm độc, nhưng đại để chúng được phân làm 4 loại chính (2). Loại ít độc dược dùng làm thuốc giết ruồi nhặng, và bùa mê thường mọc dọc đường và trong rừng thông. Kế đến loại làm lủng ruột do một chất nhựa tiết ra. Hai loại còn lại chuyên tác động trên máu (3).
Mahan hỏi:
-Kiến thức về nấm độc của tôi chưa được tinh vi…Do đó tôi không dám quả quyết…
-Là độc hay không độc?
-Không rõ lắm. Tốt nhất là vứt bỏ đừng dùng.
-Tôi rất muốn nghe theo lời anh, kẹt một nỗi vết thương của anh bạn CIA, cứ tiếp tục chảy máu. Anh chờ tôi một lát…
Văn Bình chích đầu ngón tay hứng máu vào một cái rãnh của lưỡi ku-kri, đoạn chàng nghiền một miếng nấm ra nhựa đen, lấy trộn với máu. Nếu quả là nấm độc, nó chỉ có thể là giống có acit hel-vê-la-ic có tác dụng phá hủy hồng huyết cầu, và trong trường hợp ấy những giọt máu đỏ tươi của chàng bắt buộc phải chuyển sang màu đen ảm đạm. (4)
Văn Bình châm thuốc hút, chờ đợi. Sau 5 phút, màu đỏ vẫn không biến đổi. Chàng nói với Mahan:
-Nấm không độc, anh để tôi làm thuốc cho kịp.
Mahan phản đối vô ích vì miệng Văn Bình đã nhai lúng búng. Đặc tính của hoa cầm máu chỉ được hoàn toàn phát hiện với nước miếng. Giã nhỏ với nước lạnh hoặc với rượu, nó trở thành vô hiệu. Tuyết Lê ứa nước mắt:
-Anh liều quá, anh ơi. Lát nữa anh chết vì nấm độc, chắc em sống không nổi.
Văn Bình phì cười:
-Nếu có chết cũng còn lâu. Từ 3 đến 6 ngày.
Văn Bình nói đúng, loại nấm độc nhất cũng là loại nấm tác động chậm nhất, từ 3 đến 6 ngày, và thường rất khó chữa.
Tuyết Lê ôm chàng khóc như mưa. Chàng tát nhẹ má nàng:
-Bảo đảm với em anh sẽ không chết vì nấm.Khi nào anh chết thì kẻ đầu độc là em.
Tuyết Lê đấm thùm thụp vào lưng Văn Bình. Nàng luôn luôn có thái độ ngây thơ gần như trẻ con. Mahan quắc mắt:
-Con quỷ này…
Gã hoa tiêu mở mắt, nụ cười tươi nở trên làn môi sám ngoẹt vì mất máu:
-Chúng mình đều là người thân cả. Tôi rất mến cô Tuyết Lê.
Văn Bình đắp miếng hoa cầm máu nhai nhỏ vào vết thương của gã hoa tiêu. Nụ cười của y sáng hẳn. Y nhanh nhẩu tự giới thiệu:
-Bạn bè thường gọi tôi là Huy-gô…Vì trong đám phi công phục vụ ở các căn cứ vận tải hải ngoại tôi là người có nhiều triển vọng nối nghiệp nhà văn hào Pháp này nhất.(5).
-Anh còn là văn sĩ?
-Đâu có. Đây là nói thuần túy về ái tình. Dư luận chỉ để ý đến khía cạnh viết văn, làm thơ nổi tiếng của Huy-gô mà quên bẵng một sắc thái khác: ái tình. Một đêm, 8 lần lên cõi tiên. Khi ấy cụ già Huy-gô đã 83 tuổi, sắp sửa chết. Hồi còn trẻ thì gấp đôi con số là chuyện thường. Tôi mang tên Huy-gô là vì…là vì tôi không thua ông ta hồi còn trẻ, nhiều khi còn cừ khôi hơn nữa.
Tuyết Lê chỉ mặt Huy-gô, giọng nửa đùa nửa thật:
-Ông bị què một chân như vậy hợp lý lắm rồi. Cầu mong người ta sẽ cưa nốt chân kia của ông. Biết ông là cháu chắt của cụ Huy-gô, tôi đã thả cái băng-ca xuống suối cho ông tắm mát luôn dưới nước.
Mahan chép miệng, ngao ngán:
-Lại nó. Lúc nào cũng nó. Lúc nào cũng cái miệng phát ngôn bừa bãi của nó. Anh Huy-gô, anh đừng giận nhé. Cháu gái tôi phải cái tính ăn nói không chịu suy nghĩ.
Hoa tiêu Huy-gô giơ hai ngón tay bắt tréo, ngụ ý phản đối:
-Cô Tuyết Lê lý luận rất xác đáng, tôi giận sao được.
-Nghĩa là anh thích què cả hai chân?
Mahan nói mát, không ngờ Huy-gô gật đầu:
-Không những thích què, giá bị nhận chìm dưới suối vì được yêu như văn hào Huy-gô tôi cũng không tiếc nuối. Cái tên Huy-gô được gán cho tôi từ 10 năm nay. Các anh nghĩ coi, 10 năm biết bao tháng, ngày, giờ, phút. Chỉ một sao, một tích tắc đủ thay đổi cuộc đời, huống hồ những 10 năm. Cách đây 3 năm, đột nhiên tôi chẳng còn gì nữa. Tá hỏa tam tinh, tôi đi khám, y sĩ CIA chẩn hoài không thấy bệnh. Sau cùng suy đoán là hoạt động căng thẳng thần kinh của những phi vụ tiếp cứu trên vùng trời lạ đã ảnh hưởng trầm trọng đến khả năng sinh lý. Thêm vào đó là cái mốt mặc quần pát, quần xì gà bó mông quá chật. Y sĩ khuyên tôi đổi gió may ra phục hồi được phong độ cũ. Và tôi xin đổi gió qua đây. Ai gặp tôi, nghe những lời lẽ hoang đàng, nhất là khi hiểu gốc gác của hỗn danh Huy-gô cứ đinh ninh…
Chắt lưỡi một cách chua chát, Huy-gô nói tiếp:
-Cũng như anh chàng đương kim trú sứ giám đốc ở Tân đề-li…có tiếng mà chẳng có miếng.
Mahan nhướng mày:
-Ông Ađam?
-Phải. Hắn có hàng lô tên. Hồi ở Cao ly thì mang tên Pak-ro, qua Nam dương đổi thành Ma-lét. Đến Tân đề-li hắn mở tiệm bán đồ cổ Ađam. Ađam là người đàn ông đầu tiên trên trái đất.
-Tức đại tá Phờrôn?
-Phờrôn là tên cúng cơm do cha mẹ hắn đặt ra. Còn tên Tô-mát do anh em trong Sở tặng hắn hồi hắn sung sức kinh khủng. Các anh biết Tô-mát là ai không? Chắc không. Phải là dân Mỹ, và đọc kỹ lịch sử nước Mỹ mới biết rõ về ông già quái gở độc nhất vô nhị này. Theo ngu ý, cụ Tô-mát (Thomas Parr) bỏ xa cụ văn hào Huy-gô hàng chục vạn dặm. Ngày xửa ngày xưa, khi nước Mỹ mới lập quốc có một cụ già sung sức kinh khủng, đến tuổi mà nhiều người đã chết ra đất rồi, cụ còn khỏe như trai tơ. Cụ đi tò tí với vợ thiên hạ để bị bắt tại trận, ra tòa lãnh án tù. Cụ ngồi đúng 15 năm nhà đá về tội thông dâm. Năm cụ 115 tuổi được trả tự do, cụ liền lấy vợ, mãi 6 năm sau cụ mới chịu về chầu trời.
-Anh quen Phờrôn?
-Hơn quen nhiều bậc. Chính tôi lái phi cơ cho hắn nhiều lần trong thời gian hắn phục vụ ở Nam dương, và tôi là hoa tiêu thường trực của căn cứ vận tải CIA. Nhưng thôi, đừng gọi hắn là Phờrôn, tội nghiệp. Hắn chết rồi. Muốn hắn nằm yên dưới mộ nên gọi hắn là Tô-mát. Thuở sinh tiền hắn luôn luôn nghĩ đến cụ già Tô-mát và hy vọng có được một phần mười khả năng của cụ..
Mahan suýt đánh rơi con dao ku-kri cầm tay:
-Phờrôn chết? Phờrôn chết khi nào? Ai nói với anh? Chắc anh lầm, chúng tôi mới gặp nhau xong.
Giọng Huy-gô buồn buồn:
-Lẽ ra tôi không được phép tiết lộ. Nhưng Phờrôn là người bạn quá thân thiết. Hơn nữa, lộ trình qua Sik kim xa lắc xa lơ, tôi lại bị thương nặng, không chắc tôi còn sống. Trường hợp bất khả kháng này bắt tôi phải nói. Hồi ở Nam dương, ban vận tải CIA được lồng bên trong một hãng hàng không tư nhân nên tôi tiếp xúc với Phờrôn gần như hàng ngày. Nam dương là bạn, không phải thù, chúng tôi ít cần gìn giữ. Ngược lại, Ấn độ, Sik kim, và Bhu-tan ở sát Trung cộng, trú sứ và căn cứ vận tải 906 phải tách rời nhau, không ai được biết ai. Ông Sì-mít đã ban nghiêm lệnh: ai muốn thăm hỏi, truyện trò tâm tình thì đợi đến khi về Hoa thịnh đốn. Do đó, tôi được tin Phờrôn giữ chức trú sứ mà không dám nói chuyện, và không có dịp gặp mặt.
Hồi khuya, văn phòng ông tổng giám đốc Sì-mít gứi điện cho chúng tôi yêu cầu đi tiếp cứu các anh. Tôi sửa soạn trèo lên phi cơ thì có một chỉ thị khác: tôi phải đi Tân đề-li nhận chức vụ quyền giám đốc trú sứ thay cho Phờrôn đã chết. Vì căn cứ vận tải không còn hoa tiêu nào quen đường, và nhiều kinh nghiệm bằng tôi. Pi-ô muốn tôi làm xong việc này rồi…
-Pi-ô?
-Chỉ huy trưởng căn cứ vận tải 906.
-Giám đốc trú sứ Phờrôn bị ám sát?
-Tôi không hiểu rõ lắm. Bức điện của ông Sì-mít chỉ nói rằng trước khi tự vẫn để bảo vệ những bí mật của điệp vụ Hoa Sen, trong đó có tính mạng của những bạn đồng nghiệp đang mắc kẹt ở Bhu-tan, giám đốc Phờrôn đã đề nghị tên người thay thế. Chẳng hiểu sao Phờrôn lại đề nghị tôi. Tôi tưởng như mọi lần, alê hấp, phi cơ bay đến nơi, lượn vài vòng đáp xuống ngon ơ, rồi bốc toàn thể lên, phóng thẳng đi Nê-pal…Té ra tôi bị nạn. Một vụ cháy lãng xẹt…
Văn Bình và Mahan nhìn nhau. Mahan cúi mặt xuống đất. Những giọt nước mắt long lanh trên má Huy-gô. Con người coi cái chết là trò đùa, con người tưởng như khô khan đến tàn nhẫn ấy lại thường là con người tràn trề tình cảm, con người dễ vui, dễ buồn, dễ khóc.
Lòng Văn Bình cũng buồn rười rượi. Chàng mới quen Phờrôn nhưng một đêm chung đụng trên phi cơ giữa những trận cuồng phong kinh hoàng đã lưu lại cho chàng nhiều kỷ niệm da diết. Chàng không dè Phờrôn mắc bệnh bất lực, bệnh ác độc đối với đàn ông. Chàng không dè Phờrôn quá can đảm. Trong thời gian qua, có lần chàng đã nghi ngờ khả năng sinh lý của Phờrôn…
Tuy nhiên, điều chàng lo lắng nhất là những nguyên nhân dẫn Phờrôn đến cái chết. Chẳng còn gì để rụt rè nữa: điệp vụ Hoa Sen đã bị lộ. Bị lộ từ đầu đến cuối.
Bần thần, Văn Bình ngó về phía thái tử Bô-kha. Thái tử vẫn đắm mình trong sự cầu nguyện. Thái tử ngồi xây lưng lại, tấm áo vàng bạc màu bị rách nhiều chỗ. Một gốc cây sù sì che khuất nửa lưng đức ngài. Bất giác Văn Bình liên tưởng đến con đường từ Bhu-tan về Nê-pal. Nói là con đường, thật ra chẳng có gì ráo. Bhu-tan có lẽ là quốc gia độc nhất trên thế giới không có bản đồ. Mạnh ai nấy đi. Đi mò mẫm gần như người mù. Địc hình địa vật cực kỳ hiểm trở khiến cho khách bộ hành lầm lẫn. Nhiu người cặm cụi cất bước từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn thì chao ôi, ngọn núi hồi sáng vẫn nằm trong tầm tay. Đinh ninh vượt được ba, bốn chục cây số, kỳ dư chỉ được một phần mười. Trèo một mỏm núi mất 2 ngày là thường vì núi ở đây luôn luôn cao trên ba ngàn mét, và dựng đứng như bức tường. Đường lên đỉnh Evơrét tương đối dễ ăn hơn ở đây. Mà những mỏm núi này có ít cho cam. Cả chục mỏm núi tương tự. Mới đó trời nắng chang chang, bồ hôi chảy đầm đìa, khí hậu đã đổi khác, tứ phía toàn tuyết và băng lạnh buốt thấu xương … Rồi nóng. Rồi lạnh. Cứ như thế đến khi khách mệt nhoài.
Bỗng Huy-gô thốt ra tiếng « ối chao ». Hắn định trở mình thì da thịt bị dính vào vải bạt kéo rách một mảng lớn làm hắn đau đớn. Khi ấy Văn Bình mới nhớ Huy-gô bị nhiều vết bỏng ở lưng. Bệnh trạng của hắn đòi hỏi một sự săn sóc tiện nghi và tốn kém. Hắn cần được chích thuốc trụ sinh, tiếp huyết thanh và rửa vết thương đúng phép để ngừa nghiễm trùng. Với bụi đất, nước suối độc và cuộc hành trình kiệt sức, Huy-gô sẽ tắt thở dọc đường…
Mahan đề nghị:
-Chúng mình lên đường được chưa?
Văn Bình đặt một bàn tay lên vai Huy-gô:
-Nếu không lạc đường thì từ đây về đến Nê-pal mất chừng một tuần. Nhược bằng lạc đường thì chưa biết bao lâu. Và một tuần là đối với người khỏe mạnh, có đầy đủ lương khô mang theo. Chúng mình thiếu hẳn những điều kiện cần thiết. Vì thế tôi đề nghị anh nằm lại đây chờ…
Huy-gô nói:
-Công việc trên hết, các anh cứ đi, đừng quá bận tâm về tôi.
-Không thể được. Đã đành công việc là trọng, nhưng chúng mình không thể bỏ nhau. Mahan, thái tử và anh ở lại. Tôi và cô Tuyết Lê tìm cách đột nhập đờ-dông gần đây. Chúng mình cần ngựa tốt, khí giới, thuốc men và đồ ăn. Kiếm được điện đài thì tốt. Tôi nghĩ là Trung ương CIA và căn cứ vận tải 906 đang đợi tin tức của chúng mình. Anh nghĩ sao?
Huy-gô không đáp. Y ngoẹo đầu để che dấu sự xúc động.
Có tiếng chân người rầm rập. Thì ra Tuyết Lê đang ba chân bốn cẳng từ rừng tre phóng tới đến gần Văn Bình. Nàng thở giốc, nói mãi mới thành tiếng:
-Anh ơi…lính…lính…
Trong rừng tre có một mô đất cao, Văn Bình yêu cầu Tuyết Lê đến đó để quan sát toàn vùng. Nàng vắng mặt chưa đầy 15 phút thì hốt hoảng chạy về.
Văn Bình hỏi:
-Lính nào?
Sau khi vuốt ngực, Tuyết Lê mới nói được rành mạch:
-Binh sĩ…quân xa…họ khá đông. Họ đậu xe dưới xa, và đang tiến lên đây. Vị trí của mình đã bị họ khám phá. Phải rút nhanh mới có hy vọng trốn thoát.
Văn Bình chỉ một khe núi đen ngòm bên kia bờ suối:
-Chúng mình rút về phía đó.
Thái tử Bô-kha lập cập được mấy bước thì ngã. Mahan quên bẵng Bô-kha khiếm thị, không nhìn thấy đường. Cuống quít, hắn lôi Bô-kha đi như chạy khiến Bô-kha mất trớn. Văn Bìnhbèn hạ băng-ca, trao cho Mahan:
-Để tôi cõng đức ngài.
Bô-kha từ chối:
-Phiền ông nhiều quá. Tôi đang còn lết nổi.
Một cơn gió mạnh từ phía dưới thổi lên mang theo tiếng lào xào. Tiếng của toán lính rượt đuổi. Văn Bình nghe rõ mồn một khẩu lệnh ngắn bằng thổ ngữ Bhu-tan:
-Mau lên, mau lên, kẻo không kịp.
Văn Bình không thể chần chờ thuyết phục thái tử Bô-kha. Chàng điểm nhẹ huyệt nách của thái tử, rồi chàng ôm gọn Bô-kha trong tay.
Tai nạn này chưa qua, tai nạn kia đã tới. Về khoản tai nạn, có lẽ ít điệp vụ nào có nhiều tai nạn rồn rập điên đầu bằng điệp vụ Hoa Sen.
Chú thích:
(1) Skybaby là phi cơ nhẹ nhất thế giới, do công ty Ray Stits, Hoa Kỳ sản xuất năm 1952, dài gần 3m, nặng vỏn vẹn 200kg, động cơ phát ra 85 mã lực, tốc độ tối đa 300 cây số-giờ.
(2) loại ít độc nhất, Amanita muscaria, rồi đến Lactarius.
(3) 2 loại tác động trên máu là Amanita phalloide (còn được gọi là nấm tử thần), và nấm Helvella có chất acit hellvellaie.
(4) cách thử nghiệm này được một số người đi rừng áp dụng, song không được khoa học gia công nhận là chính xác.
(5) tức đại văn hào Victor Hugo (1802-1885).